B QUC PHềNG
HC VIN CHNH TR
TRịNH ANH TUấN
PHáT HUY NHÂN Tố CON ngời trong nâng cao
sức mạnh chiến đấu của QUâN độI NHâN
DâN VIệT NAM
HIệN NAY THEO TƯ TƯởng hồ chí minh
LUậN áN TIếN Sĩ TRIếT HọC
H NI - 2017
2
B QUC PHềNG
HC VIN CHNH TR
TRịNH ANH TUấN
PHáT HUY NHÂN Tố CON ngời trong nâng cao
sức mạnh chiến đấu của QUâN độI NHâN
DâN VIệT NAM
HIệN NAY THEO TƯ TƯởng hồ chí minh
Chuyờn ngnh: Ch ngha duy vt bin chng v duy vt lch s
Mó s:
9229002
LUậN áN TIếN Sĩ TRIếT HọC
NGƯời hớng dẫn khoa học:
1. pgs, ts Phạm Văn Nhuận
2. pgs, ts Nguyễn Văn Thế
H NI - 2017
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu,
trích dẫn trong luận án là trung thực, có xuất
xứ rõ ràng và không trùng lặp với những công
trình đã được công bố.
Hà Nội, ngày
tháng năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trịnh Anh Tuấn
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN
ÁN
Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH PHÁT
HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG NÂNG CAO
SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Quan niệm về phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức
mạnh chiến đấu của quân đội và phát huy nhân tố con người
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2. Những nhân tố quy định phát huy nhân tố con người trong
nâng cao sức mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân Việt Nam
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ YẾU CẦU PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI TRONG NÂNG CAO SỨC MẠNH
CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức
mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2. Những mâu thuẫn và yêu cầu phát huy nhân tố con người
trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 3 GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG NÂNG CAO SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chú trọng đầu tư cơ sở vật
chất, phương tiện... hợp lý cho phát huy nhân tố con người
trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
3.2. Nâng cao chất lượng giáo dục, tuyên truyền và hoàn thiện hệ
thống chuẩn mực, tiêu chí, yêu cầu phát huy nhân tố con
người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
3.3. Phát huy tính tích cực, tự giác của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong
tiếp nhận những tác động, định hướng và chủ động chuyển
hóa thành phẩm chất, năng lực tạo động lực phát huy nhân tố
con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Trang
5
9
30
30
58
80
80
102
118
118
130
140
157
160
161
175
5
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Chữ viết đầy đủ
Chính trị viên
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công tác đảng, công tác chính trị
Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
CTV
CTQG
CNXH
CNH, HĐH
CTĐ, CTCT
Nxb
QĐND
TTHCM
XHCN
6
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài “Phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến
đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”
được tác giả tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, được
tác giả phát hiện, trăn trở, ấp ủ và quan tâm nghiên cứu từ nhiều năm, trên
cương vị người cán bộ cơ sở và cán bộ cơ quan đảm nhiệm CTĐ, CTCT của
một học viện là trung tâm giảng dạy và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn quân sự của Toàn quân.
Tác giả triển khai nghiên cứu đề tài và trình bày theo kết cấu gồm: mở
đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, ba chương (7 tiết), kết luận, danh mục
công trình nghiên cứu của tác giả liên quan luận án, danh mục tài liệu tham
khảo và phục lục. Kết cấu đảm bảo cho tác giả triển khai nghiên cứu được
những vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó đề xuất ba nhóm giải pháp cơ bản
phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những luận giải trong luận án, một mặt là sự kế thừa có chọn lọc một
số quan điểm của các học giả trong các công trình nghiên cứu, mặt khác là sự
nỗ lực nghiên cứu của tác giả dưới sự định hướng của tập thể cán bộ hướng
dẫn khoa học. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm cơ sở khoa học
cho các cấp lãnh đạo, quản lý cụ thể hóa, hoàn thiện các nội dung, quyết sách
phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Nhân tố con người cũng như phát huy nhân tố con người trong nâng cao
sức mạnh chiến đấu của Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung cơ bản
của xây dựng quân đội ta. Lịch sử hình thành, phát triển, chiến đấu và chiến
7
thắng của quân đội ta qua các cuộc kháng chiến góp phần giành và giữ vững độc
lập chủ quyền, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa gắn liền
với tiến trình phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của
quân đội. Hiện nay, phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến
đấu của Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là tiếp nối lịch sử, phù hợp với
quy luật phát triển, đồng thời là yêu cầu cấp thiết, liên quan trực tiếp đến sự sống
còn của dân tộc, của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng ta.
Thực tiện đường lối quân sự của Đảng, những thập niên vừa qua, đặc biệt
hiện nay, phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của
Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu được những thắng lợi, thành tựu to
lớn. Sức mạnh chiến đấu của quân đội không ngừng được củng cố, phát triển;
quân đội luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân giao phó. Nhân tố con người luôn được phát huy; trình độ làm chủ vũ khí,
trang bị, phương tiện, khoa học hiện đại; phẩm chất chính trị, đạo đức, phẩm chất
chiến đấu không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu ấy,
vẫn còn những hạn chế bất cập. Ở một số bộ phận cán bộ, chiến sĩ vẫn còn biểu
hiện chưa thật có quyết tâm, ý chí cao trong khắc phục khó khăn, gian khổ, tu
dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh; đặc biệt nâng cao phẩm
chất, năng lực chiến đấu, trình độ làm chủ vũ khí trang bị, phương tiện mới được
trang bị… làm hạn chế quá trình nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta.
Những bước phát triển của vũ khí, phương tiện hiện đại nhanh chóng
chưa từng có như hiện nay, thành tựu của nó nhanh chóng đưa vào thực hiện
cách mạng hóa vũ khí, phương tiện chiến tranh; toàn cầu hóa về kinh tế, hội
nhập về văn hóa; mặt trái của kinh tế thị trường và diễn biến hòa bình của các
thế lực thù đich…làm cho quá trình phát huy nhân tố con người trong nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội nói chung và theo tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng phải đối mặt với những khó khăn, thách thực mới. Phát huy
nhân tố con người không chỉ để có động lực tinh thần vươn lên làm chủ vũ
8
khí hiện đại, mà còn có tinh thần vững vàng đối phó với tính chất ác liệt của
chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch.
Vì thế nghiên cứu sinh lấy vấn đề: “Phát huy nhân tố con người trong
nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn, qua đó đề xuất những giải
pháp phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận giải những vấn đề lý luận phát huy nhân tố con người trong nâng
cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Nghiên cứu thực trạng phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức
mạnh chiến đấu của Quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những những giải pháp phát huy nhân tố con người trong nâng
cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Là những vấn đề bản chất, tính quy luật phát huy nhân tố con người
trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Là những nội dung thuộc bản chất và những vấn đề liên quan đến phát
huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội theo
tư tưởng Hồ Chí Minh (chủ yếu tập trung từ 2012 - 2016).
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của đề tài:
Đề tài dựa vào lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về nhân tố con người nói
9
chung và trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội theo tư tưởng Hồ
Chí Minh nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài:
Là hiện trạng phát huy nhân tố con người trong nâng cao sức mạnh
chiến đấu của Quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp Hồ Chí Minh. Ngoài ra, luận án còn vận
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, trừu
tượng hoá và khái quát hoá; lô gích và lịch sử; điều tra xã hội học; tham khảo ý
kiến chuyên gia và phương pháp nghiên cứu các tài liệu…
6. Những đóng góp mới của luận án
Những nội dung thuộc lý luận phát huy nhân tố con người trong nâng
cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Những kết quả đánh giá thực trạng phát huy nhân tố con người trong nâng
cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung những giải pháp được đề xuất phát huy nhân tố con người trong
nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án làm cơ sở khoa học cho các cấp lãnh đạo, quản lý ở các đơn vị
trong quân đội, đặc biệt là những sư đoàn đủ quân quân đội ta cụ thể hóa vào
hoàn thiện các nội dung, quyết sách giải quyết vấn đề về nhân tố con người
hiện nay. Ngoài ra còn có thể làm tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy và học
tập ở các học viện, nhà trường quân đội hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: mở đầu; tổng quan; 3chương ( 7 tiết); kết luận; danh mục
công trình nghiên cứu của tác giả liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
Trên thế giới, nhiều nhà khoa học nhất là các nhà khoa học Nga (Liên
Xô cũ), Trung Quốc đã có những công trình nghiên cứu có giá trị lớn về nhân
tố con người và hoạt động xây dựng, phát huy nhân tố con người, cung cấp
những cơ sở, luận cứ khoa học nền tảng, quan trọng cho việc luận giải những
vấn đề lý luận và thực tiễn, cũng như đề xuất các giải pháp phát huy nhân tố
con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho các
lực lượng vũ trang cách mạng có sức mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi
chức năng, nhiệm vụ của mình.
A.A.Grê-Scô (1978), “Các lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô-Viết”
[39], (sách chuyên khảo). Cuốn sách có dung lượng 582 trang, đây là một
công trình khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn cao về xây dựng quân đội.
Tác giả của công trình trên đã luận giải và chỉ ra nguồn gốc sức mạnh chiến
đấu của quân đội, của cán bộ, chiến sĩ. Chỉ ra quy luật những thắng lợi của
quân đội và Hồng quân Liên Xô. Đó chính là quy luật về khả năng mạnh
được, yếu thua, về sức mạnh tổng hợp, sức mạnh của nhân tố con người,
trong đó đề cập vai trò to lớn của đội ngũ những sĩ quan Hồng quân Liên
Xô. Tìm hiểu tác phẩm này giúp nghiên cứu sinh nhận thức được mục tiêu
lịch sử, nguồn gốc của các phẩm chất chiến đấu và tinh thần của cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang Xô Viết. Chương VII của công trình nêu trên có
luận giải về cán bộ sĩ quan của các lực lượng vũ trang đó là: “Không thể xây
dựng và phát triển quân đội mà không có một số lượng đầy đủ cán bộ chỉ
huy, cán bộ chính trị, cán bộ kỹ thuật - kỹ sư được đào tạo một cách thích
đáng. Đó là chân lý hoàn toàn rõ ràng. Sĩ quan là cơ sở, là sườn của quân đội
11
và hạm đội” [39, tr.289]. Tác giả đã đưa ra 6 yêu cầu rất cụ thể với cán bộ sĩ
quan và việc đào tạo họ.
Herry J Hewson (1998), “Người chỉ huy hải quân đánh bộ thế kỷ 21 - sau ý
tưởng giúp cho sự thành công trong quá trình thay đổi triệt để” [50], (sách chuyên
khảo). Trên cơ sở phân tích sự phát triển mới của tình hình, nhất là sự bùng nổ của
cách mạng khoa học công nghệ đã tạo nên “sự chuyển hướng tới một kiểu chiến
tranh hoàn toàn mới dựa trên tri thức”. Để có được đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy năng
động kịp thời cho sự thay đổi đó, tác giả nêu lên những vấn đề đáng lưu ý và cần
phải thực hiện như: tự giáo dục rèn luyện bản thân; nắm bắt kịp tiến độ; học cách
chấp nhận sự mơ hồ; tự chủ trong mọi công việc; tự điều tiết thái độ của mình:
“nếu tinh thần của người lính bị giảm sút, thì người chỉ huy phải có trách nhiệm
tạo ra những động lực cần thiết để khôi phục lại tinh thần cho họ” [50, tr.6]; hãy
giữ một tư duy mở: “bạn không thể ngăn cản được sự thay đổi mà chỉ có thể phải
thay đổi theo nó” và “hãy tự giáo dục bản thân, trau dồi kỹ năng, luôn linh hoạt,
sẵn sàng tiếp thu mọi ý kiến, nắm bắt nhanh sự thay đổi, đặt lòng tin của mình vào
tương lai, vào chính mình, vào đơn vị mình” [50, tr.7].
Tác giả Donald.H.Rumsfeld (2002), với công trình “Transforming the
military” [152], đã đề cập đến sự chuyển hoá nhằm nâng cao sức mạnh và duy
trì ưu thế của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ trong chiến lược quốc phòng mới
theo hướng ưu tiên cho con người cùng với việc đầu tư mạnh mẽ phát triển
VKTBKT công nghệ cao, hiện đại. Tác giả cho rằng, người lính là nền tảng của
lực lượng vũ trang và người lính có tố chất tốt sẽ là nhân tố quyết định chiến
thắng trong chiến tranh tương lai. Những phẩm chất cần có của các lực lượng
vũ trang Hoa Kỳ là sự khéo léo, can đảm, sáng tạo, khả năng thích ứng nhanh
chóng với sự thay đổi linh hoạt của chiến trường, với những thách thức mới
trong những hoàn cảnh bất ngờ; khả năng phối hợp giữa các lực lượng trong
thực tiễn chiến đấu. Tác giả cũng đặc biệt nhấn mạnh quá trình đào tạo người
12
lính phải được thiết kế giống như những yêu cầu khi chiến đấu. Điều đó đảm
bảo người lính có thể chiến đấu đạt hiệu quả cao như khi được đào tạo.
Tác giả Frederick W. Kagan (2006), với công trình “The U.S. Military's
Manpower Crisis” [153], đã chỉ ra nguồn gốc cuộc khủng hoảng về nhân lực
trong quân đội Mỹ hiện nay xuất phát từ chính sách phát triển quân đội Mỹ những
năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Chính sách đó ít quan tâm đến phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là chuyên gia và những người hoạch định chính sách.
Tác giả đã chỉ ra nguồn gốc của chính sách đó do quan niệm sai lầm về bản chất
của chiến tranh và việc vận dụng những nguyên tắc của kinh doanh vào việc phát
triển quân đội. Phương hướng giải quyết là vừa phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật
cao đồng thời tăng đầu tư cho việc phát triển nguồn nhân lực. Quá trình đào tạo
người lính phải được thiết kế đủ về thời gian, chú trọng đổi mới công nghệ đào tạo
và phương tiện hỗ trợ, dự kiến được những yêu cầu mới trong tương lai; chú trọng
đào tạo khả năng thích ứng với văn hoá và ngôn ngữ của địa phương. Đây là
những gợi ý quan cho phát huy nguồn lực con người trong lĩnh vực quân sự nói
chung và trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nói riêng.
Tác giả Steve M.Kosiak (2008), với công trình“Military manpower for
The LongHaul” [155], khẳng định nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh
vực quân sự có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong chiến lược dài hạn của
các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Nguồn lực này phải đủ về số lượng, được đào
tạo bài bản, có kinh nghiệm và kỹ năng tác chiến thành thạo. Tác giả cho rằng
chất lượng nguồn nhân lực quân sự là yếu tố đóng góp nhiều nhất vào sức
mạnh của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ những năm vừa qua. Tác giả đưa ra
dự báo những yêu cầu mới cho nguồn nhân lực này trong tương lai. Các
khuyến nghị tập trung vào cải thiện chế độ đãi ngộ cho việc thu hút và giữ
chân nguồn nhân lực chất lượng cao, tinh gọn lực lượng vũ trang và phát triển
việc tư vấn, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quân sự.
13
Nhìn chung, các công trình trên khẳng định, trong lĩnh vực quân sự, cùng
với vũ khí, nhân tố con người có vai trò rất quan trọng. Đó là con người có năng
lực sáng tạo, khéo léo, có kinh nghiệm tác chiến, linh hoạt và phối hợp tốt giữa
các lực lượng; có hiểu biết về văn hoá và ngôn ngữ bản địa…
2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
2.1. Các công trình nghiên cứu về nhân tố con người trong Quân đội
nhân dân Việt Nam
Vũ Quang Tạo (2002), “Mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN chống cuộc tiến công bằng vũ khí công
nghệ cao” [127], (luận án), tác giả đã bước đầu nêu ra những đặc điểm cơ bản của
mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN chống cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao; đề xuất một số giải pháp
giải quyết mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN, đánh thắng cuộc tiến công dùng vũ khí công nghệ cao. Tác giả
quan niệm, mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh là sự thống
nhất, tương tác giữa chủ thể điều khiển là con người với phương tiện bị điều khiển
là vũ khí trong một phương thức kết hợp phù hợp với một phương thức tác chiến
nhất định [127, tr.15]. Chiến tranh ở hình thức nào, kể cả chiến tranh bằng vũ khí
công nghệ cao, thì mối quan hệ giữa con người và vũ khí vẫn phải được nhận thức
theo quan điểm Mác - Lênin về vai trò quyết định của con người [127, tr.44]. Tuy
nhiên bằng kết quả nghiên cứu, tác giả cũng chỉ rõ đặc điểm mới của mối quan hệ
giữa con người và vũ khí trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
chống cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao: Đặc điểm về vai trò ngày càng
tăng của con người trong như quan hệ giữa con người và vũ khí; đặc điểm về mối
quan hệ giữa con người và vũ khí phát triển ngày càng hoàn thiện.
Nguyễn Đình Chiến (chủ biên - 2008), “Cách mạng trong quân sự và những
vấn đề đặt ra đối với Quốc phòng Việt Nam” [8], (sách chuyên khảo). Cuốn sách
dày 624 trang, đã nghiên cứu một cách có hệ thống về cách mạng trong quân sự ở
14
nước ta. Tập thể tác giả đưa ra một hệ thống vấn đề nghiên cứu cơ bản, toàn diện, từ
những nguyên tắc lý luận để tiếp cận cách mạng trong quân sự đến việc lược khảo
những thông tin về cuộc cách mạng trong quân sự đang diễn ra trên thế giới hiện
nay, đồng thời khái quát lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ
thời đại Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh dưới góc nhìn cách mạng trong
quân sự; từ đó đề xuất những vấn đề quan trọng nhằm vận dụng vào việc phát triển
nền quốc phòng Việt Nam trong thời kỳ mới. Tác giả khẳng định: “cuộc cách mạng
quân sự tạo ra những thay đổi về chất trong hệ thống chỉ huy quân sự. Trước hết, nó
đòi hỏi giảm đáng kể thời gian thông qua quyết định chỉ huy và chiến đấu, thời gian
truyền mệnh lệnh chính xác và tin cậy từ trên xuống. Đây cũng là tính chất đặc
trưng của đa số hệ thống chỉ huy và quản lý và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với hệ thống chỉ huy quân sự vì có liên quan đến sinh mệnh của nhiều người”; “khả
năng chỉ huy linh hoạt và thích nghi ngày càng phụ thuộc vào ưu thế thông tin,
không chỉ thông tin về đối phương mà cả thông tin của quân nhà và diễn biến tình
hình trên chiến trường”; “trong tương lai, bộ chỉ huy quân sự sẽ là bộ chỉ huy binh
chủng hợp thành, sĩ quan chỉ huy sẽ phải là sĩ quan chỉ huy binh chủng hợp thành,
cơ chế chỉ huy sẽ là chỉ huy liên hợp” [8, tr.6].
Trần Nam Chuân (2012), “Quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực trình độ cao cho quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn hiện nay” [10], (báo khoa học). Trên cơ sở quan điểm của Đại hội XI về
công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ mới, tác giả đi sâu phân
tích, làm rõ những ưu điểm và hạn chế trong công tác quy hoạch và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ các cấp trong quân đội thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Tác giả
khẳng định, nhiệm vụ cách mạng mới đã và đang đặt ra cho công tác cán bộ
của Đảng và Nhà nước nói chung, công tác đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
trong quân đội nói riêng một trách nhiệm hết sức nặng nề. Tác giả đề xuất giải
pháp: đổi mới công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các
cấp trong quân đội; tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách trong phát
15
hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Đặng Nam Điền (2013), “Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong
Quân đội - Mấy vấn đề đặt ra” [32], (báo khoa học). Tác giả khẳng định xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong quân đội có ý nghĩa quyết định, đảm
bảo quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Từ đánh giá thực trạng nguồn lực và nguyên nhân, tác giả đề xuất các
biện pháp cơ bản, tập trung vào các nội dung sau: tạo được sự thống nhất nhận
thức của các cấp các ngành, nhất là cấp ủy, cán bộ chủ trì về xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao trong Quân đội; có quy hoạch, kế hoạch xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao bảo đảm nhu cầu trước mắt và lâu dài; tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng toàn diện công tác giáo dục - đào tạo, huấn luyện bộ đội; quan tâm
chăm lo thực hiện các chế độ, chính sách nhằm thu hút, trọng dụng nhân tài, xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong Quân đội.
Bộ Quốc phòng (2013), Đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị tại
đơn vị trong giai đoạn mới [6], (đề án) đã khẳng định vị trí, tầm quan trọng
của công tác giáo dục chính trị tại đơn vị [6, tr.1]; chỉ ra thực trạng công tác
giáo dục chính trị tại đơn vị [6, tr.5-7]; khái quát chỉ ra mâu thuẫn cơ bản cần
giải quyết, đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu cao nâng cao chất lượng giáo dục
chính trị tại đơn vị với thực trạng chương trình, nội dung, hình thức, phương
pháp, phương tiện và chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy chính trị [6, tr.9].
Đề án chỉ rõ: “Đổi mới công tác đào tạo tại các học viện, nhà trường Quân đội
gắn với bồi dưỡng thường xuyên tại đơn vị, nâng cao trình độ, phương pháp
sư phạm và kỹ năng khai thác, quản lý thông tin mạng cho đội ngũ cán bộ
chính trị - lực lượng nòng cốt trong công tác giáo dục chính trị tại đơn vị đáp
ứng nhiệm vụ trong tình hình mới” [6, tr.11].
2.2. Các công trình nghiên cứu về nâng cao sức mạnh chiến đấu của
Quân đội nhân dân Việt Nam
16
Hoàng Quang Đạt (1996), “Nâng cao chất lượng nhân tố con người trong
sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [31], (Luận án).
Đây là công trình khoa học đã phân tích một cách hệ thống việc nâng cao chất
lượng nhân tố con người của cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam. Luận án đã làm rõ
vai trò và chất lượng của nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội ta; đề xuất một số phương hướng, biện pháp cơ bản có tính khả thi, góp phần
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện nay. Tác
giả khẳng định: nhân tố con người là trung tâm, là chủ thể quyết định vai trò ngày
càng tăng lên trước sự phát triển mới của sức mạnh chiến đấu. Việc nâng cao chất
lượng nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu là vấn đề của mọi quân đội, dù
với quan niệm khác nhau như thế nào về con người. Đó cũng là vấn đề có tính cơ
bản thường xuyên đối với quá trình nâng cao chất lượng tổng hợp và xây dựng
sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Việc nâng cao chất lượng nhân tố con người,
phát huy vai trò nhân tố con người là vấn đề cơ bản lâu dài, đặc biệt hiện nay đang
trở thành vấn đề cấp thiết. Chất lượng nhân tố con người đang đứng trước yêu cầu
phát triển của vũ khí - kỹ thuật, trước yêu cầu xây dựng sức mạnh chiến đấu mới
đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng, trước yêu cầu phát triển của bản thân
con người trong quân đội còn những hạn chế, bất cập so với yêu cầu của nhiệm vụ
mới. Từ đó, công trình đã đề ra các giải pháp như việc bồi dưỡng phẩm chất chiến
đấu cho cán bộ, chiến sỹ, đặc biệt phẩm chất chính trị - đạo đức; kết hợp với xây
dựng tổ chức quân đội vững mạnh; chú trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp của
toàn xã hội để nâng cao chất lượng nhân tố con người…
Nguyễn Văn Tài (1998), “Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ
quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [123], (luận án),
tác giả đã vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống hoạt động - giá trị - nhân
cách để góp phần xác định rõ khái niệm nhân tố con người, tích cực hóa nhân tố
con người của đội ngũ sĩ quan; khám phá nội dung, thực chất và những vấn đề
có tính quy luật với tính cách là những động lực tích cực hóa nhân tố con người
17
của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội hiện nay; bước đầu làm sáng tỏ vai
trò nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan; khảo sát tình hình tích cực hóa nhân
tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội hiện nay và chỉ ra các
mâu thuẫn cần giải quyết của quá trình đó; đề xuất một số phương hướng và giải
pháp cơ bản, đồng bộ, phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự trong tình hình
mới nhằm hiện thực hóa tiềm năng tích cực tự giác, sáng tạo của đội ngũ sĩ quan
trong xây dựng quân đội. Theo tác giả, “Tích cực hóa nhân tố con người của đội
ngũ sĩ quan là một quá trình phát hiện, bồi dưỡng, kích thích phát triển, đồng
thời phát huy và sử dụng đúng đắn, có hiệu quả tính tích cực, tự giác, sáng tạo
của đội ngũ sĩ quan, tạo động lực phát triển của sự nghiệp xây dựng QĐND Việt
Nam theo phương hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện
đại”; Đồng thời khẳng định, tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan
trong xây dựng quân đội hiện nay là một vấn đề có quy mô cả chiều rộng và
chiều sâu, đòi hỏi phải được thực hiện đồng bộ bằng một hệ thống các phương
hướng và giải pháp cơ bản có quan hệ chặt chẽ với nhau, bao gồm: định hướng
giá trị - lợi ích, dân chủ hóa và trí tuệ hoá. Trong các phương hướng, giải pháp
đó thì trí tuệ hoá là quan trọng nhất, vì nó trực tiếp tác động đến phẩm chất và
năng lực của đội ngũ sĩ quan. Mọi biện pháp tích cực hóa nhân tố con người phải
thông qua việc bồi dưỡng, phát triển phẩm chất và năng lực mới có thể phát huy
và sử dụng tốt tiềm năng tích cực, tự giác, sáng tạo của đội ngũ sĩ quan trong sự
nghiệp xây dựng quân đội [123, Tr.147].
Nguyễn Kim Ninh (2002), “Quan hệ giữa chất lượng và số lượng con
người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay” [108], (luận án), tác giả đã góp phần làm rõ các khái niệm số lượng,
chất lượng con người và mối quan hệ biện chứng của nó trong sức mạnh chiến
đấu của quân đội ta; bước đầu khái quát một số vấn đề có tính quy luật trong giải
quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức
mạnh chiến đấu của quân đội; đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết
18
mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội ta hiện nay. Luận án khẳng định, “Nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội là một quá trình tác động tổng hợp vào tất cả các mặt
hoạt động nhằm xây dựng, phát triển, hoàn thiện các yếu tố và giải quyết tốt mối
quan hệ giữa các yếu tố trong sức mạnh chiến đấu của quân đội, đảm bảo sức
mạnh chiến đấu của quân đội ngày càng cao, quân đội luôn trong trạng thái sẵn
sàng chiến đấu cao và có khả năng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, trong
mọi tình huống” [108, tr.35]. Trong đó, “quan hệ giữa số lượng và chất lượng
con người là một trong những mối quan hệ nền tảng tạo nên sức mạnh chiến đấu
của quân đội. Trên cơ sở vạch ra 4 vấn đề có tính quy luật, xem xét, đánh giá
thực trạng, chỉ ra yêu cầu mới trong giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và
chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, luận án
đã đề xuất 3 nhóm giải pháp cơ bản nhằm giải quyết mối quan hệ giữa số lượng
và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, gồm:
Nhóm giải pháp tác động vào tổ chức, biên chế của quân đội, xây dựng quân số
hợp lý, chất lượng cao; nhóm giải pháp góp phần nâng cao chất lượng con người
của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; nhóm giải pháp tác động vào điều
kiện khách quan để giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con
người nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện nay.
Hoàng Văn Thanh (Chủ biên - 2009), “Bồi dưỡng nhân cách chính trị
viên cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội hiện nay” [128], (sách chuyên
khảo), đã luận giải về lý luận, thực tiễn, chỉ ra yêu cầu và đề xuất giải pháp
bồi dưỡng nhân cách chính trị viên cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội
hiện nay. Công trình nhận định: Bồi dưỡng nhân cách chính trị viên cho đội
ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội là toàn bộ hoạt động của cấp ủy đảng, chính
ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị và các tổ chức trong đơn vị
tác động vào hệ thống phẩm chất nhân cách người cán bộ chính trị cấp phân
19
đội làm cho nó không ngừng phát triển, hoàn thiện đáp ứng, yêu cầu, nhiệm
vụ, chức trách trên cương vị được giao [128, tr.30].
Nguyễn Thanh Hùng (2010), “Bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội” [60], (sách chuyên khảo), tác giả khẳng định, tiến
hành CTĐ, CTCT là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng quân đội cách
mạng và có vai trò quan trọng trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của QĐND
Việt Nam hiện nay. Đây là hoạt động đòi hỏi phát huy sức mạnh tổng hợp của
các tổ chức, lực lượng, đặc biệt là sĩ quan chỉ huy cấp phân đội. Tác giả đã nhấn
mạnh, bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội phải
kết hợp chặt chẽ bồi dưỡng của tổ chức với tự bồi dưỡng, tự rèn luyện của sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội; phải gắn bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT với nâng
cao phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực toàn diện của sĩ quan chỉ huy cấp
phân đội. Tác giả đưa ra bốn giải pháp chủ yếu trong bồi dưỡng năng lực CTĐ,
CTCT cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội. Trong đó tác giả cho rằng, “Nâng cao
nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy các cấp về bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho
sĩ quan chỉ huy cấp phân đội là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt nhằm tạo ra sự
thống nhất về tư tưởng làm cơ sở cho sự thống nhất trong hành động, phát huy
mạnh mẽ động lực tinh thần, khắc phục khó khăn, bảo đảm cho hoạt động bồi
dưỡng đi đúng hướng, đem lại hiệu quả cao” [60, tr.145].
Phạm Xuân Hảo (chủ biên - 2010), “Bồi dưỡng lối sống XHCN cho sĩ
quan trẻ hiện nay” [48], (sách chuyên khảo), đã nhận định: “Bồi dưỡng cho
đội ngũ sĩ quan quân đội nói chung, đội ngũ sĩ quan trẻ nói riêng về phẩm chất
và năng lực...giữ vai trò cực kỳ quan trọng và cấp thiết. Lối sống là một yếu tố
cấu thành phẩm chất chính trị, đạo đức, giữ vai trò quan trọng trong hành vi
chính trị, đạo đức của sĩ quan trẻ” [48, tr.168].
Nguyễn Quang Bắc (2011), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa
học - công nghệ quân sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ” [3], (Báo khoa học). Từ
thực tiễn tiến hành hoạt động kỹ thuật quân sự hiện nay, tác giả khẳng định nâng
20
cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ quân sự giữ vị trí trung tâm,
là giải pháp quan trọng nhằm xây dựng ngành kỹ thuật quân đội và sự nghiệp
xây dựng quân đội trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Tác giả đánh giá, những
năm vừa qua mặc dù có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ khoa học - công nghệ quân sự chưa ngang tầm với yêu cầu mới.
Từ đó, tác giả đưa ra ba giải pháp đó là: Không ngừng giáo dục, bồi dưỡng lập
trường giai cấp công nhân, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh; Làm tốt công tác quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ khoa học - công
nghệ quân sự và tập trung hoàn thiện môi trường hoạt động và có chính sách đãi
ngộ đối với cán bộ khoa học - công nghệ quân sự.
Hoàng Đình Tỉnh (2012), “Nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ
trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [143], (luận án). Đây là
công trình nghiên cứu có hệ thống về vấn đề nguồn nhân lực quân sự với một đối
tượng cụ thể là sĩ quan trẻ trong QĐND Việt Nam. Tác giả đã làm rõ một số vấn
đề lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ trong xây dựng
QĐND Việt Nam: quan niệm, vai trò, những vấn đề có tính quy luật và thực chất
nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ. Tác giả đã phân tích thực trạng, ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân của nó; đồng thời dự báo xu hướng vận động của
nâng cao chất lượng nguồn lực này trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, tác giả đề
xuất các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ trong xây
dựng QĐND Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Văn Huy (2013), “Nâng cao năng lực thực tiễn của người
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [61], (luận án).
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và kết khảo sát,
phân tích, đánh giá khách quan thực trạng nâng cao năng lực thực tiễn của
người chính trị viên trong QĐND Việt Nam, tác giả tập trung luận giải ba giải
pháp cơ bản, trực tiếp nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên góp
phần nâng cao hiệu quả công tác đảng công tác chính trị, nâng cao sức mạnh
21
chiến đấu của QĐND Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong QĐND Việt
Nam. Thứ hai, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của người chính trị viên trong
nâng cao năng lực thực tiễn của họ. Thứ ba, xây dựng môi trường thuận lợi cho
nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong QĐND Việt Nam.
Trong hệ thống ba giải pháp trên, tác giả xác định: giải pháp thứ nhất có ý
nghĩa quan trọng; giải pháp thứ hai có ý nghĩa quyết định; giải pháp thứ ba vừa
tạo điều kiện khách quan thuận lợi, vừa tạo động lực thúc đẩy nâng cao năng
lực thực tiễn của người chính trị viên trong QĐND Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện cần phải tiến hành đồng bộ cả ba giải pháp trên.
Nguyễn Văn Động (Chủ biên - 2014), “Nghiên cứu giải pháp thu hút tài
năng phục vụ quân đội trong tình hình mới” [34], (sách chuyên khảo). Đây là
một công trình nghiên cứu chuyên sâu về tài năng và vấn đề thu hút tài năng
phục vụ quân đội hiện nay. Công trình đã tiếp cận, đưa ra quan niệm về tài
năng phục vụ quân đội, đặc điểm và vai trò của tài năng phục vụ quân đội.
Công trình cũng đã trình bày quan niệm về thu hút tài năng phục vụ quân đội,
các nguyên tắc thu hút tài năng phục vụ quân đội và những tiêu chí đánh giá
hoạt động thu hút thu hút tài năng phục vụ quân đội. Trên cơ sở đó, công trình
đã khảo sát, đánh giá toàn diện thực trạng thu hút thu hút tài năng phục vụ quân
đội hiện nay (từ 2008 đến 2013), chỉ ra nguyên nhân và rút ra những bài học
kinh nghiệm quý trong vấn đề thu hút tài năng phục vụ quân đội. Công trình
cũng nêu ra những yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản, có tính hệ thống
nhằm thu hút tài năng phục vụ quân đội trong tình hình mới, đó là: 1, Đổi mới
tư duy, làm chuyển biến nhận thức, nâng cao trách nhiệm của chủ thể, của các
tổ chức, các lực lượng tham gia thu hút tài năng phục vụ quân đội trong tình
hình mới. 2, Đổi mới, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về thu
hút tài năng phục vụ quân đội trong tình hình mới. 3, Hoàn thiện cơ chế, chính
sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ tài năng, thu hút tài
22
năng phục vụ quân đội trong tình hình mới. 4, Tiếp tục đổi mới quy trình, nội
dung, phương thức thu hút tài năng phục vụ quân đội trong tình hình mới. 5,
Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong và ngoài quân
đội tham gia thu hút tài năng phục vụ quân đội trong tình hình mới. Những kết
quả nghiên cứu của công trình đặc biệt về quan niệm thu hút tài năng phục vụ
quân đội, giải pháp thứ 3, thứ 4 là những thông tin quý giúp tác giả có thể tham
khảo, kế thừa trong quá trình triển khai nghiên cứu luận án.
Các công trình trên đã làm rõ một số vấn đề lý luận về nâng cao sức
mạnh chiến đấu của quân đội, tiếp cận từ nhân tố con người trong quân đội, từ
đó đưa ra quan niệm, đặc điểm và tiêu chí đánh giá; phương hướng phát triển
nhân tố con người trong quân đội. Các công trình tập trung vào các nội dung
như: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, của bản
thân mỗi chủ thể hoạt động quân sự; Đổi mới nội dung, chương trình, phương
thức đào tạo, bồi dưỡng các đối tượng; xây dựng môi trường công tác thuận
lợi và cải thiện chế độ đãi ngộ với từng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.. nhằm nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.
2.3. Các công trình nghiên cứu về nhấn tố con người trong Quân đội
nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Phạm Thanh Ngân (1999), “Bản lĩnh chính trị Bộ đội Cụ Hồ trong thời
kỳ mới” [104], (sách chuyên khảo), đã bàn khá sâu sắc về bản lĩnh chính trị
đối với cán bộ, đảng viên trong quân đội nói chung. Theo tác giả, trước tình
hình, yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, đòi hỏi quân đội nhân dân phải nâng cao sức
mạnh tổng hợp, trước hết là bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ để xử lý đúng
đắn những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong quá trình thực hiện đường lối
của Đảng thời kỳ mới. Tác giả khẳng định, “Bản lĩnh chính trị của QĐND
vững vàng là sức mạnh trực tiếp làm phá sản chiến lược “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch nhằm tấn công quân đội ta về chính trị, tư tưởng. Đó
cũng là sức mạnh răn đe, đập tan mọi âm mưu của chúng hòng thực hiện ý đồ
23
“phi chính trị hóa quân đội” [104, tr.11-12]. “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân
đội có bản lĩnh chính trị vững vàng; có phẩm chất đạo đức và năng lực toàn
diện đáp ứng yêu cầu xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại; luôn có đủ số lượng và cơ cấu đồng bộ, hợp lý; đảm bảo được
sự chuyển tiếp liên tục, vững chắc giữa các thế hệ cán bộ” [104, tr.121]. “Phải
nắm vững và chắt lọc được những kinh nghiệm truyền thống chiến đấu của
dân tộc và những tinh hoa của nghệ thuật quân sự Việt Nam và thế giới. Giỏi
trong tổ chức chỉ huy quản lý bộ đội ở điều kiện mới” [104, tr.122].
Nguyễn Hữu Công (2001), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện” [11], (luận án). Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu lý
luận, thực tiễn, đồng thời căn cứ vào tình hình nhiệm vụ của cách mạng nước
ta và xu thế phát triển của thời đại cũng như từ những vấn đề đặt ra qua thực
tiễn phát triển của con người theo quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh ở
Việt Nam hiện nay, tác giả luận án đã nêu lên một số định hướng cơ bản cho
việc vận dụng và phát huy TTHCM về phát triển con người toàn diện vào sự
nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay. Đó là: Kết hợp chặt chẽ
giữa dạy “chữ”, dạy "nghề" với dạy “người" trong giáo dục, đào tạo; đổi
mới quan điểm đánh giá và tiêu chuẩn tuyển chọn, sắp xếp đội ngũ cán
bộ, công chức và lực lượng lao động của xã hội; tạo môi trường thuận lợi
để con người Việt Nam có cơ hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của bản thân.
Nguyễn Quang Phát (2001), “Xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên
trong quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [111], (luận án), đã đi
vào luận giải từ cơ sở hình thành phát triển, những nội dung cơ bản và chỉ ra
quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị của QĐND Việt Nam theo
TTHCM qua các thời kỳ cách mạng; đồng thời đánh giá tình hình đội ngũ cán
bộ chủ trì về chính trị và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị hiện nay.
Khi bàn về nhân cách đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội hiện nay
24
theo TTHCM, tác giả chỉ rõ: “Theo Hồ Chí Minh, chính ủy, chính trị viên
phải là người thật sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng... năng lực toàn diện,
đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy mọi mặt ở đơn vị... sự mẫu mực về phong
cách, tác phong công tác, lời nói đi đôi với việc làm [111, tr.39 - 46]. Trên cơ
sở phân tích, luận giải một cách hệ thống, sâu sắc TTHCM về phẩm chất,
năng lực, vai trò của chính trị viên trong Quân đội, những yêu cầu về phẩm
chất và năng lực của đội ngũ cán bộ chính trị phân đội của QĐND Việt Nam,
để xây dựng được đội ngũ cán bộ chính trị phân đội có đủ những phẩm chất,
năng lực, tác giả đã nhấn mạnh sự cần thiết phải làm tốt công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị phân đội.
Phạm Văn Nhuận (chủ biên - 2004), công trình “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội” [107], (sách chuyên
khảo), đã tập trung làm rõ lý luận và thực tiễn TTHCM về đạo đức cách mạng
của người cán bộ quân đội và đề xuất phương hướng, nội dung nâng cao đạo
đức cách mạng của người cán bộ quân đội hiện nay dưới ánh sáng TTHCM.
Công trình nhấn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh “luôn đòi hỏi ở mỗi cán bộ
quân đội những phẩm chất nhân cách tốt đẹp, có đủ cả đức và tài, trong đó
đức phải là gốc” [107, tr.147].
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (2007), với bài viết chuyên khảo “Tư tưởng
Hồ Chí Minh với quá trình trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta” [38],
đã luận giải hết sức sâu sắc năm nội dung lớn của TTHCM đối với quá trình
trưởng thành và chiến thắng của QĐND Việt Nam. Bàn về xây dựng và phát
triển nhân cách đội ngũ cán bộ QĐND Việt Nam theo TTHCM, Đại tướng chỉ
rõ: “Người coi việc đặt quân đội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng là vấn đề
nguyên tắc, việc chăm lo giáo dục đảng viên, cán bộ về phẩm chất cách mạng
để phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, của đảng viên trong quân
đội là nhân tố có ý nghĩa quyết định để đánh thắng kẻ thù” [38, tr.35].
25
Nguyễn Vĩnh Thắng (Chủ biên - 2011), “Nghiên cứu giữ vững và phát
huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới” [136], (sách chuyên
khảo), đã được xuất bản thành bộ sách gồm 7 tập: tập 1 đi vào phân tích, đánh
giá luận giải “Những vấn đề cơ bản về giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ
đội Cụ Hồ” trong tình hình mới”; từ tập 2 đến tập 7 đề cập đến những nội dung
cụ thể của việc: Giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình
hình mới. Công trình thực sự có giá trị khoa học to lớn trong định hướng việc
giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” cho mọi cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội. Trong tập 1 của công trình chỉ rõ: “Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”
là hệ thống giá trị văn hóa - chính trị - đạo đức tốt đẹp, bền vững, phản ánh bản
chất, truyền thống của QĐND Việt Nam” [136, Tr.12].
Hà Đức Long (2014), “Phát triển nhân cách chính trị viên trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [71],
(luận án), chỉ ra ba nhân tố cơ bản quy định việc phát triển nhân cách chính
trị viên trong QĐND Việt Nam theo TTHCM. Bao gồm: phát triển nhân cách
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo TTHCM phụ thuộc
vào chất lượng giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng, rèn luyện chính trị viên [71,
tr.59]; phát triển nhân cách chính trị viên trong QĐND Việt Nam theo
TTHCM phụ thuộc vào nhân tố chủ quan - tự thân của người chính trị viên
[71, tr.64]; phát triển nhân cách chính trị viên trong QĐND Việt Nam theo
TTHCM phụ thuộc vào môi trường công tác của người chính trị viên và cơ
chế, chính sách đối với họ [71, tr.69].
Kết quả của các công trình khoa học đã công bố là cơ sở lý luận, thực
tiễn cho luận án kế thừa, bổ sung, phát triển thêm theo hướng nghiên cứu đề
tài của luận án đã xác định.
3. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và
những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết