Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN VĂN: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.1 KB, 95 trang )











LUẬN VĂN:
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao ở Việt Nam





MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mục tiêu về cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta xác định xây dựng một
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực.
Hoạt động xét xử, một trong những hoạt động áp dụng pháp luật, là nhiệm vụ chủ
yếu và thường xuyên của toà án nhân dân. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, đặc biệt là các chủ trương về đổi mới công tác tư pháp, hoạt động xét xử nói
chung và hoạt động giải quyết các vụ án về dân sự, trong đó có các án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật đã đạt được nhiều thành tựu. Những kết quả trong hoạt động xét xử về


phân chia di sản thừa kế thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân đã góp phần bảo đảm
quyền tự do, dân chủ và quyền sở hữu về tài sản của công dân; giữ vững trật tự, an toàn xã
hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, việc xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật vẫn còn để xảy ra nhiều sai sót, xét xử thiếu thống nhất, hoặc lúng
túng khi vận dụng pháp luật, các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do nhận thức chưa đầy đủ về
pháp luật của cá nhân và do sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp toà án.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản
thừa kế đã và đang đặt ra những yêu cầu mới vừa cấp bách và lâu dài, đòi hỏi không ngừng
nâng cao chất lượng xét xử, góp phần đáp ứng quá trình thực hiện cải cách tư pháp xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Do đó, việc nghiên
cứu lý luận về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án của toà án nhân dân là một nhiệm vụ cần thiết.
Trong bối cảnh đó, việc nhận thức lại những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
và nghiên cứu áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân là nhằm góp phần không ngừng nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng trong hoạt động xét xử; Vì vậy, học viên chọn đề tài:
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao ở Việt Nam làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong trong
hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế đã được giới khoa học pháp lý
và đặc biệt là những người làm công tác xét xử của ngành toà án quan tâm. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề trên đây với những khía cạnh và mức độ khác nhau: Áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay- Lê
Xuân Thân, Luận án tiến sỹ luật (2004); Cơ sở lý luận và thực tiễn của những qui định
chung về thừa kế trong Bộ luật dân sự- Nguyễn Minh Tuấn, Luận án tiến sỹ luật (2006);
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Toà án nhân dân các cấp ở

Việt Nam hiện nay- Chu Đức Thắng, Luận văn thạc sỹ luật (2004); Áp dụng pháp luật
trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án ma tuý ở Việt Nam hiện nay- Bùi Mạnh
Cường, luận văn thạc sỹ luật (2006); Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình của Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên - Hoàng Văn Hạnh, Luận văn thạc sỹ
luật (2006); Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt nam trong 60 năm qua- Phùng
Trung Tập, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2006; Một số vấn đề về thừa kế tiền gửi
ngân hàng- Nguyễn Thanh, Tạp chí Ngân hàng, số 17/2006; Cần xác định nội dung cụm
từ “những người có quyền thừa kế di sản của nhau” trong Điều 644 Bộ luật dân sự-
Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật học, số 2/2005; Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự
một số nước trên thế giới- Trần Thị Nhuệ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2006;
Quyền thừa kế trong luật dân sự La Mã cổ đại - Nguyễn Đình Huy, Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 4/2001; Những điểm mới của các qui định về thừa kế trong Bộ luật dân sự 2005 -
Lê Minh Hùng, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2006; Bàn về áp dụng pháp luật trong
công tác xét xử, Tạp chí Toà án nhân dân, số 5/2005…
Các công trình khoa học được liệt kê trên đây đã đề cấp đến việc áp dụng pháp luật
nói chung và áp dụng pháp luật của toà án trong một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, cho
đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu nghiên cứu một cách tương đối toàn diện

và có hệ thống vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam hiện nay; vì
vậy, đề tài của luận văn mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống cả về cơ sở lý luận
và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các án liên quan đến phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật ở Toà án nhân dân tối cao hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các
vụ án về phân chia di sản thừa kế trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng
pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án dân sự về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà án nhân dân tối cao. Từ đó, luận văn đề xuất các quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trọng hoạt động giải quyết các vụ án

về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao ở Việt nam hiện
nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết
các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật dưới góc độ lý luận Mác - Lênin về
Nhà nước và pháp luật; làm rõ những đặc trưng và vai trò của hoạt động áp dụng pháp
luật trong giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân
dân hiện nay.
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao trong thời gian qua, cũng
như làm rõ các nguyên nhân của những tồn tạị
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật;
góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án về phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao.
- Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành lý luận và lịch
sử về Nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp
dụng pháp luật, thực tiễn liên quan đến vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động giải
quyết các vụ án phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao.
Về mốc thời gian nghiên cứu, luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án
nhân dân tối cao từ năm 2005 (sau khi Bộ luật dân sự được công bố) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về Nhà nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, pháp chế; đường

lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân ở nước ta hiện nay; quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong thời kỳ mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, logic và hệ
thống…
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Với tư cách là một luận văn thạc sỹ, tác giả nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về việc áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Lần đầu tiên, tác giả luận văn có những đóng góp cơ
bản như sau:
- Xây dựng khái niệm, phân tích các đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án
nhân dân.

- Đã đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
án nhân dân tối cao ở nước ta hiện nay.
- Khái quát các quan điểm và đề nghị các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng pháp
luật có hiệu quả trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà án nhân dân tối cao trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về lý luận về áp dụng pháp
luật trong các cơ quan tư pháp, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho những người trực
tiếp làm công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng
dạy, tổng kết thực tiễn về áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử toà án nhân dân nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA
TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI SẢN
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI
CAO
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp
luật của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật

Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hoá
đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa [12, tr.143].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung do các cơ quan
nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo một trình tự thể hiện dưới một hình
thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá trình xây dựng xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Xét bình diện chung
nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm các
đường lối, chủ trương đó được triển khai và thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội,
để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; để nhân dân phát huy thực hiện quyền dân
chủ, các quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Pháp luật với tư cách là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động và ảnh
hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của kiến trúc thượng tầng pháp lý; pháp
luật có vai trò duy trì trật tự xã hội. Trong quan hệ với nhà nước, vai trò của pháp luật luôn

gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát huy được vai trò của
nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, quản lý, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đối với nhà nước, pháp luật là cơ sở để tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh của
quyền lực chính trị đồng thời pháp luật cùng là phương tiện để ràng buộc nhà nước nhằm
hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền của nhà nước, tránh cho nhà nước khỏi tình trạng hoạt
động tuỳ tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân. Pháp luật nói chung và pháp luật xã
hội chủ nghĩa nói riêng có vai trò và giá trị xã hội rất quan trọng mà không một công cụ,
phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có
thể thực sự phát huy hiệu quả khi các quy định của pháp luật được các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội, công dân thực hiện một cách tự giác, nghiêm minh. Do vậy, vấn đề
đặt ra là không phải chỉ có đủ các các văn bản pháp luật đáp ứng nhu cầu xã hội mà điều
quan trọng là pháp luật cần phải được thực hiện trong thực tế.

Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có tổ chức, có mục
đích của con người, là những hoạt động, những cách thức, quy trình làm cho các quy tắc
xử sự chung chứa đựng các quy phạm pháp luật trở thành hành vi, cách xử sự thực tế của
chủ thể pháp luật. Khi các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thì các quan
hệ xã hội trở thành các quan hệ pháp luật với các chủ thể mang quyền và nghĩa vụ pháp
lý tương ứng. Khi các chủ thể pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
mình sẽ làm phát sinh các hành vi pháp luật, hay nói cách khác, thực hiện pháp luật làm
cho các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật được thực hiện trong đời sống xã
hội.
Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia
thực hiện pháp luật thành những hình thức cụ thể như: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp
luật; sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ (tuân theo) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Chủ thể thực
hiện hình thức tuân thủ pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các
cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các

chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ
việc thực hiện các quy phạm pháp luật hôn nhân gia đình về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng con cái của cha mẹ… Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp luật này là tất
cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân
trong xã hội.
Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình (những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể
thực hiện). Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà
nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội. Đương
nhiên, vì quyền và tự do pháp lý là những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể thực
hiện nên chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền, tự do tuỳ
theo ý chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện.

Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua
các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của
pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những
quan hệ pháp luật cụ thể. Thông qua hình thức này ý chí của nhà nước được trở thành
hiện thực, nhà nước được thực hiện các chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công chức
nhà nước trong khuôn khổ pháp luật.
Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật mà mọi chủ
thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật
chỉ dành cho các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có quyền. Áp dụng pháp luật được
xem là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, nó vừa là hình thức thực
hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ
chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định pháp luật. Do vậy, áp dụng
pháp luật là hình thức rất quan trọng và được tiến hành trong các trường hợp sau:
- Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp luật
hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với tổ chức hay cá nhân nào đó.

Ví dụ: Một công dân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hành vi đã có đầy đủ các yếu tố
thành tội trộm cắp tài sản được qui định trong Bộ luật hình sự, không phải ngay sau đó
trách nhiệm hình sự mặc nhiên phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành các biện
pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có các hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
và những người có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối chiếu với quy định
của pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi vi phạm
và buộc người này phải chấp hành.
- Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc nhiên, phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. Ví dụ: Hiến pháp 1992
quy định lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân nhưng nhưng quan hệ pháp luật lao
động với những quyền và nghĩa vụ cụ thể giữa công dân với một cơ quan nhà nước chỉ

phát sinh khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng người đó
vào làm việc.
- Đối với một số quan hệ pháp luật nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm
tra giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc nhà nước xác nhận sự
tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: Uỷ ban nhân dân xã, phường trị trấn
chứng nhận di chúc hay chứng nhận việc đăng ký kết hôn [33].
Tóm lại, áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cán bộ công chức có thẩm
quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ
vào những quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt
những quan hệ pháp luật cụ thể.
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao liên quan đến các khái niệm có tính chất công cụ: di sản; thừa kế;
quyền thừa kế; thừa kế theo pháp luật và xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Vì vậy, để xây
dựng khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần phải làm rõ các khái niệm trên.

a, Di sản: Theo Từ điển tiếng Việt: Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại
[41].
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác" [31].
Di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có
tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những
quy định trước đây. Bởi lẽ, quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản được quy định
tại Điều 163 Bộ luật dân sự: "Tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" .
b, Thừa kế: Theo Từ điển tiếng Việt, thừa kế được hiểu là hưởng của người khác
để lại cho, hay được hiểu là: “Việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những

người còn sống” [10, tr.216]. Khái niệm này đã phản ánh chính xác bản chất cũng như
nội dung thừa kế.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và
sự phát triển của xã hội loài người. Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế cùng tồn tại
song song trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, chúng có mối liên hệ biện chứng
với nhau, chỉ đạo, chi phối lẫn nhau, cùng phát triển theo sự phát triển của xã hội loài
người.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay
trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Trong thời kỳ
này, quan hệ thừa kế chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội, việc thừa kế chỉ nhằm di
chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ
huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Khi nhà nước ra đời việc chiếm giữ của vật chất giữa người với người được
điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. Nhà nước đã sử
dụng pháp luật là công cụ để bảo vệ tài sản và quyền tài sản của người chết cho những
người còn sống, quy định quyền của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản của mình. Lúc này các quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu không chỉ
tồn tại một cách khách quan với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế nữa, mà những quan
hệ này đã bị ràng buộc bởi những quy phạm pháp luật và làm xuất hiện khái niệm

quyền thừa kế.
c, Quyền thừa kế: Nếu thừa kế là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan thì
quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý chỉ phát sinh khi có nhà nước và pháp luật. Nếu
thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa
có nhà nước và pháp luật, thì quyền thừa kế lại là một quan hệ pháp luật chỉ ra đời và tồn
tại trong xã hội đã phân chia giai cấp và dẫn tới sự ra đời của nhà nước.
Quyền thừa kế được xem xét rất nhiều góc độ. Với tính chất là một chế định pháp
luật dân sự, quyền thừa kế bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ
người chết sang cho người khác còn sống theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định

do pháp luật quy định. Đồng thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng như các phương thức
bảo vệ các quyền và nghĩa vụ đó của những chủ thể trong quan hệ thừa kế.
Với tính chất là một quyền năng dân sự, quyền thừa kế là những quyền năng cụ
thể của chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Đó là những khả
năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quy định của pháp luật: Được để lại di sản thừa
kế như thế nào, việc lập di chúc phải tuân thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản
thừa kế, khi nào thì bị tước quyền hưởng di sản thừa kế Trong các quan hệ về thừa kế, các
chủ thể chủ động hiện thực hoá những quyền năng đó để biến nó thành những quyền dân sự
cụ thể qua đó đáp ứng được nhu cầu và thực hiện được lợi ích cho bản thân mình.
d, Thừa kế theo pháp luật: Ở mỗi một chế độ khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất
của chế độ sở hữu, thông qua pháp luật, nhà nước quy định một chế định thừa kế và coi
đó là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân cũng như quyền lợi của giai
cấp lãnh đạo xã hội.
Trong nhà nước chủ nô, quyền để lại thừa kế về nô lệ của giai cấp chủ nô là sự
chuyển lại quyền sở hữu đối với những "công cụ biết nói" và cũng chính là sự truyền lại
quyền lực chính trị để duy trì sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ.
Trong nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, giai cấp bóc lột sở hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và di sản mà họ để lại cho con cháu cũng chính là những
di sản ấy, việc thừa kế chỉ là sự thay thế kẻ thống trị này bằng kẻ thống trị khác trong

cùng một giai cấp mà thôi.
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao
động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho
những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong
những phương tiện để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ
quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích
của người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.
Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội.

Pháp luật hiện hành quy định “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài
sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản
theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 631 Bộ Luật Dân sự).
“Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa
kế do pháp luật quy định” (Điều 674, Bộ Luật Dân sự). Thừa kế theo pháp luật được áp
dụng trong những trường hợp sau đây: không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những
người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở
thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng
đối với các phần di sản sau đây: phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di
sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên
quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ
chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên
quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời
điểm mở thừa kế” (Điều 675, Bộ Luật Dân sự)
Như vậy, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người
còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ
với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và
ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật
dân sự của tất cả các nước trên thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là

một phương thức bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
Nói tóm lại, quyền thừa kế là một chế định của Luật dân sự, bao gồm tổng hợp
các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn sống dựa
trên cơ sở ý chí của người để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật.
e, Phúc thẩm dân sự là “việc toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,
quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo kháng
nghị”[11, tr303].

Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao ở nước ta là việc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xem
xét, giải quyết các tranh chấp về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật trên cơ sở những
vụ án về phân chia di sản thừa kế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của Toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật
tố tụng; việc xét xử của toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao về phân chia di sản thừa
kế theo pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của pháp luật tố tụng dân sự và
phải trải qua các giai đoạn cụ thể như: Chuẩn bị khai mạc tiên toà và thủ tục bắt đầu
phiên toà phúc thẩm; thủ tục xét hỏi tại phiên toà và tranh luận tại phiên toà phúc thẩm;
nghị án và tuyên án. Hội đồng xét xử phúc thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao có thể ra một trong các quyết định sau: giữ nguyên bán án sơ thẩm; sửa bản án sơ
thẩm; huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ
án dân sự hoặc huỷ bản án dân sự và đình chỉ giải quyết vụ án.
Từ những vấn đề lý luận được phân tích (ở mục 1.1.1.2) có thể đi đến khái niệm
áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao như sau: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là việc thực hiện pháp luật của Hội đồng xét
xử phúc thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao trên cơ sở bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp tỉnh về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị để ra một trong các quyết định tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử bảo đảm

quyền định đoạt về tài sản và quyền thừa kế của công dân, không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
1.1.2.1. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Thứ nhất: Áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thực hiện quyền lực của nhà nước
trong thực tế, cụ thể là:

Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành thông qua cán bộ công chức nhà nước và thực
hiện trong phạm vi thẩm quyền được giao ở một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất
định. Trong qua trình áp dụng pháp luật cơ quan áp dụng pháp luật phải tiến hành mọi
khía cạnh, mọi chi tiết và phải xem xét thận trọng, dựa trên cơ sở những quy định, yêu
cầu của pháp luật đã được xác định để ra quyết định cụ thể. Như vậy, pháp luật là cơ sở
xuất phát điểm để cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức
năng của mình.
Việc áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục khẳng định ý chí của nhà nước đã
thể hiện trong quy phạm pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với pháp
luật hiện hành. Trong lĩnh vực tư pháp, áp dụng pháp luật được các cán bộ công chức nhà
nước có các chức danh pháp lý như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán…tiến hành.
Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể bị áp dụng pháp luật,
với tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, quyết định áp
dụng pháp luật được bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
Thứ hai: Việc ban hành một quyết định áp dụng pháp luật phải thực hiện thông
qua hình thức, thủ tục nhất định. Các hình thức, thủ tục để ban hành quyết định trong
hoạt động áp dụng pháp luật do pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể các
chủ thể phải thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Bởi tính chất quan trọng và phức tạp của
áp dụng pháp luật, chủ thể áp dụng pháp luật có thể hưởng những lợi ích rất lớn nhưng
cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi nghiêm trọng, nên trong pháp luật luôn có sự
xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ các chủ thể trong

quá trình áp dụng pháp luật. Tính đơn giản hay tính phức tạp của các thủ tục này phụ
thuộc vào tính chất, nội dung sự việc cần phải áp dụng pháp luật. Áp dụng các quy phạm
pháp luật đơn giản như việc xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì các thủ tục đặt ra
cũng đơn giản và nhanh chóng. Đối với việc áp dụng các quy phạm pháp luật phức tạp thì
cần phải xác minh điều tra, đánh giá kỹ những tình tiết sự việc xác định một người có tội
phạm hay không đòi hỏi phải có cản một quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan
Công an điều tra, Viện kiểm sát và Toà án.

Thứ ba: Nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, là những tiêu chuẩn
chung cho những xử sự giữa người với người trong mối quan hệ xã hội thì thì hoạt động
áp dụng pháp luật luôn mang tính cụ thể (tính cá biệt). Tính cụ thể của hoạt động áp dụng
pháp luật thể hiện ở chỗ các quan hệ xã hội, các chủ thể bị áp dụng pháp luật được xác
định chính xác; gồm cả sự việc, con người, tập thể, thời gian, không gian, các quy định
áp dụng pháp luật được ban hành luôn mang tính cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã
hội đã xác định.
Thứ tư: Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo (sự sáng tạo trong
phạm vi quy định của pháp luật). Khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước hay
nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc,
cần làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm pháp luật, ra
văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành một cách nghiêm chỉnh. Để đạt được
điều đó, đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp,
có đạo đức nghề nghiệm và có kinh nghiệm.
Ở nước ta, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi hỏi phải
đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm trật tự xã hội, kỷ cương pháp luật
đồng thời bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân.
1.1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao là một hình thức cụ thể của áp dụng pháp luật nên khi thực hiện
người áp dụng pháp luật phải tuân theo những nguyên tắc chung và quy trình chung. Bên

cạnh đó áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước của Toà
án nhân dân được thực hiện thông qua những người có thẩm quyền là thẩm phán, Hội
đồng xét xử phúc thẩm.

Ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi
phải đề cao vai trò áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng nhất là Toà án. Hiến pháp năm 1992 quy định:
Toà án nhân dân…nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong
phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân [29, tr.56].
Theo pháp luật hiện hành, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng riêng có của
Toà án. Ngoài Toà án ra không có cơ quan nhà nước nào thực hiện chức năng xét xử.
Theo từ điển tiếng Việt Nam 2001, “xét xử là việc xem xét và xử các vụ án”. Theo
từ điển Luật học năm 1999, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của
Toà án. Toà án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử” [42, tr.178].
Hoạt động xét xử của Toà án nhân dân là hoạt động trung tâm và chủ yếu của
hoạt động tư pháp. Theo pháp luật hiện hành, ở nước ta có các Toà án sau đây: Toà
án nhân dân tối cao; Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Các
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Các Toà án quân sự; Các
Toà án khác do luật định; Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành
lập Toà án đặc biệt.
Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản

của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân.
Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý
thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.

Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có
thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Bản án, quyết định sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực
pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải
được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm có: Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao; Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà
kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao;
trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Bộ máy giúp việc.
Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử:
Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
của Toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố
tụng.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao căn cứ trên cơ sở những vụ án mà bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của pháp luật tố tụng, được gọi là nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử. Việc Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử trên cơ sở những bản
án, quyết định về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị

theo pháp luật tố tụng dân sự là nhằm bảo đảm cho Toà án xét xử đúng vụ án bảo đảm
cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước toà án.
Như vậy, sau khi bản án, quyết định sơ thẩm về phân chia di sản thừa kế theo pháp
luật được toà án nhân dân tỉnh, thành phố tuyên thì bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật ngay mà còn một thời gian để các đương sự có thể kháng cáo, viện kiểm sát có

thể kháng nghị. Nếu có kháng cáo, hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm
thì Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sẽ tiến hành xét xử lại vụ án. Về bản chất,
việc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thực hiện xét xử lại các bản án, quyết định
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục tố tụng không phải là lần xét xử đầu tiên đối với vụ án mà là lần
xét xử thứ hai. Thủ tục phúc thẩm tiến hành sau thủ tục sơ thẩm. Đây là nội dung của
nguyên tắc xét xử hai cấp mà hệ thống toà án nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới
áp dụng, nhằm bảo đảm tính thận trọng trong các phán quyết nhân danh nhà nước của
Toà án
Việc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân cấp tỉnh chưa có hiệu lực
pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục những sai lầm có thể có trong những
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của toà án nhân dân cấp tỉnh, bảo đảm cho
quyền lợi và lợi ích của cá nhân về quyền sở hữu đối với tài sản; bảo đảm quyền thừa kế của
công dân.
Pháp luật hiện hành quy định, các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
của Toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố
tụng;
- Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương về tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật;
- Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương về việc giải quyết các cuộc đình công theo quy định của pháp luật.

Thứ ba: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao được tiến hành chủ yếu tại phiên toà phúc thẩm
Khác với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác, việc Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân cấp tỉnh được tiến hành tại phiên toà.

Phiên toà xét xử với các nghi thức trang trọng, các thủ tục chặt chẽ thể hiện quyền uy của
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành một cách công khai.
Phiên toà xét xử là nơi diễn ra hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan Toà án với Quốc
huy của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn là biểu tượng không thể
thiếu được để chứng minh cho quyền nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khi tiến hành xét xử các vụ án. Các vị trí, các chỗ ngồi được bố trí một cách phù
hợp với tư cách của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Các thủ tục
công bố quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án, công bố bản án… được
luật tố tụng dân sự quy định chặt chẽ, chi tiết và yêu cầu những người áp dụng pháp luật
phải tuân thủ tuyệt đối và nghiêm ngặt.
Thứ tư: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tuân theo những qui định chặt chẽ về trình tự và thủ
tục theo thủ tục phúc thẩm được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự
Khi không đồng ý với bản án hoặc quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, trong thời
hạn luật định đương sự hoặc người đại diện của đương trong vụ án đó có quyền kháng
cáo đối với bản án hoặc quyết định đó; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án
hoặc quyết định đó. Pháp luật quy định người có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là
viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên trực tiếp; đồng thời pháp luật quy
định đối tượng, thời hạn, hình thức kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự.
Kháng cáo bảo đảm cho các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trước Toà án. Kháng nghị có thể bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện có hiệu quả
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án trong việc giải quyết các vụ án dân
sự.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ

kèm theo, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao vào sổ thụ lý vụ án và lập Hội đồng
xét xử phúc thẩm. Chánh Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thành lập Hội đồng xét
xử phúc thẩm. Pháp luật tố tụng dân sự quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba
thẩm phán, trong đó một thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà.

Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao có thể ra một trong các quyết định: Tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp và những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Để chuẩn bị xét xử phúc thẩm, thẩm phán phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án,
bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị, và
các chứng cứ, tài liệu kèm theo. Trường hợp thiếu chứng cứ, tài liệu thì yêu cầu đương sự
bổ sung. Với những trường hợp viện kiểm sát nhân dân phải tham gia phiên toà phúc
thẩm thì Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phải gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân
dân tối cao nghiên cứu. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, nếu có căn cứ tạm
đình chỉ giải quyết vụ án thì Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ra quyết định tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự; quyết định áp dụng
thay đổi và huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; hoãn xét xử phúc thẩm hoặc quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Pháp luật tố tụng dân sự quy định bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phần nào thì chỉ phần đó chưa được thi hành và sẽ bị đưa
ra xét xử theo trình tự phúc thẩm. Phần còn lại của bản án, quyết định không bị kháng
cáo, kháng nghị, sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật và có hiệu lực thi hành. Trong trường
hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị toàn bộ thì toàn bộ bản án,
quyết định bị xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Pháp luật tố tụng dân sự quy định thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm, về căn
bản được tiến hành giống thủ tục phiên toàn sơ thẩm, bao gồm các bước: chuẩn bị khai
mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà; thủ tục xét hỏi tại phiên toà; tranh
luận tại phiên toà; nghị án và tuyên án.
Hội đồng xét xử phúc thẩm Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có thể giữ

nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
cho toà án cấp tỉnh giải quyết lại vụ án dân sự hoặc huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự.

1.2. VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT CỦA TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo
vệ. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam quy định "Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân"[29].
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự chiếm vị
trí đặc biệt quan trọng, đã tạo lập hành lang pháp lý cho các cá nhân khi thực hiện quyền
thừa kế. Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm 4 chương, 56 điều, từ Điều 631 đến
Điều 687 của Bộ luật dân sự năm 2005 chế định thừa kế đã tạo chuẩn mực pháp lý cho
cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ thừa kế, góp phần làm lành mạnh hoá
các quan hệ xã hội. Chế định quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự kết tinh những thành
tựu của khoa học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và
phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức và lưu
truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam.
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế của Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao có vai trò sau đây:
Thứ nhất: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế của Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ
dân sự về thừa kế, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao có vai trò to lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân
sự nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân tối cao đã chứng minh rằng các quy phạm pháp luật về
dân sự nói chung và và các quy phạm pháp luật về thừa kế theo pháp luật đều được kiểm

nghiệm qua công tác xét xử của Toà án phúc thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao về tính phù hợp hay chưa phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội; về tính đầy đủ
còn phiến diện, còn khoảng trống của quy phạm pháp luật so với yêu cầu cần điều chỉnh

bằng pháp luật của các quan hệ xã hội. Qua thực tiễn xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao, chủ thể áp dụng pháp
luật phát hiện ra những quy phạm pháp luật chưa phù hợp với thực tế, khó áp dụng trong
thực tế dẫn đến vi phạm tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt
động áp dụng pháp luật xét xử các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, toà
án phát hiện ra những hành vi mới, những quan hệ xã hội mới cần phải có quy phạm pháp
luật điều chỉnh và cả những quy phạm pháp luật lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn
của đời sống xã hội. Như vậy, áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp
luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao góp phần không ngừng xây dựng và
hoàn thiện các quy định về thừa kế theo pháp luật.
Thứ ba: áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao góp phần bảo vệ và không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Những hành vi, tranh chấp liên quan đến quan hệ về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật đều được Toà án xem xét kịp thời, đúng pháp luật. Áp dụng
pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao là việc thực thi trên thực tế nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân; bảo đảm quyền về tài sản của cá
nhân. Do đó, áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao góp phần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân bằng những vụ việc cụ thể, đặc biệt là thông
qua các phiên toà xét xử công khai của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao với việc
phân tích, giải thích pháp luật của Hội đồng phúc thẩm qua các phiên toà về những hành
vi hợp pháp hay bất hợp pháp của các bản án và quyết định của toà sơ thẩm là một trong

những hình thức chuyển tải kiến thức pháp luật mang tính cụ thể đến quần chúng nhân
dân. Do vậy, việc không ngừng mở rộng tranh tụng tại các phiên toà phúc thẩm của toà
phúc thẩm toà án nhân dân tối cao về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, tổ chức tốt

các phiên toà xét xử, nhất là xét xử lưu động không chỉ đơn thuần là việc nâng cao chất
lượng xét xử mà còn có tác dụng rất tốt đến việc giáo dục nâng cao ý thức tôn trong pháp
luật của nhân dân.
1.3. CÁC GIAI ĐOẠN VÀ YẾU TỔ ĐẢM BẢO ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA TOÀ PHÚC THẨM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1.3.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp
luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, kế tiếp
nhau, giai đoạn trước là cơ sở tiền đề cho giai đoạn sau. Lý luận chung về áp dụng pháp
luật chia hoạt động áp dụng pháp luật thành bốn giai đoạn. Đó là, 1.Phân tích những tình
tiết khách quan của vụ việc được xem xét; 2.Lựa chọn quy phạm pháp luật để giải quyết
vụ việc và làm sáng tỏ nội dung tư tưởng của nó; 3.Ra văn bản áp dụng pháp luật; 4.Tổ
chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật. Thực ra, việc phân chia áp dụng pháp luật
thành các giai đoạn như trên chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế, áp dụng pháp
luật là hoạt động tiến hành liên tục ngay sau khi có sự kiện pháp lý xảy ra cho đến khi
ban hành văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật đó.
Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt, luôn có đối tượng xác định. Tuỳ thuộc
vào tính chất của vụ việc được xem xét, pháp luật quy định trình tự, thủ tục áp dụng pháp
luật khác nhau.
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao là hoạt động có nội dung phức tạp. Do vậy, không thể có quy
trình chung cho việc ban hành tất cả các loại văn bản áp dụng pháp luật ở giai đoạn này.
Trên cơ sở Bộ luật tố tụng dân sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và lý luận
chung về nhà nước và pháp luật có thể chia áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế

theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thành các giai đoạn sau:
1.3.1.1. Thụ lý, nghiên cứu hồ sơ, đánh giá tính hợp pháp của các quyết định
của toà án cấp sơ thẩm

Thụ lý, nghiên cứu hồ sơ, đánh giá tính hợp pháp của các quyết định toà toà sơ
thẩm là giai đoạn đầu nhưng có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật về
phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Vì
thụ lý hồ sơ là hành vi làm phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của Toà phúc thẩm toà
án nhân dân tối cao.
Theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, những bản án, quyết định của
toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị thì toà án cấp
phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định đó. Do đặc thù của hoạt động áp dụng pháp luật
của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao, pháp luật chỉ quy định người có quyền kháng
cáo, kháng nghị thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị đối với các bản án quyết định:
Các bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Các chủ thể thực hiện
quyền kháng cáo và kháng nghị trong khoảng thời gian luật định. Nếu kháng cáo ngoài thời
hạn quy định (mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án đối với bản án sơ thẩm; bảy ngày kể từ
ngày người kháng cáo nhận được quyết định) của pháp luật là kháng cáo quá hạn. Thời hạn
kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án sơ thẩm là mười lăm
ngày, đối với Viện trưởng viện kiểm sát cấp trên là ba mươi ngày kể từ ngày tuyên án. Thời
hạn kháng nghị quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của toà án cấp
sơ thẩm của Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện trưởng viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày viện kiểm sát nhận được quyết định. Việc kháng
cáo phải được người có quyền kháng cáo thực hiện trong một thời gian nhất định và bằng
một đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo gửi ngay cho toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo đã gửi cho toà phúc thẩm thì toà
án cấp phúc thẩm phải chuyển lại đơn kháng cáo cho toà án cấp sơ thẩm để toà án cấp sơ
thẩm tiến hành những thủ tục cần thiết trước khi hồ sơ vụ án được chuyển cho toà án cấp
có quyền phúc thẩm. Đơn kháng cáo gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu bổ sung nếu có, để

chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp. Tương tự, nếu Viện trưởng
viện kiểm sát kháng nghị thì việc kháng nghị được thực hiện bằng quyết định kháng nghị.
Viện kiểm sát phải gửi kèm theo quyết định kháng nghị các tài liệu, chứng cứ bổ sung

×