Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Phân chia di sản thừa kế theo quy định bộ luật dân sự năm 2015 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.87 KB, 21 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỮU THÀNH

PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2015

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội

Người hướng dẫn khóa học: TS. Phạm Kim Anh

Phản biện 1: …………………………………………………
……………………………………………………..
Phản biện 2:…………………………………………………
……………………………………………………..
Luận văn này sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ tại: Học viện khoa học xã hội ………..giờ……….ngày
……..tháng ………năm…………

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp và quy định trong Bộ luật dân sự Việt Nam. Trong bối
cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường làm cho xã hội
luôn thay đổi từng ngày, từng giờ nên pháp luật hiện hành vẫn chưa
thể dự liệu hết những tình huống xảy ra trên thực tế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để
làm sáng tỏ một số nội dung về "Phân chia di sản thừa kế theo quy
định Bộ Luật Dân sự năm 2015" để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật
học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng, cấp bách cả về phương
diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Phân chia di sản Thừa kế là một chế định quan trọng của Bộ
luật dân sự, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền
và lợi ích hợp pháp của những người được hưởng di sản thừa kế. Lần
đầu tiên chế định thừa kế được quy định trong Bộ luật dân sự năm
1995 khá đầy đủ và hoàn thiện nhất.
Các công trình nghiên cứu về thừa kế ở nước ta hiện nay chủ
yếu tập trung vào một số khía cạnh cụ thể trong chế định về quyền thừa
kế như: thời điểm mở thừa kế; Di chúc chung vợ chồng; Những người
được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc… Một số
bài viết chỉ tập trung phân tích, bình luận một tranh chấp cụ thể như
tranh chấp về xác định chủ thể hưởng di sản theo pháp luật, người thừa
kế thế vị hoặc chủ thể không được thừa kế theo pháp luật... Những bài
viết có tính chất nghiên cứu này được đăng trong các tạp chí chuyên

1



ngành luật như: Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí luật học, Tạp chí dân
chủ và pháp luật.
Tuy nhiên việc nghiên cứu một chế định riêng về phân chia
di sản thừa kế thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
chuyên sâu. Do vậy, Bộ luật dân sự 2015 vừa ban hành, đã giải quyết
được một số vướng mắc trong thực tế về vấn đề thừa kế.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ hơn về phân chia di
sản thừa kế, tìm hiểu thực tế áp dụng pháp luật để giải quyết các
tranh chấp về di sản thừa kế trong hoạt động xét xử của tòa án, tìm
hiểu thực tế áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế trong các
văn bản Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế theo Bộ luật dân sự
2015 và theo luật Công chứng 2014. Từ đó kiến nghị hoàn thiện chế
định phân chia di sản thừa kế cho phù hợp với tổng thể các quy định
trong bộ luật dân sự và đồng bộ hóa các quy định của ngành luật
khác.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm sáng tỏ các quy định về thừa kế theo Bộ luật dân sự
2005 so với Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 .
- Phân tích, so sánh mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự với các
quy định của Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, luật sở hữu trí
tuệ, luật công chứng…
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về thừa
kế trong thực tế, phương hướng và cách thức khắc phục. Đề xuất một
số ý kiến về việc ban hành các quy định pháp luật liên quan đến thừa
kế.
2



4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của triết học
Mác - Lênin, và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của đảng , Nhà nước ta trong lĩnh vực thừa kế.
b. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng ,duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó chú trọng các phương pháp kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh….Các phương pháp
này được sử dụng cụ thể như sau;
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các điều luật được quy định trong
bộ luật dân sự 2015 về thừa kế; các văn bản hướng dẫn về thừa kế;
các bản án……
b. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là so sánh những điểm mới về
các quy định phân chia di sản thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 so với
Bộ luật dân sự 2005 và một số quy định khác của pháp luật về di sản
thừa kế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài luận văn Thạc sỹ“ Phân chia di sản thừa kế theo bộ
luật dân sự 2015” là một công trình nghiên cứu toàn diện về phân
chia di sản thừa kế qua thực tiễn tại các tổ chức hành nghề công
chứng.


3


Luận văn đã giúp cho bản thân nâng cao được nhận thức, lý
luận thực tiễn đối với các vụ việc về giải quyết phân chia di sản thừa
kế tại cơ quan và có thể làm tài liệu tham khảo cho cá nhân, tổ chức
muốn tìm hiểu pháp luật về phân chia di sản thừa kế.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm ba phần: Lời mở đầu, nội dung và
kết luận. Phần nội chính được lập thành 2 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và qui định của pháp luật về di sản
thừa kế và phân chia di sản thừa kế
Chương 2 : Thực trạng áp dụng pháp luật về phân chia di
sản thừa kế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phân chia di sản
thừa kế.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ DI
SẢN THỪA KẾ VÀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm về di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế
1.1.1. Khái niệm về di sản thừa kế
Hiện nay vấn đề di sản thừa kế được đánh giá dưới nhiều góc độ
khác nhau:
- Thứ nhất: Vấn đề về nghĩa vụ tài sản của người chết để lại có
nằm trong phạm vi tài sản của người chết hay không ?
- Thứ hai: Vấn đề về tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết
để lại có nằm trong phạm vi tài sản của người chết hay không ?

- Thứ ba: Vấn đề về tài sản của người chết để lại không bao
gồm các khoản nợ mà người để lại di sản.
Tóm lại, di sản thừa kế là tài sản, các quyền tài sản, không
bao gồm nghĩa vụ tài sản của người đó để lại cho người thừa kế [ 1,
Tr.86].
1.1.2. Khái niệm phân chia di sản thừa kế
Hiện nay do sự phát triển kinh tế, xã hội dẫn đến tài sản tích
lũy của mỗi cá nhân và gia đình ngày càng nhiều. Vì vậy, các tranh
chấp nói chung và các tranh chấp liên quan đến vấn đề thừa kế nói
riêng ngày càng tăng về số lượng đồng thời mang tính chất phức tạp
hơn. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế giữa các bên chủ thể là xác
định di sản và phân chia di sản thừa kế đúng để đảm bảo quyền, lợi ích
của những người được hưởng thừa kế.
Vậy, phân chia di sản thừa kế là tập hợp các hoạt động
nhằm xác lập quyền sở hữu đối với phần di sản cho từng người một
có quyền hưởng thừa kế trong khối di sản chung sau khi đã thực hiện
5


nghĩa vụ tài sản từ di sản. Chấm dứt tình trạng nhiều người cùng có
quyền được hưởng thừa kế từ một hoặc nhiều tài sản do người chết
để lại [1, tr.183].
1.2. Quy định của pháp luật về di sản thừa kế
1.2.1. Xác định di sản thừa kế
Căn cứ theo Điều 612, BLDS 2015 xác định:“ Di sản bao
gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác ”. Tài sản riêng của người chết được
hiểu là phần tài sản mà về phương diện pháp lý không bị chi phối
hay phải chịu một ràng buộc nào với các chủ thể khác trong việc
chiếm hữu, sử dụng và thực hiện quyền định đoạt [ 8, Tr.99].

1.2.2. Thành phần của di sản thừa kế

- Phần di sản để thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết
Theo quy định tại Điều 614 BLDS 2015 thì kể từ thời điểm
mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại. Những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của một
người chấm dứt khi người đó chết và được chuyển cho những người
còn sống, trừ những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản gắn với nhân
thân người chết. Vì vậy, thời điểm mở thừa kế là mốc thời gian kể từ
lúc đó các quyền tài sản và nghĩa vụ của tài sản của người chết được
chuyển cho những người thừa kế của người chết. Nói cách khác, kể
từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền tài sản
và nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.
- Phần di sản thừa kế dành cho những người hưởng di sản
không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Căn cứ vào khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 quy định:“ Con
chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có
6


khả năng lao động.” vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo
pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho
hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất
đó.
- Phần di sản dành cho di tặng
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để
tặng cho người khác, phần di tặng này có hiệu lực cùng với di chúc
khi người lập di chúc chết và mặc dù người được di tặng và người
được hưởng thừa kế có sự khác nhau về cách thực hiện nghĩa vụ về tài

sản do người chết để lại nhưng họ đều hưởng một phần di sản của
người chết để lại theo di chúc.

-

Phần di sản dùng vào việc thờ cúng

+ Di sản thờ cúng là một phần trong khối di sản.
+ Phần di sản thờ cúng không được chia.
+ Người được giao quản lý di sản thờ cúng nếu không thực
hiện đúng di chúc thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản
thờ cúng cho những người khác quản lý để thờ cúng.
+ Di sản thờ cúng thuộc về người quản lý di sản nếu tất cả
những người thừa kế theo di chúc đều đã chết.
+ Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ
để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Như vậy di sản thờ cúng là một phần di sản thừa kế sau khi
thanh toán xong các khoản nợ liên quan đến di sản.
1.3. Phân chia di sản thừa kế
1.3.1. Căn cứ phân chia di sản thừa kề

- Chia theo thỏa thuận giữa những người thừa kế
7


Theo khoản 2 Điều 3 BLDS 2015 “Cá nhân, pháp nhân xác
lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở
tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực

thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”. Tòa
án chỉ tham gia giải quyết trong trường hợp những người thừa kế
không tìm được tiếng nói chung.

- Chia theo ý chí của người lập di chúc
Khoản 1, khoản 2 Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định:“ Mọi
người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; Quyền sở hữu tư nhân
và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.”. Theo quy định trên thì
mọi công dân có quyền sở hữu hợp pháp về tài của riêng mình và có
quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
Vậy phân chia di sản theo ý chí định đoạt của người lập di
chúc là căn cứ để tiến hành việc phân chia di sản thừa kế, làm phát
sinh quyền sở hữa của người có quyền thừa kế.

-

Chia theo quy định của pháp luật

Điều 194 BLDS 2015 quy định “ Chủ sở hữu có quyền bán,
trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu
dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp
với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Do đó, thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế,
điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
1.3.2. Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế

- Nguyên tắc chia theo di chúc
+ Tôn trọng ý chí của người lập di chúc

8


+ Tôn trọng sự thỏa thuận của những người thừa kế
+ Việc phân chia phải đảm bảo tình đoàn kết trong gia đình

-

Nguyên tắc chia theo pháp luật

+ Ưu tiên chia cho những người ở hàng thừa kế trước:
+ Chia hết cho những người ở hàng thừa kế trước :
+ Chia đều bằng nhau cho những người thừa kế cùng hàng:
+ Phân chia di sản phải ưu tiên cho một số thành viên trong
gia đình.
1.4. Hạn chế phân chia di sản thừa kế.
Hạn chế phân chia xảy ra các trường hợp sau:

- Theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của
tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời
hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem
chia.

- Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia
di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng
còn sống và gia đình.
Kết luận chương 1
Quy định của pháp luật về phân chia di sản thừa kế có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể trong quan hệ thừa kế.

Phân chia di sản thừa kế góp phần điều tiết, ổn định các quan hệ tài sản
trong giao lưu dân sự, là cơ sở pháp lý trong việc giải quyết các tranh
chấp liên quan đến thừa kế. Mặt khác, phân chia di sản thừa kế còn
mang nhiểu ý nghĩa thiết thực như:

- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người được
hưởng thừa kế.
9


- Quyền thừa kế

là quyền cơ bản của công dân, là phương

tiện để duy trì, củng cố quyền sở hữu trong xã hội.

- Bảo đảm quyền và lợi ích của những người liên quan
Việc xác định di sản thừa kế không những bảo đảm quyền và
lợi ích của những người hưởng thừa kế mà còn bảo đảm quyền và lợi
ích của những người liên quan. Bởi trong thực tế có nhiều trường
hợp tài sản của một người lại liên quan đến nhiều người khác( Các
khoản nợ hoặc tài sản nằm trong khối tài sản chung với người khác).

10


Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI
SẢN THỪA KẾ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ

2.1.Thực trạng áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế.
2.1.1. Áp dụng pháp luật phân chia di sản thừa kế

-

Áp dụng luật dân sự

Vụ án thứ nhất liên quan đến phân chia di sản thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Căn cứ vào Bản án số 49/DSPT
ngày 17-03-2005 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội có nội dung
vụ án như sau:
Nguyên đơn – chị Khổng Bích Liên có đơn và trình bày:
Từ vụ án trên cho thấy chế định thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc thường được áp dụng trong thực tế. Hiện nay
chế định thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc chưa được
chứng minh rõ ràng, có người cho rằng chế định này là nhằm bảo
đảm tối thiểu một số tài sản trong gia đình, cũng có quan điểm cho
rằng trong gia đình các con phải kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ.
Ngược lại cha mẹ phải nuôi dưỡng các con không có khả năng lao động,
giữa những người này ngoài nghĩa vụ pháp lý họ còn có nghĩa vụ đạo
đức với nhau. Do đó, pháp luật quy định trong trường hợp này họ được
hưởng kỷ phần nhất định từ di sản của người đã chết.

-

Áp dụng luật công chứng

Vụ án liên quan đến việc lập di chúc tại cơ quan công chứng.
Căn cứ vào quyết định số 76/2006/DS-GĐT ngày 14-04-2006 của
Tòa án dân sự Tòa án nhận dân tối cao, nội dung vụ án như sau:


11


Theo trình bày của bà Thông, cụ Liên có 2 người con là Hoa và
Thông.
Qua vụ án trên chúng ta thấy:
+ Quy định của bộ luật dân sự thừa nhận di chúc có công
chứng. Việc lập di chúc được tến hành tại cơ quan công chứng (Điều
658 BLDS 2005). Tuy nhiên theo khoản 1, điều 661 BLDS 2005 quy
định: Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ của
mình để lập di chúc [ 22, Khoản 2, Điều 44 ].
+ Dấu vết duy nhất trên bản di chúc là chữ ký hoặc điểm chỉ.
Trong vụ án trên di chúc được điểm chỉ dấu vân tay mà không có
chữ ký của cụ Liên. Tuy chưa có cơ sở để khẳng định đây là dấu vân
tay của cụ Liên nhưng tòa sơ thẩm đã thừa nhận di chúc này là của
cụ Liên..
+ Căn cứ theo khoản 1 điều 666 BLDS 2005 quy định:“ Kể
từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại
đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và
cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực
của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các
quy định về thừa kế theo pháp luật.”. Do đó, nếu bản photocopy có
đủ cơ sở để xác định ý chí và ý nguyện của người lập di chúc thì
chúng ta vẫn thừa nhận di chúc.
2.1.2. Chia theo di chúc

- Phân

chia di sản thừa kế theo di chúc trong trường hợp


người để lại di chúc không có nghĩa vụ về tài sản
Người lập di chúc còn có quyền xác định rõ trong di chúc ai
là người được hưởng di sản là hiện vật, cụ thể là hiện vật nào. Vì vậy
khi di sản dược phân chia các thừa kế được nhận hiện vật theo sự xác
12


định trong di chúc “ Kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật
đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời
điểm phân chia di sản”, nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người
khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường [ 17, Khoản 2,
Điều 659].

- Phân

chia di sản thừa kế theo di chúc trong trường hợp

người để lại di chúc có nghĩa vụ về tài sản
Việc thực hiện nghĩa vụ trong di chúc được hiểu là người
chết để lại nghĩa vụ về tà sản nhưng không nói rõ trong di chúc
người thừa kế nào phải thực hiện nghĩa vụ thì những người hưởng
thừa kế đều phải thực hện nghĩa vụ trong phạm vi di sản thừa kế.
Nếu chỉ định cụ thể một người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ này
thì người thừa kế đó phải thực hiện trong phạm vi di sản mình được
hưởng( Trừ trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản thừa kế).

- Phân chia di sản thừa kế theo di chúc trong trường hợp có
di tặng
BLDS 2015 quy định “ Di tặng là việc người lập di chúc

dành một phần di sản để tặng cho người khác...”. Như vậy, di tặng là
một phần tài sản trong khối di sản thừa kế được trích ra để dành cho
người được di tặng theo ý nguyện của người lập di chúc, mặc dù có
sự khác nhau về tư cách thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để
lại nhưng họ đều hưởng một phần di sản của người chết để lại theo di
chúc.

- Phân

chia di sản thừa kế theo di chúc trong trường hợp

người chết để lại di sản thờ cúng
Di sản thờ cúng là một phần của di sản thừa kế sau khi thanh
toán xong các khoản nợ liên quan đến di sản. Di sản thờ cúng chỉ
được đem ra thanh toán các nghĩa vụ về tài sản của người chết, trong
13


khi đó di sản thừa kế chỉ được xác định sau khi đã thanh tóan xong
các nghĩa vụ về tài sản và các chi phí liên quan đến tài sản ( Tiền mai
táng, Tiền quản lý di sản). Nếu nghĩa vụ về tài sản lớn hơn toàn bộ
nghĩa vụ của người chết để lại, phần còn thiếu sẽ lấy từ di sản thờ
cúng.

- Phân

chia di sản thừa kế theo di chúc trong trường hợp

người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định tại Điều 644 BLDS

2015 về “ Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc” .
Quy định trên một mặt pháp luật tôn trọng ý chí của người
để lại di sản, mặt khác hạn chế quyền định đoạt của người này để bảo
vệ quyền được hưởng thừa kế cho một số trường hợp như: Con chưa
thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành niên mà không có khả
năng lao động.
Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là một
phần di sản được trích ra từ khối tài sản của người chết để lại sau khi
đã thanh toán xong các nghĩa vụ về tài sản. Ta lấy toàn bộ khối di
sản của người chết để lại trừ đi phần của người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc, số còn lại sẽ được chia cho những
người thừa kế theo di chúc. Nếu đã phân chia di sản cho những
người thừa kế trước thì ta xác định tỷ lệ của mỗi người nhận thừa kế
theo di chúc phải trả cho những người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc.
2.1.3. Chia di sản thừa kế theo pháp luật

- Trường hợp có thừa kế mới
Người thừa kế mới là những người thừa kế xuất hiện sau khi
di sản đã được phân chia.

- Trường hợp người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế
14


Người bị bác bỏ quyền thừa kế là người được chia di sản của
người chết để lại nhưng họ không được quyền hưởng di sản theo quy
định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015.

- Trường hợp có thừa kế thế vị

Thừa kế thế vị là việc con đẻ thay thế vị trí của cha hoặc mẹ
để hưởng thừa kế của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại đối
với phần di sản cha mẹ được hưởng nếu còn sống( cha mẹ chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại),
đồng thời con đẻ thay thế vị trí của cha, mẹ để hưởng thừa kế của cụ
đối với phần di sản mà cha, mẹ được hưởng nhưng cha, mẹ đã chết
trước hoặc cùng thời điểm với cụ.
điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết.

- Thừa kế trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung
đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác.
+ Vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn, sau
đó một bên chết trước thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ
vẫn tồn tại. Vì vậy người còn sống vẫn được hưởng di sản của người
đã chết.
+ Vợ chồng đã sống riêng chưng chưa ly hôn thì người còn
sống vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
+ Người đang là vợ hoặc chồng tại thời điểm người đó chết
thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản của
người đó.
+ Vợ chồng đang xin ly hôn mà tòa án chưa cho ly hôn hoặc
đã được tòa án cho ly hôn nhưng quyết định, hoặc bản án của tòa án
chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì bên chết thì bên còn
sống vẫn được thừa kế di sản của người chết.
15


2.2. Một số khó khăn vướng mắc và nguyên nhân khi áp
dụng pháp luật phân chia di sản thừa kế

- Thứ nhất: Do nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển,
bên cạnh những tác động tích cực, có những mặt mặt trái mà nếu
không có cơ chế để kiểm soát chặt chẽ sẽ dẫn đến những hệ lụy rất
nguy hiểm trong các quan hệ xã hội. Đây cũng là nguyên nhân khách
quan dẫn đến các tranh chấp phát sinh.
- Thứ Hai: Việc sửa đổi, bổ sung ở một số quy định vẫn
mang tính chất khung, nên việc áp dụng gặp rất nhiều khó khăn.
Thêm vào đó là việc thiếu hướng dẫn giải thích của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền dẫn đến việc áp dụng các quy định của pháp
luật còn gặp không ít vướng mắc.
- Thứ Ba: Ý thức pháp luật của người dân còn hạn chế, đây
cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết
các tranh chấp thừa kế.
- Thứ tư: Công tác xét xử của ngành Tòa án hiện nay còn tồn
tại những vướng mắc khi giải quyết các tranh chấp thừa kế và phân
chia di sản thừa kế. Số lượng các vụ án thụ lý ngày càng nhiều nhất
là tại các thành phố lớn, đi đôi với số lượng, tính chất của các vụ
tranh chấp cũng phức tạp hơn.
2.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân chia
di sản thừa kế và tổ chức thực hiện nhìn từ góc độ áp dụng pháp
luật.
2.3.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật
- Thứ nhất: Xây dựng khái niệm di sản thừa kế
- Thứ hai: Về vấn đề di sản thờ cúng được quy định tại Điều
645 BLDS 2015 chỉ quy định chung chung là để lại “ Một phần”
trong khối di sản để làm di sản thờ cúng, di tặng là chưa thỏa đáng vì
16


pháp luật không quy định rõ một phần là bao nhiêu ? nó được xác

định trên cơ sở nào, một phần đó có thể được ghi trong di chúc xong
nếu không nói rõ là bao nhiêu phần thì thì lấy căn cứ nào để phân
định? do pháp luật phân định hay do thỏa thuận giữa những người
thừa kế ? đó là những vấn đề mà Luật cần quy định rõ ràng hơn.
Thứ ba: Vấn đề về Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí bằng
lời nói của người để lại di chúc nhằm chuyển tài sản của mình cho
những người còn sống sau khi người lập di chúc chết. Căn cứ vào
Điều 629; khoản 5 Điều 630 BLDS 2015 quy định:
Thứ tư: Vấn đề xuất hiện người thừa kế mới. Theo quy định
tại khoản 1 Điều Điều 662 BLDS 2015 về việc phân chia di sản trong
trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bạn bỏ
quyền thừa kế.
2.3.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện.
- Rà soát, hệ thống hóa thường xuyên có chất lượng các văn
bản pháp luật hiện hành liên quan đến phân chia di sản thừa kế. Đây
là khâu có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần tích cực vào việc
hình thành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất và đồng
bộ.
- Sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp cảu pháp
luật về thừa kế.Thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng và nhà
nước về quyền con người, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho
công tác thực hiện quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của
mình. Tuy nhiên trong điều kiện hội nhập quốc tế xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, một số quy định về pháp luật thừa kế
chưa rõ ràng, khó áp dụng trên thực tế, cần phải hoàn thiện trong quá
trình triển khai thực hiện.

17



- Kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn về vấn đề thừa
kế nói chung và phân chia thừa kế nói riêng.

- Tăng cường năng lực lập pháp của quốc hội, ban hành các
quy phạm về luật thừa kế. Nắm bắt được ý chí nguyện vọng của nhân
dân trước những vấn đề mà cuộc sống sống đang đòi hỏi, cần có sự
điều chỉnh của pháp luật nói chung và vấn đề thừa kế nói riêng nhằm
ban hành, sửa đổi hoặc bổ sung kịp thời những quy định của pháp
luật. Để làm tốt nhiệm vụ này cần phải giải quyết những vấn đề sau:

18


KẾT LUẬN
Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản
của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa
kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo
di chúc hoặc theo pháp luật, là một trong những quan hệ xã hội ra
đời và phát triển cùng với sự xuất hiện, phát triển của xã hội. Với ý
nghĩa như vậy, nên trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề
thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật nói
chung và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất chế độ xã hội
đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong quá
trình phát triển của một chế độ xã hội nói riêng.
Với đề tài: “ Phân chia di sản thừa kế theo quy định BLDS
2015 ” đã phần nào đưa ra những vấn đề về mặt lý luận cũng như
thực tiễn của pháp luật phân chia di sản thừa kế. Phân chia di sản
thừa kế là một đề tài có chiều rộng và chiều sâu về phạm vi nghiên
cứu. Khi đi phân tích làm sáng tỏ các luận điểm cần thiết phải tìm
hiểu hầu hết các quy định về thừa kế chứ không chỉ đơn thuần là các

quy định về phân chia di sản thừa kế. Qua quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu cũng cho thấy còn có những tồn tại như một số các quy định của
pháp luật còn chưa phù hợp với thực tế, tính khả thi không cao. Mặt
khác, do trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn có những hạn
chế nên trong thực tế các vụ việc tranh chấp xảy ra ngày càng nhều
và mức độ ngày càng gia tăng.

19



×