Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Luận văn thạc sĩ kinh tế: Nghiên cứu phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 114 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua một thời kỳ dài của nền kinh tế nông nghiệp với cơ chế bao cấp,
nhiệm vụ chủ yếu của các công trình thủy lợi ở nước ta là cấp nước tưới tiêu
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, trong điều kiện mới của nền kinh tế
thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống công trình thủy lợi
đã có những thay đổi đa dạng và mang tính tổng hợp hơn. Nhiều hệ thống
thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu hiện đang được đầu tư, nâng cấp để đảm nhiệm
thêm nhiệm vụ mới như: cấp nước thô (nước lấy từ nguồn nước sông tự
nhiên, chưa qua công đoạn làm sạch) phục vụ cho các nhà máy nước sạch
phục vụ công nghiệp và dân sinh; cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, du lịch,
giao thông thuỷ,.... Do việc phải đảm trách thêm những nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh mới này, công tác quản lý, vận hành các công trình trở nên phức
tạp hơn, và chi phí sản xuất cũng tăng cao hơn so với khi hệ thống chỉ có một
nhiệm vụ phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
Do công tác định giá sản phẩm và hoạt động dịch vụ chưa được quan tâm
thích đánh, hay nói chính xác hơn, do chưa có hệ thống định mức kinh tế kỹ
thuật, định mức chi phí trong hoạt động sản xuất, nên hiện nay vấn đề cân đối
tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống thuỷ lợi gặp
rất nhiều khó khăn và luôn rơi vào tình trạng xung đột trong các quan hệ hợp
đồng kinh tế mà không có căn cứ phân định đúng sai. Thực tế này đã dẫn đến
tình trạng, nguồn kinh phí thu được của các hệ thống công trình thủy lợi từ
cấp nước nông nghiệp và các ngành tham gia hưởng lợi không đủ để duy tu
bảo dưỡng và vận hành các công trình của hệ thống cấp nước và các hệ thống
thủy lợi dẫn nước tạo nguồn. Do thiếu kinh phí trong hoạt động vận hành và
duy tu cải tạo, nên các hệ thống thuỷ lợi hiện có ngày một xuống cấp, đời
sống cán bộ công nhân viên của các loại hình doanh nghiệp này ngày càng
khó khăn. Để duy trì hoạt động cầm chừng của các hệ thống này, hàng năm




2

nhà nước phải cấp bù một khoản ngân sách không nhỏ. Nếu không có những
định hướng đúng trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, thì mãi mãi
hoạt động của các hệ thống thuỷ lợi vẫn ở trong vòng luẩn quẩn.
Đã đến lúc cần phải vận dụng các biện pháp pháp luật, hành chính, kinh tế,
kỹ thuật và tuyên truyền, giáo dục,... để giải quyết những mâu thuẫn giữa
cung và cầu và tình trạng tài nguyên nước không đủ so với nhu cầu dùng
nước tăng trưởng tương đối nhanh, giải quyết mâu thuẫn giữa tình trạng môi
trường bị xấu đi, trong khi khả năng xử lí và khắc phục không đầy đủ, giải
quyết mâu thuẫn giữa tình trạng giá nước vẫn còn thu tương đối thấp trong
khi phải đầu tư xây dựng công trình là lắp đặt các trang thiết bị quản lí vận
hành công trình nước với chất lượng cao và kinh phí đầu tư lớn.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn “Nghiên cứu
phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình
thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp”. Việc nghiên cứu phương pháp
xây dựng định mức chi phí nói chung, định mức chi phí cấp nước thô từ hệ
thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp nói riêng, là một
trong những công tác rất cần thiết và cấp bách cần thiết phải được triển khai
ngay. Kết quả của việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở quan trọng để các đơn vị có
thể chủ động tổ chức xây dựng, rà soát điều chỉnh định mức cho đơn vị mình,
đồng thời giúp các cơ quan quản lý có thẩm quyền ở địa phương kiểm tra,
thẩm định kết quả tính toán và quyết định ban hành áp dụng các chỉ tiêu định
mức chi phí trong hoạt động quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra phương pháp xây dựng định mức
chi phí cấp nước thô phù hợp với thực trạng tổ chức sản xuất, điều kiện trang
bị kỹ thuật và trình độ quản lý của doanh nghiệp quản lý khai thác công trình

thuỷ lợi trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội của một hệ thống công trình cụ thể.


3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp xây dựng định mức kinh
tế kỹ thuật nói chung, phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô
ở các hệ thống công trình thuỷ lợi nói riêng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động quản lý vận hành, sản xuất
kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho các đối tượng hưởng lợi từ hệ thống công
trình thuỷ lợi. Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động và chi phí phát sinh
do hoạt động cấp nước thô từ hệ thống công trình thuỷ lợi cho các hoạt động
sản xuất nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh hoạt.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nội dung, nhiệm vụ của đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp thống kế, kinh
nghiệm; Phương pháp so sánh; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp phân
tích theo mô hình toán; Phương pháp tổng hợp; và một số phương pháp kết
hợp khác.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Trên cơ sở tổng quan các cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động nghiên
cứu và xây dựng định mức, luận văn đã đề xuất và lựa chọn được phương
pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô phù hợp, có cơ sở khoa học

trong quản lý khai thác các hệ thống công trình thuỷ lợi ở nước ta hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài là nội dung tham khảo hữu ích cho
những nghiên cứu, học tập và giảng dạy về xây dựng định mức.
b. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài


4

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được xem như một hướng dẫn mẫu,
một gợi ý quan trọng cho hoạt động thực tiễn về xây dựng định mức kinh tế
kỹ thuật và tổ chức quản lý sản xuất ở các hệ thống công trình thuỷ lợi.
6. Nội dung nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu theo nhiệm vụ đã đề ra, nội dung nghiên
cứu của đề tài tập trung vào các nội dung chính như sau:
- Nghiên cứu tổng quan về công tác xây dựng và áp dụng định mức chi phí
cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công
nghiệp. Tổng kết các kết quả định mức chi phí thực tế tại một số vùng, miền.
- Nghiên cứu xây dựng quy trình và phương pháp lập một số định mức chi phí
chủ yếu (gồm một số loại định mức chủ yếu: Chi phí tiền lương trên một đơn
vị sản phẩm; Chi phí các khoản theo lương; Chi phí nạo vét kênh mương; chi
phí dụng cụ, vật tư duy trì vệ sinh kênh mương; Chi phí vật tư, nghiên nhiên
liệu bảo dưỡng thiết bị vận hành công trình; Chi phí sửa chữa thường xuyên
tài sản cố định; Chi phí quản lý doanh nghiệp; Chi phí khấu hao tài sản cố
định; Chi phí tri trả tạo nguồn; Một số chi phí khác).
- Áp dụng kết quả nghiên cứu phương pháp xây dựng định mức để tính toán
chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và
công nghiệp của một hệ thống thuỷ lợi cụ thể.



5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỊNH MỨC
KINH TẾ KỸ THUẬT TRONG QUẢN LÝ KHAI THÁC CÔNG TRÌNH
THUỶ LỢI
1.1. Một số khái niệm về định mức
Định mức là một trong những công cụ quan trọng và cần thiết trong các
hoạt động tổ chức và quản lý mà chính phủ của các quốc gia trên thế giới. Ở
Việt Nam công tác lập và áp dụng nhiều loại định mức khác nhau được Chính
phủ công bố hoặc hướng dẫn xây dựng, áp dụng, nhằm kiểm soát các hoạt
động kinh tế của đất nước. Về mặt xây dựng và quản lý, định mức được chia
thành các loại sau đây:
a. Định mức Nhà nước áp dụng chung cho các ngành, các cấp, được quy định
cho những sản phẩm (công việc) chủ yếu, do Nhà nước thống nhất quản lý, có
liên quan đến các cân đối chung của nền kinh tế quốc dân;
b. Định mức áp dụng trong từng ngành, được quy định cho những sản phẩm
(công việc) khi chưa có định mức Nhà nước, khi cần cụ thể hóa định mức Nhà
nước,hoặc cho những sản phẩm (công việc) của ngành được phân cấp quản
lý;
c. Định mức tỉnh,thành phố và đặc khu trực thuộc trung ương áp dụng trong
phạm vi tỉnh, được quy định cho những sản phẩm (công việc) khi chưa có
định mức Nhà nước, định mức ngành; khi cần cụ thể hóa định mức Nhà nước,
định mức ngành; hoặc cho những sản phẩm (công việc) của tỉnh, được phân
cấp quản lý;
d. Định mức huyện, quận và thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh áp dụng trong
phạm vi huyện được quy định cho những sản phẩm (công việc) khi chưa có
định mức Nhà nước, định mức ngành, định mức tỉnh, thành phố; khi cần cụ
thể hoá định mức của cấp trên, hoặc cho những sản phẩm (công việc) của
huyện được phân cấp quản lý;



6

e. Định mức đơn vị cơ sở áp dụng trong từng đơn vị cơ sở được quy định cho
những sản phẩm (công việc ) khi chưa có định mức Nhà nước, định mức
ngành, định mức địa phương; khi cần cụ thể hoá định mức của cấp trên; hoặc
cho những sản phẩm (công việc) của đơn vị cơ sở sản xuất được phân cấp
quản lý.
Mức theo tiếng la tinh là norm, trong thực tiễn mức còn có các từ tương
đương như tiêu chuẩn, chuẩn mực, hạn ngạch, v.v… Mức có mặt trong nhiều
lĩnh vực của đời sống như kinh tế, chính trị, pháp luật, tôn giáo, phong tục,
tập quán, đạo đức, thẩm mỹ,... ví dụ, trong thực tế gặp các câu nói: “ Nhân
viên A hoàn thành vượt mức công tác đặt ra trong ngày”; “Công nhân B hoàn
thành vượt mức sản lượng”; “ Giám đốc C cư xử với mọi người rất đúng
mức”; “ Anh D đã được hạ mức kỷ luật từ buộc thôi việc xuống cảnh cáo”;
v.v…
Như vậy, mức không nhất thiết là phạm trù định lượng được mà có thể là
phạm trù định tính. Mức xuất hiện trong hoạt động sản xuất và trao đổi hàng
hóa của con người được gọi là mức kinh tế - kỹ thuật, theo cách gọi thông
dụng hiện nay là định mức kinh tế kỹ thuật
Trong thực tế xây dựng và áp dụng định mức, chúng ta thường gặp các
khái niệm định mức sau:
1.1.1. Định mức lao động
Trong lĩnh vực hoạt động lao động sản xuất của con người, muốn cho quá
trình sản xuất tập thể của họ đạt đươc kết quả cao, thì ta phải biết kết hợp một
cách tốt nhất 3 yếu tố cơ bản của sản xuất, cũng như biết tổ chức và định mức
tốt các quá trình lao động.
Lịch sử phát triển loài người đã chứng minh rằng, khi trình độ sản xuất
ngày càng phát triển, thì công tác tổ chức và định mức lao động càng cần phải
dựa trên cơ sở khoa học chặt chẽ hơn và càng cần được quan tâm ở mức cao



7

hơn. Ở thời kỳ lao động của con người còn là thủ công và mức độ cơ giới hoá,
xã hội hoá lao động chưa cao, thì chỉ cần dựa vào kinh nghiệm của một số
người đã có thể tổ chức lao động tốt, khi lao động của con người dần được
máy móc thay thế, quy mô sản xuất ngày càng lớn, mức độ xã hội hoá lao
động ngày càng cao thì tổ chức và định mức lao động trở nên vô cùng quan
trọng và trở thành một bộ phận không thể tách rời của tổ chức sản xuất.
Xây dựng định mức lao động trong doanh nghiệp là lĩnh vực hoạt động
thực tiễn về xây dựng, và thực hiện các mức lao động trong tất cả các dạng
hoạt động lao động. Căn cứ vào phương pháp xây dựng mức chung ta có thể
phân định mức lao động thành hai nhóm chính là :
Những định mức lao động được xây dựng trên cơ sở những phương pháp
khoa học như chụp ảnh, bấm thời gian làm việc, dùng toán học để tính toán
chính xác thời gian lao động hao phí. Định mức lao động được xây dựng có
tính toán và đề cập tới điều kiện tổ chức kỹ thuật trình độ tổ chức lao động và
các yếu tố về điều kiện lao động, tâm sinh lý của con người. Như vậy là do
yêu cầu về tính chính xác cao, nên để xây dựng được loại mức này, phải đòi
hỏi thời gian, công sức và phương tiện lớn, khối lượng tính toán nhiều, chính
vì thế, nó được xây dựng và áp dụng trong các nhà máy công nghiệp, những
công việc phổ biến ổn định, hao phí thời gian nhỏ.
Nhóm mức thứ hai là những định mức thống kê kinh nghiệm nó được xây
dựng trên cơ sở nhứng tài liệu thông kê, những mức điển hình tiên tiến, và
kinh nghiệm của cán bộ xây dựng mức. Về mặt chất lượng, những định mức
này có trình độ chính xác chưa cao, nhưng trong thực tế nó lại được áp dụng
khá phổ biến cho những công việc mức ổn định thấp chu kỳ dài nơi làm việt
thường xuyên thay đổi. Những doanh nghiệp mà trình độ kỹ thuật, điều kiện
sản xuất luôn biến động.



8

Trong thực tế chúng ta thường xây dựng và áp dụng các loại định mức sau
đây: Mức thời gian; Mức sản lượng; Mức số lượng người làm việc; Mức quản
lý; Mức phục vụ.
Tuỳ thuộc vào từng công việc trong thực tế của các đơn vị sản xuất mà
chúng ta chọn phương pháp và mức lao động thích hợp để áp dụng, với mỗi xí
nghiệp do chức năng đảm nhận khác nhau trong quá trình sản xuất của các
dạng, loại công việc mà có thể có nhiều loại mức lao động khác nhau.
Như vậy thông qua những khái niệm trên chúng ta thấy rằng định mức lao
động chính là thước đo chất lượng và số lượng lao động ứng với một điều
kiện tổ chức sản xuất của một quá trình sản xuất cụ thể.
Nhờ có mức mà chúng ta có thể xác định được giá thành sản phẩm, xác
định được kế hoạch về lao động tiền lương của xí nghiệp tổ chức lao động và
sản xuất một cách hợp lý và khoa học. Việc áp dụng mức lao động vào sản
xuất sẽ khuyến khích người lao động phấn đấu một cách tự giác để không
ngừng nâng cao trình độ tay nghề phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật quý
trọng và tiết kiệm thời gian lao động và những yếu tố vật chất khác của sản
xuất đấy là một tiền đề hết sức quan trọng để nâng cao năng suất lao động và
hạ giá thành sản phẩm. Đây chính là một vấn đề hết sức quan trọng trong
quản lý sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp.
Thực trạng quản lý sản xuất quản lý lao động ở các doanh nghiệp khai thác
công trình thuỷ lợi nói chung còn lỏng lẻo và còn nhiều khiếm khuyết.
Nguyên nhân chính của những tồn tại này lại chính là do các doanh nghiệp
chưa làm tốt công tác tổ chức và định mức lao động những tập mức được quy
định thống nhất chung của nhà nước ban hành đã quá lạc hậu so với yêu cầu
và những biến đổi của thực tiễn sản xuất ở các xí nghiệp hơn nữa khi áp dụng
những mức đó vào sản xuất gây nhiều khó khăn cho công tác định mức.

Nguyên nhân chính là do những mức đó chưa đề cập hết đến thực trạng tổ
chức kỹ thuật và những đặc điểm riêng biệt của từng doanh nghiệp.


9

Một vấn đề khác cũng cần phải đề cập tới khi phân tích những tồn tại trên
đó là công tác xây dựng và áp dụng mức vào sản xuất ở ta từ trước tới nay,
nhất là ở các doanh nghiệp thuỷ nông chưa được quan tâm một các đúng mức
đó chính là kết quả của một thời gian dài hoạt động trong cơ chế hành chính
quan liêu bao cấp, hạch toán lỗ lãi trong sản xuất của các đơn vị mang tính
hình thức, các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi còn trông chờ ỷ lại
cấp trên.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã mở ra cho các xí nghiệp hướng làm ăn
mới là mở rộng quyền chủ động trong sản xuất và kinh doanh của các xí
nghiệp. Các xí nghiệp phải chuyển sang hạch toán kinh tế. Với cách làm ăn
mới này chúng ta tin rằng năng lực của mỗi xí nghiệp sẽ được thể hiện rõ
hơn,đầy đủ hơn. tuy vậy không thể ngay một lúc chúng ta có thể áp dụng hạch
toán kinh tế và các xí nghiệp , mà công việc này đòi hỏi phải có một quá trình
và những điều kiện tiền đề nhất định.
Một trong những công tác cần phải tiến hành trước tiên là chúng ta phải
xây dựng được hệ thống các mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở xác định một
loạt các yếu tố khác như giá thành sản phẩm, kế hoạch lao động vật tư, tính
vốn và làm cơ sở để tiến hành hạch toán nội bộ, xây dựng chế độ khoán, xác
định cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý xí nghiệp, hạch định biên xã hội của các
bộ phận sản xuất của xí nghiệp.
1.1.2. Định mức kinh tế - kỹ thuật
Định mức kinh tế - kỹ thuật là đại lượng biểu thị trực tiếp dùng để tính
toán lượng tiêu hao cần thiết lớn nhất của một loại nguồn lực nào đó để sản
xuất một đơn vị sản phẩm, bảo đảm những yêu cầu nhất định về chất lượng

và phù hợp với các nhân tố ảnh hưởng khách quan về địa chất tự nhiên, kỹ
thuật, công nghệ và tổ chức quản lý.
Với định nghĩa trên, mức kinh tế - kỹ thuật luôn luôn là một chỉ tiêu (một
phạm trù định lượng), tức là được biểu thị bằng những con số cụ thể. Định


10

mức kinh tế - kỹ thuật có nhiều loại thường được chia ra các nhóm căn cứ vào
tính chất nguồn lực hay lĩnh vực áp dụng như :
- Các định mức tiêu hao vật tư (các mức vật tư);
- Các định mức hao phí lao động (các mức lao động);
- Các mức khấu hao tài sản cố định và sử dụng năng lực sản xuất;
- Các mức đầu tư xây dựng cơ bản;
- Các mức tài chính; v.v…
Theo Nghị định số 201/CP của Hội đồng Chính phủ, ngày 26 tháng 5 năm
1981 về Quản lý định mức kinh tế - kỹ thuật thì: Định mức kinh tế - kỹ thuật
(Economic - Technical Norm) là lượng lao động sống và lao động quá khứ
biểu hiện bằng thời gian lao động, bằng giá trị hoặc hiện vật được phép sử
dụng để sản xuất một đơn vị sản phẩm hoặc thực hiện một khối lượng công
việc theo tiêu chuẩn, chất lượng quy định và theo quy trình công nghệ hợp lý,
trong những điều kiện trang thiết bị kỹ thuật, tổ chức sản xuất và trình độ
quản lý cụ thể. Lượng lao động sống và lao động vật hoá đối với các quá trình
hoạt động sản quản lý vận hành của các hệ thống công trình thuỷ lợi được
hiểu là các mức hao phí cần thiết về lao động, vật tư, máy móc thiết bị, nguyên
nhiên vật liệu để hoàn thành nhiệm vụ tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp,
dân sinh kinh tế và các dịch vụ theo kế hoạch được giao.

1.1.3. Định mức chi phí
Định mức chi phí là chi phí dự tính bằng tiền tối đa của các hao phí các

yếu tố công cụ lao động, đối tượng lao động và sức lao động để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ cho khách hàng theo kế
hoạch, trong một điệu kiện tổ chức sản xuất kinh doanh cụ thể.
Như vậy có thể hiểu, định mức chi phí là cơ sở để doanh nghiệp lập dự
toán chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy móc thiết bị và
tài sản cố định cho các hoạt động sản xuất từ đó có cơ sở lập kế hoạch quản
lý sản xuất, cung cấp dịch vụ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Góp phần


11

thông tin kịp thời cho các nhà quản lý ra quyết định giá bán sản phẩm, chấp
nhận hay từ chối một đơn đặt hàng, phân tích khả năng đạt kết quả lợi nhuận
trong kinh doanh. Là cơ sở để tổ chức, điều hành sản xuất, giao khoán và
nâng cao tinh thần trách nhiệm của bộ, công nhân viên đối với việc sử dụng
các nguồn tài nguyên tiết kiệm nhất.
1.1.4. Định mức chi phí cấp nước thô
1. Khái niệm nước thô
Nguồn nước cấp từ công trình thuỷ lợi, từ hệ thống sông ngòi tự nhiên
cho các nhà máy và công trình sản xuất cấp nước sạch cho công nghiệp và
sinh hoạt và các hoạt động sản xuất gọi là nước thô. Như vậy, có thể hiểu:
nước thô là nguồn nước tự nhiên, chưa qua công đoạn làm sạch.
2. Khái niệm Định mức chi phí cấp nước thô
Định mức chi phí cấp nước thô là chi phí tối đa cho phép mà một doanh
nghiệp quản lý khai thác công trình thủy lợi bỏ ra trong một chu kỳ sản xuất,
ứng với điều kiện năm sản xuất bình thường, mặt bằng giá cả nhất định, để
hoàn thành việc cung cấp một khối lượng nước thô đảm bảo chất lượng thảo
thuận đến vị trí lấy nước của các công trình cấp nước của các đơn vị dùng
nước trên hệ thống.
Vậy định mức chi phí cấp nước thô được hiểu là việc xác định giới hạn

tối đa cho phép của các khoản mục chi phí sử dụng trong quá trình quản lý
vận hành cung cấp nguồn nước thô cho các đối tượng dùng nước từ các công
trình thuỷ lợi, trong một chu kỳ sản xuất, ứng với một điều kiện tổ chức sản
xuất cụ thể.
Chi phí cấp nước thô ở với hệ thống thuỷ lợi, thường bao gồm các
thành phần chi phí sau: Chi phí tiền lương; Chi phí các khoản theo lương; Chi
phí nạo vét kênh mương; Chi phí dụng cụ, vật tư dùng trong viêc duy trì vệ
sinh kênh mương; Chi phí vật tư, nguyên nhiên liệu để bảo dưỡng, vận hành


12

công trình; Chi phí sửa chữa thường xuyên tài sản cố định phục vụ cấp nước
thô; Chi phí khấu hao tài sản cố định; Chi phí quản lý doanh nghiệp; Các chi
phí khác; Chi phí chi trả tạo nguồn.
Như vậy, thực chất của các khái niệm định mức chi phí, định mức chi
phí cấp nước thô, chỉ là khái niệm về một nhóm định mức kinh tế - kỹ thuật
trong trường hợp nghiên cứu cụ thể. Cũng có thể hiểu, chúng là các khái niệm
định mức kinh tế - kỹ thuật cho từng trường hợp riêng, mà bản thân mỗi định
mức đều bao hàm yếu tố kinh tế và kỹ thuật.
1.1.5. Chất lượng định mức kinh tế - kỹ thuật
Chất lượng mức kinh tế kỹ thuật là tổng thể những tiêu chí cho phép nhận
định được tác dụng của mức trong quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh ở
doanh nghiệp.
Để phản ánh chất lượng của định mức kinh tế - kỹ thuật được xây dựng áp
dụng, người ta sử dụng những tiêu chí cơ bản sau đây:
1. Tính thuyết phục:
Là căn cứ khoa học của mức được truyền đạt tới người thực hiện bằng các
hình thức công bố, hướng dẫn thực hiện cũng như bằng bản thân sự tham gia
chủ động sáng tạo của người thực hiện vào việc hoàn thiện định mức.

2. Tính khuyến khích:
Là khả năng định hướng cho người thực hiện hoàn thành và hoàn thành
vượt mức nhờ cố gắng cá biệt (tăng trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề, thể
lực, tinh thần trách nhiệm, sáng kiến, ý thức,…) nhờ hệ thống quy định đi
kèm về phương pháp đòn bẩy kinh tế áp dụng và xem xét sửa đổi mức.
3. Tính pháp lý:
Là giá trị pháp lý của mức được dùng trong các công tác quản lý áp dụng
như trả lương, thưởng, lập kế hoạch lao động tiền lương, tổ chức sản xuất.
4. Tính phù hợp:


13

Là sự phù hợp giữa định mức được công bố và định mức áp dụng về thời
hạn, điều kiện áp dụng.
5. Tính tiện ích:
Thể hiện thông qua việc dễ hiểu, dễ nắm bắt đối với người áp dụng, dễ lưu
trữ và truy cập mức đối với cán bộ quản lý.
6. Tính công bằng:
Biểu thị qua sự công khai minh bạch, đồng đều về “độ căng” giữa các mức
áp dụng trong doanh nghiệp.
7. Tính hiệu quả:
Là tiêu chí thể hiện tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí định mức và
quản lý mức (Tiêu chí tổng hợp của các tiêu chí trên).
Những tiêu chí trên có quan hệ lẫn nhau, khó định lượng và chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố.
1.2. Vai trò, chức năng của định mức kinh tế - kỹ thuật
1.2.1. Vai trò của định mức kinh tế - kỹ thuật đối với sản xuất kinh doanh
Định mức kinh tế kỹ thuật là một trong những công cụ quan trọng mà
các chính phủ các nước, các tập đoàn kinh tế thường hay áp dụng. Ở Việt

Nam công tác lập và áp dụng nhiều loại định mức khác nhau được Chính phủ
công bố thực hiện nhằm hướng dẫn hoặc kiểm soát nhiều hoạt động kinh tế.
Trên thực tế, ngoài những định mức kinh tế kỹ thuật do nhà nước công
bố, để cụ thể và chi tiết hoá các quá trình quản lý sản xuất kinh doanh, các
ngành kinh tế, các cơ quan đơn vị cũng cần có những loại định mức chuyên
ngành, định mức nội bộ của mình. Ví dụ, trong ngành Xây dựng, rất nhiều
định mức cho các đơn vị trong ngành triển khai và áp dụng vào các hoạt động
quản lý sản xuất. Nhiều bộ định mức đã và đang được công bố áp dụng như:
Định mức dự toán xây dựng công trình (Phần xây dựng); Định mức chi phí
quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng công trình; Định mức khảo sát xây


14

dựng; Định mức vật tư trong xây dựng,… Trong ngành Giao thông, nhiều loại
định mức KTKT được công bố áp dụng như: Định mức kinh tế - kỹ thuật
quản lý, bảo trì đường thủy nội địa; Định mức kinh tế - kỹ thuật sửa chữa
thường xuyên đường sông,…
Trong thực tiễn quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý quá trình sản xuất
kinh doanh nhà nước hay doanh nghiệp phải thực hiện để xác định và công bố
những định mức kinh tế - kỹ thuật. Định mức kinh tế - kỹ thuật được xây
dựng, được công bố có những chức năng, nhiệm vụ khách quan, khái quát
như sau:
1. Chức năng thông tin và thước đo:
Đó là tạo ra những định mức dùng làm căn cứ xúc tiến những thỏa ước
(hợp đồng) kinh tế - kỹ thuật theo quy định của hệ thống pháp luật; lập kế
hoạch sản xuất kinh doanh; tổ chức các quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động quản lý, thanh quyết toán,…
2. Chức năng kinh tế:
Là việc tạo ra những định mức mang tính định hướng cho các tổ chức, cá

nhân cùng tham gia vào quá trình tổ chức quản lý điều hành và người lao
động trực tiếp cùng tích cực thực hiện chính sách tiết kiệm các nguồn tài
nguyên, nguồn lực của quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao
động, hiệu quả trong kinh doanh, tiết kiệm chi phí vì lợi ích của cá nhân và
tập thể doanh nghiệp.
3. Chức năng xã hội:
Các định mức kinh tế kỹ - thuật có tác dụng bảo đảm yêu cầu công khai,
công bằng, minh bạch trong sử dụng các nguồn lực và phân phối thu nhập của
doanh nghiệp, của tổ chức, bảo đảm ngày càng giảm cường độ lao động nặng
nhọc trên cơ sở khuyến khích áp dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến…


15

Các chức năng trên đây vừa có tính độc lập vừa có tính thống nhất với
nhau, được hình thành khách quan bởi vị trí của nguồn lực lao động trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.
1.2.2. Vai trò và sự cần thiết của công tác xây dựng định mức kinh tế - kỹ
thuật trong công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi
Trong ngành Thủy lợi, những hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh
vực đầu tư xây dựng cơ bản thường áp dụng một số định mức kinh tế kỹ thuật
chung thống nhất, được công bố bởi Bộ Xây dựng ban hành. Còn trong lĩnh
vực quản lý khai thác các công trình thuỷ lợi hầu như chưa có hệ thống định
mức kinh tế kỹ thuật trong hoạt động sản xuất. Hoặc nếu có, thì cũng chỉ là
những định mức được xây dựng từ lâu, bằng phương pháp kinh nghiệm, độ
chính xác không cao, không đầy đủ, không còn phù hợp và không đáp ứng
được yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều
kiện hiện tại. Hiện nay vấn đề thâm hụt tài chính trong hoạt động sản xuất
kinh doanh ở các hệ thống thuỷ lợi là vấn đề nổi cộm một bài toán chưa có lời
giải. Nguồn kinh phí thu được của các hệ thống công trình thủy lợi từ cấp

nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp và các ngành tham gia hưởng lợi
không đủ để trang trải cho duy tu bảo dưỡng và vận hành các công trình của
hệ thống. Do thiếu kinh phí trong hoạt động vận hành và duy tu cải tạo, nên
các hệ thống thuỷ lợi hiện ngày càng bị xuống cấp, hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp ngày càng gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế nêu
trên cho thấy, việc xây dựng và áp dụng các định mức kinh tế - kỹ thuật trong
quản lý khai thác các hệ thống công trình thuỷ lợi là hết sức cần thiết và quan
trọng.
Việc xây dựng và áp dụng hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật trong
quản lý khai tác các công trình thuỷ lợi có các vai trò quan trọng sau đây:
1. Đối với các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi:


16

Hệ thống định mức kinh tế kỹ - thuật là căn cứ để:
- Lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch sử dụng lao động, kế hoạch tài chính
hàng năm của đơn vị;
- Sắp xếp và sử dụng lao động hợp lý, nhằm nâng cao năng suất lao
động, tinh gọn bộ máy và là cơ sở để thực hiện cơ chế khoán cho công tác
quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi trong đơn vị (tổ, cụm, trạm
thuỷ nông,…) thực hiện phương châm gắn quyền lợi với trách nhiệm và kết
quả lao động của người lao động;
- Là căn cứ pháp lý để đơn vị thanh quyết toán với các cơ quan quản lý
nhà nước và các đơn vị liên quan trong việc thực hiện các hợp đồng kinh tế
cung cấp dịch vụ kỹ thuật từ hệ thống.
2. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước:
Hệ thống định mức kinh tế kỹ - thuật đã được phê duyệt là căn cứ để:
- Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm tra, thẩm định kế hoạch
sản xuất, kế hoạch tài chính của đơn vị và là cơ sở để xây dựng đơn giá đặt

hàng, giao kế hoạch, xác định giá gói thầu quản lý, khai thác và bảo vệ công
trình thuỷ lợi theo Nghị định 31/2005/CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ và
Quyết định 256/2006/QĐ-TTg ngày 9/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ;
- Là căn cứ để nghiệm thu, thanh quyết toán chi phí quản lý, khai thác
và bảo vệ công trình thuỷ lợi cho các đơn vị khi hoàn thành nhiệm vụ được
giao.
1.3. Tình hình xây dựng và áp dụng định mức kinh tế - kỹ thuật trong
công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ở nước ta
1.3.1. Tình hình xây dựng và áp dụng định mức kinh tế - kỹ thuật qua các
thời kỳ
1. Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1990)


17

Từ việc nhận thức rõ tầm quan trọng và cần thiết của công tác xây dựng
và áp dụng định mức trong quản lý sản xuất, năm 1976, Hội đồng chính phủ
đã ban hành Quyết định số 133 - CP về tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng
và quản lý chặt chẽ việc thực hiện các định mức lao động. Ngay sau đó các
bộ, ngành đã đều có các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện Quyết định
này. Ngày 15/11/1977, Bộ Thuỷ lợi cũ (nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT) đã
có Văn bản số 17TT-/LĐTL hướng dẫn thực hiện Quyết định 133-CP về công
tác định mức lao động trong ngành thuỷ lợi. Văn bản này đã chỉ rõ tầm quan
trọng của công tác xây dựng định mức lao động:
- Định mức lao động là một trong những vấn đề cơ bản của quản lý
kinh tế, quản lý sản xuất, dùng để giao nhiệm vụ và thanh toán tiền
lương cho người lao động.
- Công tác định mức lao động phải được tăng cường và củng cố, nhằm
khai thác khả năng tiềm tàng trong sản xuất và động viên mọi người
đẩy mạnh sản xuất.

- Mức lao động trong ngành đảm bảo sao cho hợp lý và tiên tiến thể
hiện được yêu cầu tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng
sản phẩm.
- Phản ánh được tính pháp lệnh, tính khoa học kỹ thuật và tính quần
chúng.
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày một mạnh mẽ của công tác thuỷ
lợi, đồng thời thực hiện chủ trương của Nhà nước về việc xây dựng và áp
dụng định mức trong ngành, trong thời kỳ này, ngành Thuỷ lợi đã có nhiều cố
gắng trong việc vận dụng định mức của Nhà nước, nghiên cứu xây dựng định
và áp dụng các định mức, tiêu chuẩn nội bộ. Việc áp dụng các loại định mức
của Nhà nước, của ngành đã được thể hiện qua việc thực hiện trong giao
khoán trả lương theo sản phẩm cho cả dây chuyền sản xuất cho các công tác


18

chủ yếu có khối lượng lớn như công tác làm đất, đá, xây lát, đổ bê tông xây
dựng công trình thuỷ lợi.
Do trong giai đoạn này, có nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi được chú
trọng đầu tư xây dựng mới và cải tạo nâng cấp, hơn nữa chi phí cho đầu tư
xây dựng tiêu dùng nguồn vốn ngân sách lớn, để có công cụ giúp cho việc
quản lý trong lĩnh vực này Bộ Thuỷ lợi (Nay là Bộ NN và PTNT) hầu như
mới chỉ tập trung vào việc xây dựng và ban hành áp dụng định mức lao động
cho các loại: công tác đất đá; công tác xây lắp; công tác lắp đặt; công tác sản
xuất vật liệu tại xí nghiệp, công tác khảo sát; công tác cơ khí để áp dụng thực
hiện. Định mức kinh tế kỹ thuật cho công tác quản lý khai thác các công trình
thuỷ lợi trong giai đoạn này hầu như chưa được xây dựng và áp dụng.
2. Giai đoạn từ năm 1990 đến 1999
Trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển khá
mạnh mẽ sang cơ chế thị trường, ở các doanh nghiệp quản lý khai thác công

trình thuỷ lợi đã bộc lộ những khó khăn trong hoạt động vì thiếu cơ chế quản
lý phù hợp trong điều kiện mới. Bộ máy quản lý khai thác ở các Công ty quản
lý khai thác công trình thuỷ lợi cồng kềnh, hiệu quả quản lý khai thác thấp.
Trước thực trạng đó, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra chỉ thị số
14-HĐBT ngày 14/1/1991 về việc: “Đẩy mạnh công tác quản lý khai thác bảo
vệ các hệ thống CTTL”.
Thực hiện Chỉ thị số 14 - HĐBT, Bộ Thuỷ lợi cũ đã có Công văn số
1026 CV/NCKT ngày 13/10/1992, chỉ đạo UBND các tỉnh, các sở Thuỷ lợi
phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế - Viện Khoa học Thuỷ lợi tiến
hành xây dựng các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức lao động
trong quản lý thuỷ nông, định mức tiền lương trên đơn vị sản phẩm phục vụ,
nghiên cứu phương thức và cách trả lương khoán trong các đơn vị thủy nông.
Cũng trong thời kỳ này, Bộ NN và PTNT có Công văn số 2846 NN-QLN/CV
gửi các sở Nông nghiệp và PTNT, các công ty khai thác công trình Thuỷ lợi


19

phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức nghiên cứu xây dựng các loại định
mức dùng cho công tác sửa chữa thường xuyên công trình thuỷ lợi . Công tác
xây dựng và áp dụng định mức đã được tăng cường tại nhiều đơn vị.
Trong thời kỳ này đã có nhiều doanh nghiệp quản lý khai thác công
trình thuỷ lợi ở nhiều địa phương ở Miền Bắc như Công ty thuỷ nông Liễn
Sơn - Vĩnh Phú, Xí nghiệp thuỷ nông Mỹ Văn - Hưng Yên, Xí nghiệp thuỷ
nông Bắc Đuống - Bắc Ninh, Công ty thuỷ nông Kẻ Gỗ, Xí nghiệp thuỷ nông
Đông Anh – Hà Nội, Công ty thuỷ nông Sông Rác,...
Các loại định mức kinh tế kỹ thuật được các địa phương và các doanh
nghiệp quan tâm xây dựng gồm: Định mức lao động và đơn giá tiền lương;
Định mức tiêu thụ điện năng cho công tác bơm tưới, tiêu; Định mức tiêu thụ
điện năng cho công tác bơm tưới, tiêu;...

Kết quả của các nghiên cứu xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật ở các
đơn vị nói trên là căn cứ khoa học và pháp lý trong việc xác định biên chế,
quỹ lương, bố trí sắp xếp lại lực lượng lao động trực tiếp và bộ máy quản lý,
khoán tiêu thụ vật tư, sử dụng trang thiết bị được áp dụng trong công tác hạch
toán chi phí, giá thành và giao khoán nội bộ trong các công ty, xí nghiệp thủy
nông.
Bảng 1.1: Các đơn vị thực hiện xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật
trong giai đoạn 1990-1999
TT Loại định mức

1

Công ty, xí nghiệp và năm xây dựng định mức

- Xí nghiệp thuỷ nông Hưng Nguyên - Nghệ An
(1991)
Định mức lao - Công ty thuỷ nông Bắc Nghệ An (1992)
động và đơn giá - Công ty thuỷ nông Liễn Sơn – Vĩnh Phú (1992)
tiền lương
- Xí nghiệp thuỷ nông Mỹ Văn – Hưng Yên
(1992)
- Xí nghiệp thuỷ nông Bắc Đuống - Bắc Ninh


20

(1992 – 1993)
- Công ty thuỷ nông Linh Cảm (1993)
- Công ty thuỷ nông Kẻ Gỗ (1993)
- Xí nghiệp thuỷ nông Từ Liêm – Hà Nội (1994)

- Xí nghiệp thuỷ nông Đông Anh – Hà Nội
(1998)
- Công ty thuỷ nông Sông Rác (1999)
- Công ty thuỷ nông Kim Sơn – Ninh Bình
(1999)
- Công ty thuỷ nông Bắc Đuống (1999)

2

- Xí nghiệp thuỷ nông Bắc Đuống (1992)
Định mức tiêu - Xí nghiệp thuỷ nông Mỹ Văn (1992)
thụ điện năng cho
- Công ty thủy nông Linh Cảm (1993)
công tác bơm
- Công ty thuỷ nông Bắc Nam Hà (1998)
tưới, tiêu
- Công ty thuỷ nông Sông Cầu (1999)

3

Định mức tiêu
hao
vật
tư,
nguyên
nhiên - Xí nghiệp thuỷ nông Đông Anh – Hà Nội
liệu; định mức (1998)
sửa chữa thường - Công ty thuỷ nông Linh Cảm – Hà Tĩnh (1999)
xuyên máy móc
thiết bị cơ điện


Nguồn: Viện Kinh tế và Quản lý thuỷ lợi
Trong giai đoạn này, các loại định mức kinh tế kỹ thuật được xây dựng
chủ yếu do các công ty, xí nghiệp thuỷ nông thuê đơn vị tư vấn thực hiện. Các
chỉ tiêu định mức này được các đơn vị áp dụng để lập kế hoạch, thanh quyết
toán các hạng mục chi phí và làm cơ sở để các cơ quan nhà nước cấp bù.
3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Để chỉ đạo đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng định mức kinh tế kỹ
thuật trong quản lý khai thác các công trình thuỷ lợi cả về quy mô và chiều
sâu, Bộ NN và PTNT đã ban hành Công văn số 790 BNN/QLN ngày
26/3/2001, về việc tiến hành nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu định mức kinh


21

tế - kỹ thuật ở các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, trong đó nhấn
mạnh việc cần thiết phải xây dựng các lợi định mức như: định mức tiêu hao
điện năng; định mức lao động; định mức sửa chữa thường xuyên tài sản cố
định (SCTX TSCĐ); định mức sửa chữa lớn (SCL); định mức sử dụng nước
tưới; định mức sử dụng vật tư trong quản lý vận hành; định mức quản lý thuỷ
nông mặt ruộng;… Để đẩy tiến trình nhanh và hiệu quả, Bộ NN và PTNT đã
yêu cầu các Sở Nông nghiệp và PTNT chỉ đạo các công ty khai thác công
trình thuỷ lợi tiến hành xây dựng các chỉ tiêu định mức trênđồng thời Bộ
Nông nghiệp và PTNT giao Cục Quản lý nước và Công trình Thuỷ lợi giúp
Bộ chỉ đạo và thẩm định các định mức đã được xây dựng.
Từ khi có chủ trương này của Bộ NN và PTNT về công tác xây dựng
định mức, nhiều đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi của các địa
phương đã tiến hành xây dựng hệ thống chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật
trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Công tác xây dựng hệ thống định
mức kinh tế - kỹ thuật này được các đơn vị tiến hành thực hiện dưới hai hình

thức: Thuê đơn vị tư vấn xây dựng hệ thống định mức và đơn vị tự thành lập
tổ định mức để xây dựng hệ thống định mức cho đơn vị.

Hình 1.1. Đoàn điều tra số liệu xây dựng mức tại Công ty khai thác công
trình thuỷ lợi Vĩnh Bảo - Hải Phòng


22

Dựa trên số liệu điều tra khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế
thuỷ lợi (Nay là Viện Kinh tế và Quản lý Thủy lợi) tính đến cuối tháng 4 năm
2009, cả nước có 28 trên tổng số 63 tỉnh thành đã xây dựng định mức kinh tế
kỹ thuật cho công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, và có 5 tỉnh đang
tiến hành xây dựng định mức này. Hầu hết các đơn vị này đều thuê đơn vị tư
vấn thực hiện công tác xây dựng định mức, tuy nhiên, cũng có một số đơn vị
ở tỉnh Thái Bình, Thanh Hóa,... tự xây dựng định mức. Nhìn chung, ở các đơn
vị tự xây dựng định mức, công tác xây dựng định mức gặp nhiều khó khăn do
không có tài liệu hướng dẫn về phương pháp xây dựng định mức. Phương
pháp chủ yếu mà các đơn vị này áp dụng trong xây dựng định mức của đơn
vị mình là phương pháp thống kê kinh nghiệm.
Theo số liệu điều tra, thì Vùng đồng bằng sông Hồng là nơi có nhiều
đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi tham gia và hoàn thành công tác
xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật nhất (27/39 đơn vị). Toàn quốc có
50/101 (chiếm 49,5%) doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã xây
dựng và được UBND tỉnh ban hành áp dụng định mức kinh tế kỹ thuật trong
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi (Bảng 1.2). Đồng bằng sông Hồng, Miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên là các vùng có tỷ lệ doanh nghiệp khai thác công
trình thuỷ lợi triển khai áp dụng định mức kinh tế kỹ thuật cao (trên 60%).
Tiếp đến là Đồng bằng sông Cửu Long có 50% số doanh nghiệp áp dụng định
mức kinh tế - kỹ thuật . Các vùng còn lại đều có tỷ lệ dưới 30% số đơn vị xây

dựng định mức kinh tế - kỹ thuật trên tổng số các đơn vị, riêng vùng Bắc
Trung Bộ chỉ có 10% số đơn vị áp dụng định mức kinh tế - kỹ thuật.


23

Hình 1.2. Giám đốc Công ty TN Đan Hoài báo cáo tình hình áp dụng ĐM
Theo kết quả điều tra, tỷ lệ bình quân các doanh nghiệp khai thác công
trình thuỷ lợi xây dựng và được ban hành áp dụng định mức kinh tế - kỹ thuật
trên toàn quốc còn chưa cao. Còn có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng miền
về việc chỉ đạo cũng như thực hiện chủ trương của Bộ NN và PTNT trong xây
dựng, ban hành và áp dụng các định mức kinh tế - kỹ thuật trong quản lý khai
thác công trình thuỷ lợi. Đồng bằng sông Hồng không những có tỷ lệ doanh
nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi cao nhất cả nước (gần 40%) mà còn có số
lượng doanh nghiệp triển khai áp dụng định mức kinh tế kỹ thuật cao nhất
chiếm 54% (27/50 doanh nghiệp). Trong khi đó, vùng Bắc Trung Bộ có tới
gần 20% số doanh nghiệp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi so với toàn
quốc nhưng chỉ có 4% (2/50) số đơn vị xây dựng và áp dụng định mức kinh tế
- kỹ thuật trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.


24

Bảng 1.2: Số lượng doanh nghiệp đã xây dựng và áp dụng định mức kinh
tế - kỹ thuật giai đoạn 1990 - 1999
TT

Vùng, miền

Số doanh nghiệp đã xây dựng

định mức kinh tế - kỹ thuật
12/19

Tỷ lệ
(%)
63,2

1

Miền núi phía Bắc

2

Đồng bằng sông Hồng

27/39

69,2

3

Bắc Trung Bộ

2/20

10,0

4

Duyên hải miền Trung


2/7

28,6

5

Tây Nguyên

3/4

75,0

6

Đông Nam Bộ

2/8

25,0

7

ĐB sông Cửu Long

2/4

50,0

50/101


49,5

Tổng
(Nguồn: Viện Kinh tế và Quản lý Thuỷ lợi)

Hình 1.3. Báo cáo kết quả xây dựng định mức KT-KT của 1 đơn vị tư vấn
(Hình ảnh trên trang web của Viện KT và QL Thuỷ lợi)
Cũng theo kết quả khảo sát của Viện Kinh tế và Quản lý Thuỷ lợi, tính
đến thời điểm tháng 4/2009, do sự cố gắng của một số đơn vị và địa phương,


25

trên cả nước đã có 28 trên tổng số 63 tỉnh, thành đã có các đơn vị quản lý khai
thác công trình thuỷ lợi tiến hành xây dựng hệ thống định mức kinh tế - kỹ
thuật trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi và đã được UBND tỉnh phê
duyệt áp dụng (số liệu ghi ở Bảng 1.3). Kết quả áp dụng bước đầu khi áp
dụng đã cho thấy những kết quả rất quan.
Bảng 1.3: Thống kê số đơn vị đã xây dựng định mức từ năm 2000 đến 2009

TT

Tỉnh

Công ty khai
thác công trình
thuỷ lợi

I

1
2
3

4
5
6
II
7
8

9
10
11
12
13
14
15

16
III
17

ĐM kinh tế - kỹ thuật đã được XD và áp dụng
Sử
Lao
dụng
động
nước


Điện
tưới

Điện
tiêu

VTư, SChữa Chi
NN thường phí
liệu xuyên quản lý

Khu vực miền núi phía bắc
Cao Bằng Cao Bằng
Lạng Sơn Lạng Sơn
Bắc Giang Sông Cầu, Cầu Sơn,
Yên Thế, Nam Yên
Dũng, Lục Ngạn
Phú Thọ
Phú Thọ
Quảng
Yên Lập; Miền
Ninh
Đông; Đông Triều
Hoà Bình
Hoà Bình
Khu vực ĐBSH
Hà Nội
Sóc Sơn; Đông
Anh;
Hải Phòng Đa Độ; An Hải;
Thuỷ Nguyên; Tiên

Lãng; Vĩnh Bảo
Vĩnh phúc
Bắc Ninh
Bắc Đuống
Hải Dương Tỉnh Hải Dương
Hưng Yên Tỉnh Hưng Yên
Hà Nam
Hà Nam
Nam Định Bắc Hà Nam, Nam
Hà Nam
Ninh Bình Kim Sơn, Hoa Lư,
Yên Khánh, Gia Viễn,
Yên Mô, Nho Quan
Thái Bình 10 Công ty
Khu vực Trung Bộ
Thanh Hoá Bắc Sông Mã,

x
x
x

x
x
x

x
x
x

x


x
x
x

x
x
x

x
x
x

x
x

x
x

x
x

x
x

x
x

x
x


x
x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x
x
x
x
x

x
x
x
x
x

x
x
x
x
x

x
x

x
x
x

x

x

x

x
x
x

x
x
x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


×