Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Phân chia di sản thừa kế theo quy định Bộ Luật Dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỮU THÀNH

PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỮU THÀNH

PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số

: 06.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. PHẠM KIM ANH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận
văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Ngoài ra, trong luận văn có sử
dụng một số nhận xét, đánh giá, bình luận, cũng như số liệu của các tác giả khác
nhưng đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hữu Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………..……………………………………..…………...1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ DI SẢN
THỪA KẾ VÀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ ................................................. 7
1.1. Khái niệm về di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế ................................. 7
1.2. Quy định của pháp luật về di sản thừa kế ....................................................... 12
1.3. Phân chia di sản thừa kế ................................................................................. 22
1.4. Hạn chế phân chia di sản thừa kế. .................................................................. 31
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI SẢN
THỪA KẾ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI
SẢN THỪA KẾ. ...................................................................................................... 33
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế............................. 33
2.2. Một số khó khăn vướng mắc và nguyên nhân khi áp dụng pháp luật phân chia
di sản thừa kế ......................................................................................................... 52

2.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân chia di sản thừa kế và tổ chức
thực hiện nhìn từ góc độ áp dụng pháp luật........................................................... 56
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 67


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

LHN & GĐ

: Luật hôn nhân và gia đình

TTDS

: Tố tụng dân sự

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TT

: Thông tư


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và quy
định trong Bộ luật dân sự Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền
kinh tế thị trường làm cho xã hội luôn thay đổi từng ngày, từng giờ nên pháp luật
hiện hành vẫn chưa thể dự liệu hết những tình huống xảy ra trên thực tế.
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên
phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của các cá nhân, việc áp
dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các
vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến
truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, một
trong những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật để
giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn đề phân chia di sản thừa kế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một
số nội dung về "Phân chia di sản thừa kế theo quy định Bộ Luật Dân sự năm 2015"
để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng, cấp
bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Phân chia di sản Thừa kế là một chế định quan trọng của Bộ luật dân sự,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
những người được hưởng di sản thừa kế. Lần đầu tiên chế định thừa kế được quy
định trong Bộ luật dân sự năm 1995 khá đầy đủ và hoàn thiện nhất. Sau 10 năm áp
dụng, có những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 đã không còn phù hợp với
điều kiện thực tế, một số điều khoản đã không phát huy được tác dụng tích cực
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó có những quy định về thừa kế.
Năm 2005, nhà nước lại ban hành Bộ luật dân sự bổ sung, sửa đổi thay thế Bộ luật
dân sự năm 1995. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã được cụ thể hóa tương đối hoàn
thiện và tồn tại khá ổn định qua thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, các quy định về thừa
kế nói chung và vấn đề phân chia di sản thừa nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất
1



cập, gây khó khăn trong việc giải quyết các vụ việc về phân chia di sản thừa kế
trong thực tế. Để phù hợp với tình thực tế hiện nay, Bộ luật dân sự 2015 đã được
thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII ngày 24/11/2015 có hiệu lực ngày
01/01/2017.
Bộ luật dân sự 2015 đã có nhiều đột phá quan trọng, góp phần triển khai thi
hành các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, đặc biệt thể hiện tinh thần của
Hiến pháp năm 2013, các cam kết quốc tế của Việt Nam về tôn trọng, công nhận,
bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự, xây
dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế. Qua đó, phát huy được vị trí, vai trò của Bộ luật dân sự
thực sự trở thành luật chung, luật nền của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách
nhiệm giữa các bên tham gia; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp
luật của Nhà nước ta.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về thừa kế ở nước ta hiện nay chủ yếu tập
trung vào một số khía cạnh cụ thể trong chế định về quyền thừa kế như: thời điểm mở
thừa kế; Di chúc chung vợ chồng; Những người được hưởng di sản không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc… Một số bài viết chỉ tập trung phân tích, bình luận một tranh
chấp cụ thể như tranh chấp về xác định chủ thể hưởng di sản theo pháp luật, người thừa
kế thế vị hoặc chủ thể không được thừa kế theo pháp luật... Những bài viết có tính chất
nghiên cứu này được đăng trong các tạp chí chuyên ngành luật như: Tạp chí Tòa án
nhân dân, Tạp chí luật học, Tạp chí dân chủ và pháp luật.
Trước đây, vấn đề thừa kế đã được nghiên cứu khái quát ở một số sách và một
số tạp chí như: “ Hỏi đáp pháp luật về quyền Thừa kế” của Luật sư Bùi Văn Thấm
biên soạn với nội dung giải đáp các vấn đề cơ bản về thừa kế hay một số tạp chí
như: “ Mối liên hệ giữa di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc với di
sản thừa kế theo di chúc’’ của Thạc sỹ Vũ Thị Lan Hương đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu pháp luật số 10 năm 2010 với nội dung chủ yếu là phân tích các quy
định trong thông tư 81 ngày 24/7/1981; Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và một số điều

2


trong Bộ luật dân sự 2005….Từ đó đánh giá, làm rõ vấn đề di sản thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc với di sản thừa kế theo di chúc hay trên tạp chí khoa
học pháp lý số 4 năm 2006 của Thạc sỹ Lê Minh Hùng có đăng bài “ Một số bất cập
trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung Vợ, Chồng” với nội dung phân tích một
số quyền lập di chúc chung vợ chồng được căn cứ theo Bộ luật dân sự 2005 và từ đó
đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung về vấn di chúc chung vợ chồng.
Ngoài ra, trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu như đề tài đề
tài khoa học cấp bộ năm 2006-2008 của Trường đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh,
do TS. Phạm Kim Anh làm chủ nhiệm đề tài “ Pháp luật thừa kế Việt Nam từ thế kỷ
XV đến nay” với nội dung chi tiết và bao quát gần như toàn bộ các vấn đề về thừa
kế từ thế kỷ thứ XV đến khi có BLDS 2005 hay luận án tiến sĩ luật học của Trần
Thị Huệ, năm 2007, Trường đại học luật Hà Nội, do PGS.TS. Đinh Văn Thanh và
TS. Đinh Ngọc Hiện làm hướng dẫn khoa học với đề tài“ Di sản thừa kế trong pháp
luật dân sự Việt Nam”, nội dung chủ yếu là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật
về thừa kế qua các thời kỳ để rút ra kết luận về những xu hướng hoàn thiện của
pháp luật, đồng thời so sánh, đối chiếu với pháp luật một số nước trên thế giới để
thấy được những điểm chung và điểm riêng trong vấn đề di sản thừa kế. Trên cơ sở
đó luận án đưa ra những kiến nghị, đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về di sản
thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật đối với di sản thừa kế và xác định di sản thừa kế trong thời kỳ đổi
mới.
Các công trình nghiên cứu có liên quan như:“ Những vấn đề lý luận và thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Toà án
nhân dân” công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2001 của Tòa án nhân dân
tối cao, do Tưởng Bằng Lượng phó chánh án TANDTC làm chủ nhiệm đề tài;
“Thừa kế theo pháp luật của công dân việt nam từ 1945 đến nay” luận án tiến sỹ
của Phùng Trung Tập, năm 2002, Trường đại học luật Hà Nội, do TS.Trần đình Hảo

và TS. Đinh Ngọc Hiện hướng dẫn khoa học;“ Bản án và bình luận bản án của”
của Đỗ Văn Đại Trường đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh chủ biên…
3


Các bài viết trên được nhìn nhận đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau về
những vấn đề liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên việc nghiên cứu một chế định riêng
về phân chia di sản thừa kế thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
chuyên sâu. Do vậy, Bộ luật dân sự 2015 vừa ban hành, đã giải quyết được một số
vướng mắc trong thực tế về vấn đề thừa kế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ hơn về phân chia di sản thừa kế,
tìm hiểu thực tế áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế
trong hoạt động xét xử của tòa án, tìm hiểu thực tế áp dụng pháp luật về phân chia
di sản thừa kế trong các văn bản Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế theo Bộ luật
dân sự 2015 và theo luật Công chứng 2014. Từ đó kiến nghị hoàn thiện chế định
phân chia di sản thừa kế cho phù hợp với tổng thể các quy định trong bộ luật dân sự
và đồng bộ hóa các quy định của ngành luật khác.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm sáng tỏ các quy định về thừa kế theo Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ
luật dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 .
- Phân tích, so sánh mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự với các quy định của
Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Luật sở hữu trí tuệ, Luật công chứng…
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về thừa kế trong thực tế,
phương hướng và cách thức khắc phục. Đề xuất một số ý kiến về việc ban hành các
quy định pháp luật liên quan đến thừa kế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận

Việc nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của đảng , Nhà nước ta
trong lĩnh vực thừa kế.
b. Phương pháp nghiên cứu
4


Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng ,duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh….Các
phương pháp này được sử dụng cụ thể như sau;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng chủ yếu trong
Chương 1 để tìm hiểu các khái niệm, phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật
hiện hành về giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế nhằm mục đích khái
quát hóa các quy định của pháp luật về vấn đề này, làm cơ sở cho việc đánh giá
pháp luật.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh giữa quy định của BLDS
2015 và BLDS 2005, ngoài ra cũng được sử dụng để so sánh mối quan hệ giữa Bộ
luật dân sự với các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, luật sở
hữu trí tuệ, luật công chứng .
- Phương pháp lịch sử: được sử dụng để nghiên cứu quy định của pháp luật
dân sự giải quyết tranh chấp di sản thừa kế qua các giai đoạn làm định hướng cho
việc hoàn thiện pháp luật hiện hành.
- Phương pháp thống kê: dùng để thống kê các số liệu có liên quan đến giải
quyết về phân chia di sản thừa kế trên thực tế làm cơ sở cho các kết luận, đề xuất
của luận văn.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các điều luật được quy định trong bộ luật dân sự

2015 về thừa kế; Các văn bản hướng dẫn về thừa kế; Các bản án……
b. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là so sánh những điểm mới về các quy định
phân chia di sản thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005 và một
số quy định khác của pháp luật về di sản thừa kế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5


Đề tài luận văn thạc sỹ“ Phân chia di sản thừa kế theo bộ luật dân sự 2015”
là một công trình nghiên cứu toàn diện về phân chia di sản thừa kế qua thực tiễn tại
các tổ chức hành nghề công chứng.
Luận văn đã giúp cho bản thân nâng cao được nhận thức, lý luận thực tiễn
đối với các vụ việc về giải quyết phân chia di sản thừa kế tại cơ quan và có thể làm
tài liệu tham khảo cho cá nhân, tổ chức muốn tìm hiểu pháp luật về phân chia di sản
thừa kế.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm ba phần: Lời mở đầu, nội dung và kết luận. Phần
nội chính được lập thành 2 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và qui định của pháp luật về di sản thừa kế và phân
chia di sản thừa kế
Chương 2 : Thực trạng áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế và
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phân chia di sản thừa kế.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ DI SẢN THỪA KẾ
VÀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ

1.1. Khái niệm về di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế
1.1.1. Khái niệm về di sản thừa kế
Để phân chia di sản thừa kế, trước hết chúng ta phải làm rõ về di sản thừa kế
là gì ? Di sản thừa kế là một vấn đề hết sức phức tạp, khi nói về di sản thừa kế, vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau. Từ xưa đến nay người Việt Nam ta có truyền thống
lao động cần cù, chịu thương chịu khó, trong mọi hoàn cảnh, trong bất cứ môi
trường nào. Dù gian khổ, khó khăn đến đâu cũng luôn nghĩ về gia đình. Chính vì
vậy mà trong suy nghĩ của họ là luôn cố gắng, phấn đấu làm việc để dành dụm, chắt
chiu để sau này cho con cháu đỡ vất vả.
Thuật ngữ“ Di sản” cũng được dùng từ đó, truyền từ đời này sang đời khác.
Ngoài ra thuật ngữ“Di sản” được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực hoạt
động của con người như : văn hóa, khoa học, kinh tế, chính trị...Ở tất cả mọi quốc
gia. Trong lĩnh vực pháp luật, các nhà làm luật sử dụng thuật ngữ này để chỉ di sản
thừa kế trong pháp luật dân sự [ 8, tr.21].
Quan niệm về di sản thừa kế có từ thời tục lệ, cổ luật, luật cận đại cho đến
hiện đại luôn có sự thay đổi về nhận thức, cụ thể như:
- Trước năm 1945 trong nhân dân ta có tục lệ“ Phụ trái hoàn tử ” là một tục
lệ chuẩn mực theo đạo đức phong kiến, tục lệ này quy trách nhiệm cho những người
được hưởng di sản thừa kế phải có trách nhiệm vô hạn đối với tài sản của mình để
thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại, cho dù tài sản của người chết để lại
không đủ để thực hiện nghĩa vụ về tài sản đó.
- Sau năm 1945 tục lệ“ Phụ trái hoàn tử ” đã được xóa bỏ bằng sắc lệnh 97SL ngày 22/05/1950 quy định là trước khi chia di sản của người cha hoặc người mẹ
đã chết cho các con thì phải thanh toán tài sản chung của vợ chồng. Quy định này
nhằm xác định phần tài sản của người vợ hoặc người chồng trong khối tài sản chung
của vợ chồng, phần còn lại là di sản của người chết được đem chia thừa kế.
7


- Thông tư số 594-NCPL ngày 27-08-1968 của TANDTC quy định: “Di sản
thừa kế bao gồm không những quyền sở hữu cá nhân về những tài sản mà người

chết đó để lại mà còn gồm cả những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản phát sinh do
quan hệ hợp đồng hoặc do việc gây thiệt hai mà người chết để lại ”. So với sắc lệnh
97-SL thì di sản thừa kế không những bao gồm tài sản, quyền tài sản mà còn bao
gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
- Thông tư số 81 của TANDTC ngày 24-7-1981 của Toà án nhân dân tối cao
quy định di sản thừa kế bao gồm:
+ Các tài sản thuộc quyền sở hữu của người để thừa kế về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt và những công cụ sản xuất dùng
trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ.
+ Các quyền về tài sản mà người để thừa kế được hưởng theo quan hệ hợp
đồng hoặc do được bồi thường thiệt hại.
+ Các nghĩa vụ về tài sản của người để thừa kế phát sinh do quan hệ hợp
đồng, do việc gây thiệt hại hoặc do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(Ví dụ: Một món nợ, một khoản bồi thường thiệt hại v. v...).
Theo quy định trên thực ra chỉ là cụ thể hóa quy định tại Thông tư 594 được
ban hành trước đó. Theo đó, nội dung di sản thừa kế được hiểu là bao gồm cả nghĩa
vụ về tài sản của người để lại.Tuy nhiên, có một đặc điểm dễ nhận thấy là quyền sử
dụng đất không phải là di sản thừa kế.
- Tại Điều 4 pháp lệnh thừa kế ngày 30-08-1990 quy định: "Di sản bao gồm
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung
với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại". Như vậy, Pháp lệnh Thừa
kế đã loại bỏ nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế ra khỏi di sản thừa kế.
Nghĩa vụ về tài sản sẽ được trừ đi khi xác định di sản, phần còn lại mới được tính là
di sản thừa kế. Thông tư 594; Thông tư 81 và Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân tối cao hướng dẫn thi hành pháp
lệnh Thừa kế thì quyền sử dụng đất vẫn không phải là di sản thừa kế. Hiến Pháp
năm 1992 được ban hành thay thế Hiến pháp năm1980, đã ghi nhận công dân được
8



quyền chuyển quyền sử dụng đất do Nhà nước giao và phải đến khi Luật đất đai
năm 1993 được ban hành thừa nhận công dân có quyền để lại di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất, thì từ thời điểm này (ngày 15/10/1993) di sản thừa kế mới bao
gồm cả quyền sử dụng đất.
- Ngày 01/7/1996, BLDS 1995 có hiệu lực thi hành, tại Điều 637 quy định:
"1- Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác. 2- Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và
được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này", theo quy trên
thì quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế. Tại khoản 1 Điều 640 quy định“
Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại”, ta thấy quy định trên chưa thật sự rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Cụ thể người hưởng di sản thừa kế có thể phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản
vô hạn do người chết để lại hoặc có thể thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại?
- Ngày 01/01/2006 BLDS 2005 có hiệu lực, tại Điều 612 quy định“ Di sản
bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản
chung với người khác”. Từ quy định trên ta thấy BLDS 2005 đã bỏ quy định tại
Khoản 2 Điều 637 BLDS 1995 là “Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và
được để lại thừa kế theo quy định tại phần thứ năm của Bộ luật này”, điều này
không có nghĩa là pháp luật không thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại di sản.
Quyền sử dụng đất vẫn là một loại di sản thừa kế vì theo Điều 735 Bộ luật dân sự
2005 quy định: “Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có thành viên
chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa kế
theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.” và Luật đất
đai 2003 thì quyền sử dụng đất là một loại tài sản và được để lại thừa kế.
Về vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được quy định tại
khoản 1 Điều 615“ Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác”. So với BLDS 1995 thì BLDS 2005 qui định cụ thể hơn về nghĩa vụ tài sản
9



mà người thừa kế phải thực hiện, cụ thể: BLDS 2005 đã bổ sung cụm từ“ Trong
phạm vi di sản do người chết để lại” và “ Trừ trường hợp có thỏa thuận khác ” đây
chỉ là sự thay đổi có ý nghĩa rất lớn về mặt pháp lý.
Về nguyên tắc, nghĩa vụ của người thừa kế đối với khoản nợ do người chết
để lại nằm trong giới hạn và theo tỷ lệ di sản mà họ nhận được từ người chết, nhưng
phạm vi này có thể không tương ứng với tỷ lệ di sản, thậm chí có thể lớn hơn phần
di sản mà người thừa kế thực tế được hưởng, nếu các bên có thỏa thuận khác. Đây
là qui định vừa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của những người thừa kế và
quyền lợi chính đáng của chủ nợ, vừa đề cao nguyên tắc tự định đoạt trong quan hệ
dân sự, khuyến khích con cháu của người chết thực hiện thay toàn bộ nghĩa vụ mà
người chết để lại, nhưng vẫn giữ được nguyên tắc “ Trả nợ không làm xấu đi tình
trạng của người thừa kế và món nợ mà người thừa kế phải gánh chịu không được
vượt quá di sản”. Mặt khác, nội dung điều luật trở nên mềm dẻo hơn, mở ra một
không gian tự do nhiều hơn để giữa nội bộ những người thừa kế với nhau và với
chủ nợ có thể tự thỏa thuận để thực hiện nghĩa vụ dân sự do người chết để lại, mà
không bị gò bó, cứng nhắc như qui định tương ứng của Luật cũ.
Xét quy định trên của pháp luật về di sản thừa kế từ trước đến nay luôn có
sự thay đổi và chưa có một văn bản nào đưa ra được khái niệm về di sản thừa kế mà
chỉ trực tiếp hoặc gián tiếp quy định về các thành phần của di sản thừa kế. Tuy
nhiên theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành, chúng ta có thể hiểu di sản thừa
kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người chết để lại, còn thừa
kế là việc dịch chuyển tài sản của người chết sang cho những người được hưởng
thừa kế. Tại Điều 105 BLDS 2015 quy định về di sản thừa kế là các loại tài sản
không bị hạn chế về số lượng, giá trị miễn là thuộc quyền sở hữu của cá nhân như:
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Hiện nay vấn đề di sản thừa kế được đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Thứ nhất: Vấn đề về nghĩa vụ tài sản của người chết để lại có nằm trong
phạm vi tài sản của người chết hay không ?


10


- Thứ hai: Vấn đề về tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết để lại có nằm
trong phạm vi tài sản của người chết hay không ?
- Thứ ba: Vấn đề về tài sản của người chết để lại không bao gồm các khoản
nợ mà người để lại di sản. Quan điểm này phù hợp với các quy định của BLDS
2005; BLDS 2015 vì thừa kế là thừa hưởng của cải của người đã khuất, chứ không
phải thừa hưởng các nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại. Tất cả những giá trị
không mang đến lợi ích cho người được hưởng thì không được coi là di sản.
Tuy nhiên xét về phương diện pháp luật thì những người thừa kế phải có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại [17,
Khoản 1, Điều 615 ] và đồng thời người hưởng di sản thừa kế có quyền từ chối
nhận di sản thừa kế nếu họ không nhận di sản thừa kế thì họ không phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
Trong thực tế, một người khi còn sống có quyền sở hữu tài sản và có thể còn
có nghĩa vụ về tài sản đối với người khác chưa thực hiện. Khi chết, những tài sản và
nghĩa vụ tài sản mà người này để lại là đương nhiên. Việc chia di sản thừa kế chỉ
được thực hiện sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại,
nếu nghĩa vụ về tài sản lớn hơn hoặc bằng giá trị tài sản thì lúc này sẽ không còn tài
sản để chia thừa kế.
Vì vậy, di sản thừa kế chỉ được dịch chuyển cho những người thừa kế hợp
pháp khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ tài sản của người chết để lại, nếu sau khi
thanh toán hết nghĩa vụ tài sản mà không còn tài sản cho những người hưởng thừa
kế hợp pháp thì lúc này không thể gọi là di sản thừa kế.
Tóm lại, di sản thừa kế là tài sản, các quyền tài sản, không bao gồm nghĩa vụ
tài sản của người đó để lại cho người thừa kế [ 1, tr.86].
1.1.2. Khái niệm phân chia di sản thừa kế
Hiện nay do sự phát triển kinh tế , xã hội dẫn đến tài sản tích lũy của mỗi cá

nhân và gia đình ngày càng nhiều. Vì vậy, các tranh chấp nói chung và các tranh
chấp liên quan đến vấn đề thừa kế nói riêng ngày càng tăng về số lượng đồng thời
mang tính chất phức tạp hơn. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế giữa các bên
11


chủ thể là xác định di sản và phân chia di sản thừa kế đúng để đảm bảo quyền, lợi
ích của những người được hưởng thừa kế.
Trong quan hệ thừa kế nếu chỉ có một người có quyền hưởng di sản thì họ là
sở hữu duy nhất của khối di sản sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài sản của người
chết để lại và cũng chỉ có mình họ phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản đó. Vì lẽ đó
mà việc phân chia di sản thừa kế chỉ đặt ra khi có ít nhất từ hai người trở lên có
quyền thừa kế đối với khối di sản của người chết để lại.
Vậy, phân chia di sản thừa kế là tập hợp các hoạt động nhằm xác lập quyền
sở hữu đối với phần di sản cho từng người một có quyền hưởng thừa kế trong khối
di sản chung sau khi đã thực hiện nghĩa vụ tài sản từ di sản. Chấm dứt tình trạng
nhiều người cùng có quyền được hưởng thừa kế từ một hoặc nhiều tài sản do người
chết để lại [1, tr.183].
1.2. Quy định của pháp luật về di sản thừa kế
1.2.1. Phân loại tài sản
Nhận thấy rằng tài sản đóng vai trò thiết yếu đối với nền kinh tế quốc dân và
đời sống xã hội. Vì vậy, pháp luật đã có những quy định để điều chỉnh, cụ thể tại Bộ
luật dân sự năm 2015 thì tài sản là một chế định quan trọng, trong đó phân loại tài
sản có ý nghĩa rất lớn về mặt pháp lý cũng như trên thực tiễn. Thông thường, theo
quy định của Bộ luật dân sự 2015, tài sản được phân loại theo một số tiêu chí sau:
Thứ nhất: Theo phương pháp liệt kê
Tại Điều 105 BLDS năm 2015 tài sản được liệt kê gồm: Tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản
Tuy nhiên, phân loại tài sản theo cách liệt kê trên hiện tại vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau về một số đối tượng như: Tài sản game online, khoảng không, hệ thống

khách hàng…Liệu những đối tượng trên có phải là tài sản thuộc một trong các loại
tài sản được liệt kê trên? Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế xung quanh cách
phân loại liệt kê trên về các loại tài sản nhưng cách phân loại trên có ý nghĩa rất lớn
trong việc ban hành những quy phạm pháp luật phù hợp điều chỉnh các loại tài sản.
Thứ hai: Dựa vào tính chất vật lý không thể di dời được về mặt cơ học, tài sản
được chia thành: Động sản và Bất động sản. Theo khoản 1 Điều 107 BLDS 2015
bất động sản là tài sản bao gồm: “ Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với
đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; Các tài sản
khác gắn liền với đất đai; Các tài sản khác do pháp luật quy định”. Trong khi đó

12


động sản tại khỏan 2 Điều 107 là: “Động sản là những tài sản không phải là bất
động sản”.
Như vậy, dựa vào tính chất vật lý của tài sản là di dời được hay không các nhà
làm luật đã chia tài sản thành bất động sản và động sản. Theo đó, bất động sản được
liệt kê thành đất đai và những tài sản gắn liền với đất đai và những tài sản khác theo
quy định của pháp luật, đây là một trong những quy định mở của pháp luật để dự
liệu những tài sản khác có thể trở thành bất động sản nếu đáp ứng được điều kiện về
tính chất vật lý như đã nêu trên. Đối với động sản được hiểu theo cách loại trừ
những tài sản không phải là bất động sản sẽ là động sản.
Thứ ba: căn cứ theo chế độ pháp lý đối với tài sản có 3 loại tài sản:
- Tài sản tự do lưu thông, tài sản cấm lưu thông và tài sản hạn chế lưu thông
- Tài sản tự do lưu thông là tài sản được tự do giao dịch. Ví dụ: quần, áo, giày,
dép...
- Tài sản cấm lưu thông là tài sản bị cấm thực hiện giao dịch. ví dụ: vũ khí, đạn
dược...
- Tài sản hạn chế lưu thông là tài sản được phép giao dịch nhưng phải có sự
kiểm soát hoặc cho phép của nhà nước. Ví dụ: vũ kí thể thao...

Thứ tư: Căn cứ vào hình thức biểu hiện của tài sản trong quá trình sử dụng thì
tài sản được chia thành: Tài sản gốc ( vốn) và tài sản phát sinh ( hoa lợi, lợi tức).
Tài sản gốc được hiểu là khi được sử dụng để khai thác công dụng mang lại những
lợi ích vật chất nhất định
Hoa lợi và lợi tức được quy định tại Điều 109 BLDS 2015. Theo đó, hoa lợi là sản
vật tự nhiên mà tài sản mang lại. Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác
tài sản.
Trên đây là một sô số tiêu chí để phân loại tài sản, ngoài ra trên thực tế còn nhiều
cách phân loại tài sản khác nhau như: Tài sản cố định và tài sản lưu động; Tài sản
hữu hình và tài sản vô hình
1.2.2. Xác định di sản thừa kế
Thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật, Nhà nước ghi nhận và bảo
hộ quyền sở hữu của cá nhân. Từ đó cá nhân có được các quyền năng trong sở hữu
là quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng. Lúc còn sống
một người có quyền sở hữu đối với những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, khi
họ chết thì có quyền để lại tài sản đó cho người khác còn sống. Thực hiện việc để
lại di sản là chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt thông qua một hành vi pháp lý.
Căn cứ theo Điều 612, BLDS 2015 xác định:“ Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác ”. Tài
13


sản riêng của người chết được hiểu là phần tài sản mà về phương diện pháp lý
không bị chi phối hay phải chịu một ràng buộc nào với các chủ thể khác trong việc
chiếm hữu, sử dụng và thực hiện quyền định đoạt [ 8, tr.99].
- Tài sản riêng của người chết : Là phần tài sản không bị chi phối về mặt
pháp lý, không phải chịu sự ràng buộc với các chủ thể khác trong việc chiếm hữu,
sử dụng và quyền định đoạt. Tài sản riêng được quy định tại điều Điều 612, BLDS
2015 xác định: “ Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác ”, Như vậy để xác định tài sản của

một cá nhân không nằm trong khối tài sản chung với người khác, không nằm trong
khối tài sản chung hợp nhất của vợ, chồng mà được xác định là: Độc lập trong sở
hữu chung theo phần, độc lập trong sở hữu chung hợp nhất được căn cứ theo khoản
1 điều 43 LHN&GĐ 2014 “ Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người
có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39
và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác
mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng ’’. Theo quy định
trên thì tài sản riêng của vợ, chồng được quy định theo các căn cứ sau:
+ Tài sản riêng của vợ, chồng có trước khi kết hôn: Trước khi kết hôn họ
không bị ràng buộc về mặt pháp lý, chưa phải là vợ chồng theo quy định của pháp
luật. Vì vậy tất cả những tài sản do công sức lao động của họ làm ra được pháp luật
thừa nhận thì tài sản đó là tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng.
+ Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân:
Là tài sản do ông bà, cha mẹ, bạn bè thân thuộc của vợ hoặc chồng định đoạt
thông qua hợp đồng tặng cho hoặc thừa kế hợp pháp.
+ Tài sản riêng của vợ, chồng có được khi chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân.
Căn cứ khoản 1 Điều 40 LHN&GĐ 2014 quy định trong trường hợp chia tài
sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ
14


trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài
sản chung của vợ chồng.
+ Đồ dùng, Tư trang cá nhân: Là tài sản riêng của người vợ người chồng
trong thời kỳ hôn nhân nhằm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu như công việc, học tập,
nghề nghiệp và các sinh hoạt khác của vợ chồng [8, tr.103].
Từ quy định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản riêng trên đây, một mặt

tôn trọng quyền sở hữu tài sản của vợ, chồng. Mặt khác tạo điều kiện cho mỗi bên
được hoàn toàn chủ động, độc lập thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép đối
với chủ sở hữu.
- Tài sản riêng của người chết trong khối tài sản chung với người khác
Là phần tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng hoặc nằm trong
khối tài sản thuộc sở hữu chung theo phần với nhiều người khác, tuỳ theo cách
thức và căn cứ xác lập nên các hình thức sở hữu đó.
+ Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng:
Tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ chồng tạo ra từ thu nhập lao
động, sản xuất, kinh doanh và các khoản thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn
nhân mà vợ chồng được thừa kế chung; Tặng, cho chung và những tài sản khác
được vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Những tài sản này là tài sản
thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, nếu bên nào chết trước thì bên kia yêu
cầu chia di sản thừa kế thì tài sản chung này được chia đôi một nửa thuộc sở hữu
của người chết, một nửa thuộc sở hữu của người sống.
+ Tài sản thuộc sở hữu chung theo phần:
Sở hữu chung theo phần cho phép xác định phần quyền của mỗi chủ sở hữu
như phần vốn góp trong công ty, phần vốn góp để kinh doanh, phần tài sản được
cho chung, được thừa kế chung của nhiều người. Khi người này chết thì những tài
sản này trở thành di sản thừa kế.

15


Ngoài ra còn có các quyền về tài sản mà người chết để lại giá trị được bằng
tiền như quyền bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm hợp đồng, quyền được
hưởng lợi từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng đất.
Các quyền khác không phải là di sản thừa kế như: Tiền trợ cấp thương tật;
tiền tuất; tiền cấp dưỡng; tiền lương hưu mà nhà nước trả cho người lao động có

đóng bảo hiểm xã hội, khi người lao động hết tuổi lao động thì được nhà nước trả
lương bằng chính tiền bảo hiểm của họ, khi người này chết thì nhà nước chấm dứt
việc trả lương cho người đó.
1.2.3. Thành phần của di sản thừa kế
- Trường hợp di sản người chết để lại bao gồm nghĩa vụ tài sản và cả phần di
sản thừa kế được xác định theo công thức sau:

- Trường hợp di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
di chúc, di tặng, di sản thờ cúng và di sản chia thừa kế như mô hình dưới đây:

16


[ 8, Tr.112]
+ Trường hợp( 2) và ( 3): áp dụng với người để lại di sản có lập di chúc và
tất cả các thành phần di sản thừa kế được người lập di chúc chỉ định rõ trong di
chúc, đồng thời có sự xuất hiện người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc ( Hưởng
2/3 một suất thừa kế theo pháp luật).
Từ các căn cứ nêu trên ta có các thành phần di sản và di sản thừa kế được
xác định như sau:

- Phần di sản để thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết
Theo quy định tại Điều 614 BLDS 2015 thì kể từ thời điểm mở thừa kế,
những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Những
quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của một người chấm dứt khi người đó chết và được
chuyển cho những người còn sống, trừ những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản gắn
với nhân thân người chết. Vì vậy, thời điểm mở thừa kế là mốc thời gian kể từ lúc
đó các quyền tài sản và nghĩa vụ của tài sản của người chết được chuyển cho những
người thừa kế của người chết. Nói cách khác, kể từ thời điểm mở thừa kế, những
người thừa kế có các quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản. Như

vậy, tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu
17


chung của những người thừa kế, những người thừa kế trở thành chủ sở hữu chung
những tài sản của người chết để lại sẽ phân chia những tài sản đó căn cứ theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại
phải xác định được người thực hiện nghĩa vụ thanh toán; Người thanh toán di sản;
Giới hạn của việc thanh toán; Thứ tự ưu tiên thanh toán;
Điều 658 BLDS 2015 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán các nghĩa vụ tài sản
và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế trong đó cần lưu ý:
+ Về chi phí mai táng cho người chết và chi phí bảo quản trông coi di sản:
Những chi phí này không được coi là nợ của người chết để lại mà là những khoản
liên quan đến di sản được phát sinh sau thời điểm mở thừa kế. Mặc dù đây không
phải là nợ của người chết nhưng khi thanh toán sẽ được lấy từ di sản của người chết
để lại. bao gồm: Chi phí lễ tang; Chi phí quản lý di sản; Chi phí kiểm kê tài sản; Chi
phí thuê để lấy tài sản từ người khác.
+ Về nghĩa vụ tài sản do người chết để lại: Là nghĩa vụ phát sinh khi người
chết còn sống. Các nghĩa vụ này được ưu tiên thanh toán trước và sau. Về nguyên
tắc thì tất cả các nghĩa vụ này đều phải được thanh toán. Ngoài ra Điều 658 BLDS
2015 có sự thay đổi về thứ tự so với Điều 683 BLDS 2005 cụ thể như:
- Khoản 9 điều 683 BLDS 2005 quy định về “Chi phí cho việc bảo quản di
sản” được đưa lên khoản 3 Điều 658 BLDS 2015, điều đó thể hiện các nhà làm luật
đã coi trọng các khoản chi phí cho việc bảo quản, duy trì và bảo đảm toàn vẹn cho
di sản; bảo đảm phần di sản mà từng người được hưởng.
- Khoản 7 điều 683 BLDS 2005 quy định về “Tiền phạt” được đưa xuống
khoản 9 Điều 658 BLDS 2015 và đứng sau “Khoản 8” là các khoản nợ khác đối với
cá nhân, pháp nhân. Ta thấy sự thay đổi này là hợp lý vì khi thanh toán tài sản phải
thanh toán từng nghĩa vụ một, nghĩa vụ tiếp theo chỉ được thanh toán khi nghĩa vụ
trước đó đã được thanh toán.

Như vậy, nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại cộng với những chi phí
khác liên quan đến di sản nhỏ hơn khối di sản mà người chết để lại thì di sản thừa
kế được xác định là phần còn lại sau khi lấy tổng tài sản trừ đi tổng các nghĩa vụ đó.
18


Ngược lại nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại cộng với những chi phí khác liên
quan đến di sản lớn hơn hoặc bằng khối di sản mà người chết để lại thì lúc này
không được coi là di sản thừa kế nữa [ 2, Tr. 1022].
- Phần di sản thừa kế dành cho những người hưởng di sản không phụ thuộc
vào nội dung di chúc
Theo lẽ thông thường, ý chí của người để lại di chúc luôn được tôn trọng và
tuân thủ một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích của một số người trong
diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục tập quán, truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc được thể hiện
ở khoản 1 Điều 644 BLDS 2015. Tức là không phải trong mọi trường hợp thì việc
chia di sản thừa kế phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người để lại di sản. Mục đích
của quy định này là nhằm bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ, vợ, chồng, con của người
để lại di sản trước những quyết định bất lợi đối với họ. Vì thế quy định này được
đánh giá mang tính nhân đạo sâu sắc.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 quy định: “ Con chưa thành niên,
cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động.” vẫn được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu
di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc
cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó. Vậy
làm thế nào để xác định 2/3 của một suất thừa kế theo luật, 2/3 suất thừa kế dựa trên
cơ sở nào ? tính 2/3 của một suất dựa trên phần di sản để lại theo di chúc hay theo
pháp luật hoặc là toàn bộ phần di sản của người chết để lại ? nếu một người đã được
hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì có được hưởng
di sản thừa kế theo pháp luật nữa không ? hiện nay pháp luật vẫn chưa quy định nên

dẫn đến việc xác định di sản chưa đồng nhất.
Ví dụ: Ông A có vợ là bà B có 2 con là C, D ( đều đã thành niên) . Trước khi
chết, ông A có để lại di chúc hợp pháp. Theo di chúc, C được hưởng 80 triệu đồng ;
D được hưởng 80 triệu đồng; 40 triệu còn lại để làm chi phí mai tang sau khi ông A
chết. Truất quyền hưởng di sản của bà B. Di sản được xác định là 200 triệu đồng.
19


Nếu bà B yêu cầu tòa án bảo vệ quyền hưởng di sản thừa kế của mình thì tình huống
trên được giải quyết như sau
+ Chia theo di chúc: 40 triệu đồng dùng làm chi phí mai táng; C=D=160: 2 =
80 triệu đồng, vậy C được hưởng 80 triệu đồng; D được hưởng 80 triệu đồng.
+ Chia theo pháp luật: Vì bà B là người được hưởng di sản thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc nên được xác định kỷ phần là: ( 180:3) x 2/3= 40
triệu đồng. Số tiền này được trừ từ phần di sản của C và D.
Từ cách tính như trên ta có công thức sau:

Trong đó, tổng di sản là toàn bộ di sản người chết để lại, không liên quan đến
việc định đoạt trong di chúc. Tổng người thừa kế theo luật là toàn bộ những người
thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản( Không tính những người bị tước bỏ,
bị từ chối, người chết trước, chết cùng thời điểm với người để lại di sản mà bản thân
họ không có người thừa kế thế vị). 2/3 suất thừa kế của một người thừa kế theo luật
được hiểu là nếu chia theo luật thì người này chỉ được hưởng 2/3 của một suất theo
luật đó ( một suất theo luật là chia để xác định là bao nhiêu sau đó nhân với 2/3 chứ
không phải là chia theo luật để ai hưởng)[ 6, Tr.51].
- Phần di sản dành cho di tặng
Căn cứ theo khoản 1 Điều 646 BLDS 2015 quy định:“ Di tặng là việc
người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải
được ghi rõ trong di chúc ”. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di
sản để tặng cho người khác, phần di tặng này có hiệu lực cùng với di chúc khi

người lập di chúc chết và mặc dù người được di tặng và người được hưởng thừa kế
có sự khác nhau về cách thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại nhưng
họ đều hưởng một phần di sản của người chết để lại theo di chúc. Người được di
tặng cũng phải đáp ứng yêu cầu như người thừa kế của người để lại di sản “ Người
20


×