Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

luận văn thạc sĩ áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.72 KB, 104 trang )

¸p dông ph¸p luËt
vÒ ph©n chia di s¶n thõa kÕ theo ph¸p luËt
cña tßa phóc thÈm tßa ¸n nh©n d©n tèi cao
ë viÖt nam
HÀ NỘI – 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ CỦA TÒA PHÚC THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Ở VIỆT NAM
6
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao 6
1.2. Vai trò áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao 23
1.3. Các giai đoạn và yếu tố đảm bảo áp dụng pháp luật về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao 25
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI
SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA TÒA PHÚC THẨM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Ở VIỆT NAM
37
2.1. Kết quả và thực tiễn áp dụng pháp luật về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao ở Việt Nam 37
2.2. Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao ở Việt Nam -
những tồn tại và nguyên nhân 67


Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP
LUẬT CỦA TÒA PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI
CAO Ở VIỆT NAM
79
3.1. Quan điểm và yêu cầu áp dụng pháp luật về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao ở Việt Nam 79
3.2. Các giải pháp bảo đảm hiệu quả áp dụng pháp luật về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao ở Việt Nam 83
KẾT LUẬN
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mục tiêu về cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta xác định xây
dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực.
Hoạt động xét xử, một trong những hoạt động áp dụng pháp luật, là
nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên của toà án nhân dân. Trong những năm qua,
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là các chủ trương về đổi mới
công tác tư pháp, hoạt động xét xử nói chung và hoạt động giải quyết các vụ án
về dân sự, trong đó có các án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật đã đạt
được nhiều thành tựu. Những kết quả trong hoạt động xét xử về phân chia di sản
thừa kế thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân đã góp phần bảo đảm quyền
tự do, dân chủ và quyền sở hữu về tài sản của công dân; giữ vững trật tự, an toàn

xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, việc xét xử các
vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật vẫn còn để xảy ra nhiều sai sót,
xét xử thiếu thống nhất, hoặc lúng túng khi vận dụng pháp luật, các vụ kiện gặp
nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài. Một trong những nguyên nhân cơ
bản của thực trạng này là do nhận thức chưa đầy đủ về pháp luật của cá nhân và
do sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp toà án.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân
chia di sản thừa kế đã và đang đặt ra những yêu cầu mới vừa cấp bách và lâu dài,
đòi hỏi không ngừng nâng cao chất lượng xét xử, góp phần đáp ứng quá trình
thực hiện cải cách tư pháp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Do đó, việc nghiên cứu lý luận về áp dụng pháp
luật trong hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt động giải
quyết các vụ án của toà án nhân dân là một nhiệm vụ cần thiết.
Trong bối cảnh đó, việc nhận thức lại những vấn đề lý luận về áp dụng
pháp luật và nghiên cứu áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân là nhằm góp
phần không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng trong
hoạt động xét xử; Vì vậy, học viên chọn đề tài: Áp dụng pháp luật về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao ở Việt Nam làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật
trong trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế đã
được giới khoa học pháp lý và đặc biệt là những người làm công tác xét xử
của ngành toà án quan tâm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề trên
đây với những khía cạnh và mức độ khác nhau: Áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay- Lê Xuân Thân, Luận
án tiến sỹ luật (2004); Cơ sở lý luận và thực tiễn của những qui định chung về
thừa kế trong Bộ luật dân sự- Nguyễn Minh Tuấn, Luận án tiến sỹ luật

(2006); Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Toà án
nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay- Chu Đức Thắng, Luận văn thạc sỹ
luật (2004); Áp dụng pháp luật trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án ma
tuý ở Việt Nam hiện nay- Bùi Mạnh Cường, luận văn thạc sỹ luật (2006); Áp
dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Toà án nhân
dân tỉnh Thái Nguyên - Hoàng Văn Hạnh, Luận văn thạc sỹ luật (2006); Tiến
trình phát triển pháp luật thừa kế Việt nam trong 60 năm qua- Phùng Trung
Tập, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2006; Một số vấn đề về thừa kế tiền
gửi ngân hàng- Nguyễn Thanh, Tạp chí Ngân hàng, số 17/2006; Cần xác
định nội dung cụm từ “những người có quyền thừa kế di sản của nhau” trong
Điều 644 Bộ luật dân sự- Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật học, số 2/2005; Di
sản thừa kế trong pháp luật dân sự một số nước trên thế giới- Trần Thị Nhuệ,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2006; Quyền thừa kế trong luật dân sự
La Mã cổ đại - Nguyễn Đình Huy, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2001; Những
điểm mới của các qui định về thừa kế trong Bộ luật dân sự 2005 - Lê Minh
Hùng, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2006; Bàn về áp dụng pháp luật trong
công tác xét xử, Tạp chí Toà án nhân dân, số 5/2005…
Các công trình khoa học được liệt kê trên đây đã đề cấp đến việc áp
dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật của toà án trong một số lĩnh
vực cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu
nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống vấn đề áp dụng pháp
luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam hiện nay; vì vậy, đề tài của
luận văn mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống cả về cơ sở lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các án liên quan đến
phân chia di sản thừa kế theo pháp luật ở Toà án nhân dân tối cao hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong hoạt động
giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế trên cơ sở đó phân tích, đánh

giá thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án dân sự
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao. Từ
đó, luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp
dụng pháp luật trọng hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa
kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao ở Việt nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong hoạt động
giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật dưới góc độ lý
luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; làm rõ những đặc trưng và vai
trò của hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân hiện nay.
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ
án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao
trong thời gian qua, cũng như làm rõ các nguyên nhân của những tồn tạị
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật; góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao.
- Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành lý
luận và lịch sử về Nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật, thực tiễn liên quan đến vấn đề áp
dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao.
Về mốc thời gian nghiên cứu, luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà án nhân dân tối cao từ năm 2005 (sau khi Bộ luật dân sự

được công bố) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, pháp chế; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay; quan
điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong thời kỳ mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu như: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
hợp, logic và hệ thống…
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Với tư cách là một luận văn thạc sỹ, tác giả nghiên cứu một cách toàn
diện và có hệ thống về việc áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Lần đầu tiên, tác
giả luận văn có những đóng góp cơ bản như sau:
- Xây dựng khái niệm, phân tích các đặc điểm và vai trò của áp dụng
pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của toà án nhân dân.
- Đã đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp
dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa
kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao ở nước ta hiện nay.
- Khái quát các quan điểm và đề nghị các giải pháp nhằm bảo đảm áp
dụng pháp luật có hiệu quả trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về lý luận về áp
dụng pháp luật trong các cơ quan tư pháp, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn
cho những người trực tiếp làm công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động
giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên

cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn về áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử toà án nhân dân nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA
TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI SẢN
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy phạm pháp luật thể
chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân,
được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục,
thuyết phục nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa [12, tr.143].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung do các
cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo một trình tự thể
hiện dưới một hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Xét bình
diện chung nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối, chủ trương
của Đảng, bảo đảm các đường lối, chủ trương đó được triển khai và thực hiện
có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội, để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã
hội; để nhân dân phát huy thực hiện quyền dân chủ, các quyền, lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
Pháp luật với tư cách là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác

động và ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng pháp lý; pháp luật có vai trò duy trì trật tự xã hội. Trong quan hệ với
nhà nước, vai trò của pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước, phát huy được vai trò của nhà nước trong việc thực hiện
các chức năng, quản lý, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đối với nhà nước, pháp luật là cơ sở để tổ chức, hoạt động vừa là sức
mạnh của quyền lực chính trị đồng thời pháp luật cùng là phương tiện để ràng
buộc nhà nước nhằm hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền của nhà nước, tránh
cho nhà nước khỏi tình trạng hoạt động tuỳ tiện, vi phạm quyền và tự do của
công dân. Pháp luật nói chung và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng có vai
trò và giá trị xã hội rất quan trọng mà không một công cụ, phương tiện điều
chỉnh nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có thể
thực sự phát huy hiệu quả khi các quy định của pháp luật được các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, công dân thực hiện một cách tự giác, nghiêm
minh. Do vậy, vấn đề đặt ra là không phải chỉ có đủ các các văn bản pháp luật
đáp ứng nhu cầu xã hội mà điều quan trọng là pháp luật cần phải được thực
hiện trong thực tế.
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có tổ
chức, có mục đích của con người, là những hoạt động, những cách thức, quy
trình làm cho các quy tắc xử sự chung chứa đựng các quy phạm pháp luật trở
thành hành vi, cách xử sự thực tế của chủ thể pháp luật. Khi các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thì các quan hệ xã hội trở thành các
quan hệ pháp luật với các chủ thể mang quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng.
Khi các chủ thể pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình
sẽ làm phát sinh các hành vi pháp luật, hay nói cách khác, thực hiện pháp luật
làm cho các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật được thực hiện trong
đời sống xã hội.
Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã
phân chia thực hiện pháp luật thành những hình thức cụ thể như: Tuân thủ
pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Tuân thủ (tuân theo) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
cấm. Chủ thể thực hiện hình thức tuân thủ pháp luật là tất cả các cơ quan nhà
nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực. Ví dụ việc thực hiện các quy phạm pháp luật hôn nhân gia
đình về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái của cha mẹ… Chủ thể thực
hiện hình thức thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân
viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình (những hành vi mà
pháp luật cho phép chủ thể thực hiện). Chủ thể thực hiện hình thức thi hành
pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá
nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội. Đương nhiên, vì quyền và tự do
pháp lý là những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể thực hiện nên chủ
thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền, tự do tuỳ
theo ý chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thông
qua hình thức này ý chí của nhà nước được trở thành hiện thực, nhà nước
được thực hiện các chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công
chức nhà nước trong khuôn khổ pháp luật.
Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật mà
mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức
thực hiện pháp luật chỉ dành cho các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có

quyền. Áp dụng pháp luật được xem là hoạt động thực hiện pháp luật của các
cơ quan nhà nước, nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật, vừa là một giai
đoạn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ chức cho các chủ
thể pháp luật khác thực hiện các quy định pháp luật. Do vậy, áp dụng pháp
luật là hình thức rất quan trọng và được tiến hành trong các trường hợp sau:
- Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm
pháp luật hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với tổ chức
hay cá nhân nào đó. Ví dụ: Một công dân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản,
hành vi đã có đầy đủ các yếu tố thành tội trộm cắp tài sản được qui định trong
Bộ luật hình sự, không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự mặc nhiên phát
sinh và người vi phạm tự giác chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Vì
vậy, cần có các hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và những người
có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối chiếu với quy định của
pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi
vi phạm và buộc người này phải chấp hành.
- Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc
nhiên, phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
Ví dụ: Hiến pháp 1992 quy định lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân
nhưng nhưng quan hệ pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ cụ thể
giữa công dân với một cơ quan nhà nước chỉ phát sinh khi có quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng người đó vào làm việc.
- Đối với một số quan hệ pháp luật nhà nước thấy cần thiết phải tham
gia để kiểm tra giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc
nhà nước xác nhận sự tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: Uỷ
ban nhân dân xã, phường trị trấn chứng nhận di chúc hay chứng nhận việc
đăng ký kết hôn [33].
Tóm lại, áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cán bộ
công chức có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của
pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật ra các quyết

định làm phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao liên quan đến các khái niệm có tính chất
công cụ: di sản; thừa kế; quyền thừa kế; thừa kế theo pháp luật và xét xử phúc
thẩm vụ án dân sự. Vì vậy, để xây dựng khái niệm áp dụng pháp luật về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
cần phải làm rõ các khái niệm trên.
a, Di sản: Theo Từ điển tiếng Việt: Di sản là của cải, tài sản của người
chết để lại [41].
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác" [31].
Di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá
đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm
những tài sản gì như những quy định trước đây. Bởi lẽ, quyền tài sản đã nằm
trong khái niệm tài sản được quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự: "Tài sản
bao gồm vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" .
b, Thừa kế: Theo Từ điển tiếng Việt, thừa kế được hiểu là hưởng của
người khác để lại cho, hay được hiểu là: “Việc dịch chuyển tài sản của người
đã chết cho những người còn sống” [10, tr.216]. Khái niệm này đã phản ánh
chính xác bản chất cũng như nội dung thừa kế.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu, xuất hiện đồng thời với quan hệ
sở hữu và sự phát triển của xã hội loài người. Thừa kế và sở hữu là hai phạm
trù kinh tế cùng tồn tại song song trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định, chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau, chỉ đạo, chi phối lẫn nhau,
cùng phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện
ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản nguyên
thuỷ. Trong thời kỳ này, quan hệ thừa kế chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội,

việc thừa kế chỉ nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn
sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập
quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Khi nhà nước ra đời việc chiếm giữ của vật chất giữa người với
người được điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống
trị. Nhà nước đã sử dụng pháp luật là công cụ để bảo vệ tài sản và quyền tài
sản của người chết cho những người còn sống, quy định quyền của các chủ
sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Lúc này
các quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu không chỉ tồn tại một cách khách
quan với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế nữa, mà những quan hệ này đã bị
ràng buộc bởi những quy phạm pháp luật và làm xuất hiện khái niệm quyền
thừa kế.
c, Quyền thừa kế: Nếu thừa kế là một phạm trù kinh tế tồn tại khách
quan thì quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý chỉ phát sinh khi có nhà nước
và pháp luật. Nếu thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh ngay cả khi xã hội
chưa phân chia giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật, thì quyền thừa kế lại
là một quan hệ pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội đã phân chia giai
cấp và dẫn tới sự ra đời của nhà nước.
Quyền thừa kế được xem xét rất nhiều góc độ. Với tính chất là một chế
định pháp luật dân sự, quyền thừa kế bao gồm tổng thể các quy phạm pháp
luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn sống
theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Đồng
thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng như các phương thức bảo vệ các quyền
và nghĩa vụ đó của những chủ thể trong quan hệ thừa kế.
Với tính chất là một quyền năng dân sự, quyền thừa kế là những quyền
năng cụ thể của chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa
kế. Đó là những khả năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quy định của
pháp luật: Được để lại di sản thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phải tuân thủ
những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bị tước quyền

hưởng di sản thừa kế Trong các quan hệ về thừa kế, các chủ thể chủ động hiện
thực hoá những quyền năng đó để biến nó thành những quyền dân sự cụ thể qua
đó đáp ứng được nhu cầu và thực hiện được lợi ích cho bản thân mình.
d, Thừa kế theo pháp luật: Ở mỗi một chế độ khác nhau, tuỳ thuộc vào
tính chất của chế độ sở hữu, thông qua pháp luật, nhà nước quy định một chế
định thừa kế và coi đó là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá
nhân cũng như quyền lợi của giai cấp lãnh đạo xã hội.
Trong nhà nước chủ nô, quyền để lại thừa kế về nô lệ của giai cấp chủ
nô là sự chuyển lại quyền sở hữu đối với những "công cụ biết nói" và cũng
chính là sự truyền lại quyền lực chính trị để duy trì sự áp bức bóc lột của giai
cấp chủ nô đối với nô lệ.
Trong nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, giai cấp bóc lột sở
hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và di sản mà họ để lại cho con
cháu cũng chính là những di sản ấy, việc thừa kế chỉ là sự thay thế kẻ thống
trị này bằng kẻ thống trị khác trong cùng một giai cấp mà thôi.
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người lao động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển
thành kết quả đó cho những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền
thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện để củng cố và phát triển
các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ
thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành
niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp
phần bảo đảm quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội.
Pháp luật hiện hành quy định “Cá nhân có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 631 Bộ
Luật Dân sự).
“Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và
trình tự thừa kế do pháp luật quy định” (Điều 674, Bộ Luật Dân sự). Thừa kế
theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: không có di

chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc đều chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được
hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế; những
người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Thừa kế theo pháp luật cũng
được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: phần di sản không được định
đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có
hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di
chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan,
tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở
thừa kế” (Điều 675, Bộ Luật Dân sự)
Như vậy, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang
cho người còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá
nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền
đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập
quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên
thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo
đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
Nói tóm lại, quyền thừa kế là một chế định của Luật dân sự, bao gồm
tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết
sang cho người khác còn sống dựa trên cơ sở ý chí của người để lại di sản
hoặc theo quy định của pháp luật.
e, Phúc thẩm dân sự là “việc toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà
bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo kháng nghị”[11, tr303].
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ở nước ta là việc Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao xem xét, giải quyết các tranh chấp về phân chia di sản thừa

kế theo pháp luật trên cơ sở những vụ án về phân chia di sản thừa kế mà bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới trực
tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; việc xét xử
của toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của pháp luật tố tụng dân sự
và phải trải qua các giai đoạn cụ thể như: Chuẩn bị khai mạc tiên toà và thủ
tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm; thủ tục xét hỏi tại phiên toà và tranh luận tại
phiên toà phúc thẩm; nghị án và tuyên án. Hội đồng xét xử phúc thẩm của
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có thể ra một trong các quyết định
sau: giữ nguyên bán án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; huỷ bản án sơ thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án cho toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án dân sự hoặc
huỷ bản án dân sự và đình chỉ giải quyết vụ án.
Từ những vấn đề lý luận được phân tích (ở mục 1.1.1.2) có thể đi đến
khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao như sau: Áp dụng pháp luật về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao là việc thực hiện pháp luật của Hội đồng xét xử phúc thẩm của Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao trên cơ sở bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật của toà án cấp tỉnh về phân chia di sản thừa kế theo pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị để ra một trong các quyết định tạm đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét
xử bảo đảm quyền định đoạt về tài sản và quyền thừa kế của công dân, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
1.1.2.1. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Thứ nhất: Áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thực hiện quyền lực
của nhà nước trong thực tế, cụ thể là:
Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành thông qua cán bộ công

chức nhà nước và thực hiện trong phạm vi thẩm quyền được giao ở một số
hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Trong qua trình áp dụng pháp luật cơ
quan áp dụng pháp luật phải tiến hành mọi khía cạnh, mọi chi tiết và phải xem
xét thận trọng, dựa trên cơ sở những quy định, yêu cầu của pháp luật đã được
xác định để ra quyết định cụ thể. Như vậy, pháp luật là cơ sở xuất phát điểm
để cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức
năng của mình.
Việc áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục khẳng định ý chí của
nhà nước đã thể hiện trong quy phạm pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp
luật phải phù hợp với pháp luật hiện hành. Trong lĩnh vực tư pháp, áp dụng
pháp luật được các cán bộ công chức nhà nước có các chức danh pháp lý như
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán…tiến hành.
Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể bị áp dụng
pháp luật, với tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong những trường hợp cần
thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế
của nhà nước.
Thứ hai: Việc ban hành một quyết định áp dụng pháp luật phải thực
hiện thông qua hình thức, thủ tục nhất định. Các hình thức, thủ tục để ban
hành quyết định trong hoạt động áp dụng pháp luật do pháp luật quy định rất
chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể các chủ thể phải thực hiện một cách nghiêm
chỉnh. Bởi tính chất quan trọng và phức tạp của áp dụng pháp luật, chủ thể áp
dụng pháp luật có thể hưởng những lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải
chịu những hậu quả bất lợi nghiêm trọng, nên trong pháp luật luôn có sự xác
định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ các chủ thể
trong quá trình áp dụng pháp luật. Tính đơn giản hay tính phức tạp của các
thủ tục này phụ thuộc vào tính chất, nội dung sự việc cần phải áp dụng pháp
luật. Áp dụng các quy phạm pháp luật đơn giản như việc xử phạt vi phạm
hành chính tại chỗ thì các thủ tục đặt ra cũng đơn giản và nhanh chóng. Đối
với việc áp dụng các quy phạm pháp luật phức tạp thì cần phải xác minh điều
tra, đánh giá kỹ những tình tiết sự việc xác định một người có tội phạm hay

không đòi hỏi phải có cản một quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan
Công an điều tra, Viện kiểm sát và Toà án.
Thứ ba: Nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, là những
tiêu chuẩn chung cho những xử sự giữa người với người trong mối quan hệ xã
hội thì thì hoạt động áp dụng pháp luật luôn mang tính cụ thể (tính cá biệt).
Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ các quan hệ xã
hội, các chủ thể bị áp dụng pháp luật được xác định chính xác; gồm cả sự
việc, con người, tập thể, thời gian, không gian, các quy định áp dụng pháp
luật được ban hành luôn mang tính cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội
đã xác định.
Thứ tư: Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo (sự sáng
tạo trong phạm vi quy định của pháp luật). Khi áp dụng pháp luật, các cơ
quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải
nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, cần làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để
từ đó lựa chọn quy phạm pháp luật, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ
chức thi hành một cách nghiêm chỉnh. Để đạt được điều đó, đòi hỏi các nhà
chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có đạo đức
nghề nghiệm và có kinh nghiệm.
Ở nước ta, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi
hỏi phải đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm trật tự xã
hội, kỷ cương pháp luật đồng thời bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân.
1.1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là một hình thức cụ thể của áp dụng pháp
luật nên khi thực hiện người áp dụng pháp luật phải tuân theo những nguyên
tắc chung và quy trình chung. Bên cạnh đó áp dụng pháp luật về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có
những đặc điểm riêng:
Thứ nhất: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật

của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là hoạt động nhân danh quyền
lực Nhà nước của Toà án nhân dân được thực hiện thông qua những người
có thẩm quyền là thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đòi hỏi phải đề cao vai trò áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là Toà án. Hiến pháp
năm 1992 quy định:
Toà án nhân dân…nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân [29, tr.56].
Theo pháp luật hiện hành, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng
riêng có của Toà án. Ngoài Toà án ra không có cơ quan nhà nước nào thực
hiện chức năng xét xử.
Theo từ điển tiếng Việt Nam 2001, “xét xử là việc xem xét và xử các vụ
án”. Theo từ điển Luật học năm 1999, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức
năng, nhiệm vụ của Toà án. Toà án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức
năng xét xử” [42, tr.178].
Hoạt động xét xử của Toà án nhân dân là hoạt động trung tâm và chủ
yếu của hoạt động tư pháp. Theo pháp luật hiện hành, ở nước ta có các
Toà án sau đây: Toà án nhân dân tối cao; Các Toà án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; Các Toà án quân sự; Các Toà án khác do luật định; Trong
tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của

nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy
tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các
vi phạm pháp luật khác.
Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của
Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do
pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án,
quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm
có: Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Toà án quân sự trung
ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và
các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo
đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Bộ máy giúp việc.
Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử:
Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của Toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao căn cứ trên cơ sở những vụ án
mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp
dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng,
được gọi là nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Việc Toà phúc thẩm

toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử trên cơ sở những bản án, quyết định về
phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị theo pháp luật tố tụng dân sự là nhằm bảo đảm cho Toà án xét xử đúng
vụ án bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ
trước toà án.
Như vậy, sau khi bản án, quyết định sơ thẩm về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật được toà án nhân dân tỉnh, thành phố tuyên thì bản án, quyết
định chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn một thời gian để các đương sự
có thể kháng cáo, viện kiểm sát có thể kháng nghị. Nếu có kháng cáo, hoặc
kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm thì Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao sẽ tiến hành xét xử lại vụ án. Về bản chất, việc Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao thực hiện xét xử lại các bản án, quyết định về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục tố tụng không phải là lần xét xử đầu tiên đối với vụ án mà là
lần xét xử thứ hai. Thủ tục phúc thẩm tiến hành sau thủ tục sơ thẩm. Đây là
nội dung của nguyên tắc xét xử hai cấp mà hệ thống toà án nước ta cũng như
nhiều nước trên thế giới áp dụng, nhằm bảo đảm tính thận trọng trong các
phán quyết nhân danh nhà nước của Toà án
Việc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phúc thẩm bản án, quyết
định sơ thẩm về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân
cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục
những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật của toà án nhân dân cấp tỉnh, bảo đảm cho quyền lợi và lợi ích của cá nhân
về quyền sở hữu đối với tài sản; bảo đảm quyền thừa kế của công dân.
Pháp luật hiện hành quy định, các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng;

- Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của Toà án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương về tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật;
- Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương về việc giải quyết các cuộc đình công theo
quy định của pháp luật.
Thứ ba: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao được tiến hành chủ yếu tại phiên
toà phúc thẩm
Khác với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác,
việc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phúc thẩm bản án, quyết định sơ
thẩm về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân cấp tỉnh
được tiến hành tại phiên toà. Phiên toà xét xử với các nghi thức trang trọng,
các thủ tục chặt chẽ thể hiện quyền uy của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và được tiến hành một cách công khai. Phiên toà xét xử là
nơi diễn ra hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan Toà án với Quốc huy của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn là biểu tượng không thể
thiếu được để chứng minh cho quyền nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khi tiến hành xét xử các vụ án. Các vị trí, các chỗ ngồi được
bố trí một cách phù hợp với tư cách của những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng. Các thủ tục công bố quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét
hỏi, tranh luận, nghị án, công bố bản án… được luật tố tụng dân sự quy định
chặt chẽ, chi tiết và yêu cầu những người áp dụng pháp luật phải tuân thủ
tuyệt đối và nghiêm ngặt.
Thứ tư: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tuân theo những qui định chặt
chẽ về trình tự và thủ tục theo thủ tục phúc thẩm được quy định trong Bộ luật
tố tụng dân sự
Khi không đồng ý với bản án hoặc quyết định của Toà án cấp sơ thẩm,
trong thời hạn luật định đương sự hoặc người đại diện của đương trong vụ án
đó có quyền kháng cáo đối với bản án hoặc quyết định đó; Viện kiểm sát có

quyền kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định đó. Pháp luật quy định người
có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là viện trưởng viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp và cấp trên trực tiếp; đồng thời pháp luật quy định đối tượng, thời
hạn, hình thức kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự.
Kháng cáo bảo đảm cho các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trước Toà án. Kháng nghị có thể bảo đảm cho Viện kiểm
sát thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà
án trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao vào sổ thụ lý vụ
án và lập Hội đồng xét xử phúc thẩm. Chánh Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm. Pháp luật tố tụng dân sự quy
định Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trong đó một thẩm phán
được phân công làm chủ toạ phiên toà.
Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp,
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có thể ra một trong các quyết định:
Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
phải được gửi cho viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và những người có liên
quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Để chuẩn bị xét xử phúc thẩm, thẩm phán phải tiến hành nghiên cứu hồ
sơ vụ án, bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị, đơn kháng cáo, quyết
định kháng nghị, và các chứng cứ, tài liệu kèm theo. Trường hợp thiếu chứng
cứ, tài liệu thì yêu cầu đương sự bổ sung. Với những trường hợp viện kiểm sát
nhân dân phải tham gia phiên toà phúc thẩm thì Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao phải gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, nếu có căn cứ tạm đình chỉ giải
quyết vụ án thì Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ra quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự; quyết định áp
dụng thay đổi và huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; hoãn xét xử phúc thẩm

hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Pháp luật tố tụng dân sự quy
định bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phần nào thì chỉ
phần đó chưa được thi hành và sẽ bị đưa ra xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Phần còn lại của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị, sẽ phát
sinh hiệu lực pháp luật và có hiệu lực thi hành. Trong trường hợp bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị toàn bộ thì toàn bộ bản án, quyết
định bị xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Pháp luật tố tụng dân sự quy định thủ tục tiến hành phiên toà phúc
thẩm, về căn bản được tiến hành giống thủ tục phiên toàn sơ thẩm, bao gồm
các bước: chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên
toà; thủ tục xét hỏi tại phiên toà; tranh luận tại phiên toà; nghị án và tuyên án.
Hội đồng xét xử phúc thẩm Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có
thể giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; huỷ bản án sơ thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án cho toà án cấp tỉnh giải quyết lại vụ án dân sự hoặc huỷ
bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
1.2. VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT CỦA TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp
luật bảo vệ. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam quy định "Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân"[29].
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân
sự chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, đã tạo lập hành lang pháp lý cho các cá
nhân khi thực hiện quyền thừa kế. Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm 4
chương, 56 điều, từ Điều 631 đến Điều 687 của Bộ luật dân sự năm 2005 chế
định thừa kế đã tạo chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi
tham gia quan hệ thừa kế, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Chế định quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự kết tinh những thành tựu của
khoa học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa
và phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm
thức và lưu truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam.

Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế của Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao có vai trò sau đây:
Thứ nhất: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế của Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng
và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự về thừa kế, góp phần tạo điều kiện
đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có vai trò to lớn trong việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Thực
tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tối cao đã
chứng minh rằng các quy phạm pháp luật về dân sự nói chung và và các quy
phạm pháp luật về thừa kế theo pháp luật đều được kiểm nghiệm qua công tác
xét xử của Toà án phúc thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao về
tính phù hợp hay chưa phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội; về tính đầy
đủ còn phiến diện, còn khoảng trống của quy phạm pháp luật so với yêu cầu
cần điều chỉnh bằng pháp luật của các quan hệ xã hội. Qua thực tiễn xét xử
các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm toà án
nhân dân tối cao, chủ thể áp dụng pháp luật phát hiện ra những quy phạm
pháp luật chưa phù hợp với thực tế, khó áp dụng trong thực tế dẫn đến vi
phạm tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động áp
dụng pháp luật xét xử các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật,
toà án phát hiện ra những hành vi mới, những quan hệ xã hội mới cần phải có
quy phạm pháp luật điều chỉnh và cả những quy phạm pháp luật lỗi thời,
không còn phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Như vậy, áp dụng pháp
luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao góp phần không ngừng xây dựng và hoàn thiện các quy định
về thừa kế theo pháp luật.
Thứ ba: áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật

của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao góp phần bảo vệ và không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những hành vi, tranh chấp liên quan
đến quan hệ về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật đều được Toà án xem

×