Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Giải pháp phát triển hệ thống siêu thị trên địa bàn Tỉnh Bình Định.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.53 MB, 97 trang )

-1-

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế,
các hình thức kinh doanh, các mặt hàng trở nên đa dạng và phong phú. Khi đời
sống của người dân ngày càng cải thiện thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá ngày
càng tăng. Do đó các hoạt động, các hình thức tổ chức thương mại diễn ra sôi
động hơn và ngày càng mở rộng. Thời gian qua việc nghiên cứu phát triển hệ
thống siêu thị ở Việt Nam được Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương quan
tâm và được đề cập nhiều trong tất cả các dự án quy hoạch phát triển thương
mại.
Sự xuất hiện của các loại hình thương mại văn minh hiện đại, trong đó
có siêu thị đã hình thành và phát triển mạnh ở các nước có nền kinh tế thị
trường cho thấy đây là loại hình thương mại rất có hiệu quả và ngày càng giữ
vai trò quan trọng trong các hình thức phân phối hàng hóa, góp phần làm thay
đổi bộ mặt đô thị, thúc đẩy sản xuất và hình thành tập quán văn minh thương
mại. Ở nước ta, tuy còn mới song những tác dụng và hiệu quả của loại hình
siêu thị đã từng bước được khẳng định, đặc biệt là ở các đô thị lớn hoạt động
kinh doanh siêu thị ra đời đã làm thay đổi diện mạo ngành thương mại bán lẻ
của khu vực, mở ra một phương thức bán hàng văn minh, hiện đại và tiện nghi
cho người tiêu dùng Việt Nam, hơn nữa làm thay đổi cả thói quen mua sắm
truyền thống và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
nói chung.
Bình Định là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, kinh tế có tiềm năng phát triển, dân cư ngày càng đông đúc, du
khách đến tham quan ngày càng nhiều. Các siêu thị lần lượt hình thành nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu hàng ngày của người dân địa phương và


-2du khách từ mọi miền đất nước, bước đầu đã tạo nền móng cho sự phát triển hệ


thống siêu thị trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh siêu thị vẫn còn là một ngành kinh
doanh khá mới đối với người dân Việt Nam. Sự hình thành và phát triển hệ
thống siêu thị ở nước ta trong thời gian qua còn mang tính tự phát, mô hình tổ
chức hoạt động thực chất sao chép ở nước ngoài chưa có sự nghiên cứu, vận
dụng một cách sáng tạo, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và môi trường
văn hóa, tập quán mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam, thiếu sự chỉ dẫn về
mặt chiến lược, cũng như sự chỉ đạo và thống nhất quản lý của nhà nước nên
kinh doanh siêu thị chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đảm bảo tính văn minh
thương mại.
Xuất phát từ những bất cập nêu trên, vấn đề bức thiết đặt ra hiện nay là
cần phải định hướng, có những giải pháp để giúp hệ thống siêu thị trên địa bàn
tỉnh Bình Định phát triển một cách hiệu quả và mang tính bền vững. Chính vì
vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hệ thống siêu thị trên địa
bàn tỉnh Bình Định đến năm 2015”.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Trong thời gian qua, những vấn đề liên quan đến mô hình phát triển hệ
thống siêu thị luôn được các tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Điều đó
có thể thấy rõ qua khối lượng các tài liệu về chuyên đề này rất dồi dào, đa
dạng đã được công bố, từ các chính sách của Nhà nước, các chiến lược,
chương trình phát triển hệ thống siêu thị của quốc gia, đến các sách hướng dẫn,
các công trình nghiên cứu và các bài báo về phát triển hệ thống siêu thị. Có thể
nêu một số công trình và tài liệu chủ yếu như sau:
- Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM ngày 24/9/2004 của Bộ trưởng
Bộ Thương mại về việc ban hành Quy chế siêu thị, trung tâm thương.
- Văn bản số 0529/TM-TTTN của Bộ Thương mại hướng dẫn thực
hiện Quyết định 1371/2004/QĐ-BTM về Quy chế siêu thị, trung tâm thương.


-3- Nguyễn Ngọc Hòa, Kinh nghiệm phát triển hệ thống siêu thị và chuỗi

siêu thị Co.op Mart - Tài liệu hội thảo “Chính sách phát triển mô hình phân
phối hiện đại”, 2004.
- Ngọc Hường, Hệ thống siêu thị Bourbon đang hình thành, Thời báo
kinh tế Sài Gòn, 06/2000.
- Nhóm ngành khoa học kinh tế BCH Đoàn thanh niên cộng sản HCM,
Nghiên cứu mô hình siêu thị Metro Cash & Carry, Bài học kinh nghiệm và
ứng dụng, Công trình dự giải thưởng “Khoa học sinh viên - EUREKA”, năm
học 2002 - 2003.
- Nguyễn Đình Chính, Môi trường kinh doanh siêu thị, Tạp chí
Marketing, số 12/2004.
- Nguyễn Thị Nhiễu và những người khác, Nghệ thuật kinh doanh bán
lẻ hiện đại, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, 2000.
- Đỗ Văn Toàn, Siêu thị, những bí mật được khám phá, Tài hoa trẻ 2000.
- Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh, Quy hoạch phát triển hệ
thống siêu thị, trung tâm thương mại, năm 2003.
Tuy nhiên, vấn đề phát triển hệ thống siêu thị đối với tỉnh Bình Định
vẫn còn là vấn đề mới, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2015 thì việc nghiên cứu
phát triển hệ thống siêu thị vẫn là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Trên địa bàn tỉnh Bình Định chưa có tác giả, chưa có công trình nào đặt
vấn đề nghiên cứu về phát triển hệ thống siêu thị. Đây là vấn đề lớn, mới mẻ và
có ý nghĩa thiết thực đối với tỉnh, đang đòi hỏi cần có những đầu tư nghiên cứu cụ
thể, có hệ thống.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn
nghiên cứu, học hỏi những vấn đề về lý luận, đồng thời tiến hành tổng hợp số
liệu kết hợp với quá trình khảo sát thực tiễn trên địa bàn, để từ đó đề xuất ý
kiến của mình về phát triển hệ thống siêu thị tại tỉnh Bình Định.


-43. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

- Tổng hợp những vấn đề lý luận về phát triển siêu thị để làm khung lý
thuyết nghiên cứu đề tài.
- Phân tính thực trạng hoạt động kinh doanh và phát triển của hệ thống
siêu thị trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian qua.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển hệ thống siêu
thị trên địa bàn tỉnh Bình Định đến năm 2015.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống siêu thị đã và đang phát triển tại tỉnh
Bình Định.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Địa bàn tỉnh Bình Định
+ Về thời gian: Từ nay đến năm 2015
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp mô tả;
- Phương pháp điều tra, phân tích;
- Phương pháp tổng hợp.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
Luận văn có những đóng góp quan trọng sau đây:
- Hệ thống hóa về mặt lý thuyết những vấn đề liên quan đến siêu thị, các
yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống siêu thị trong điều kiện kinh tế xã hội, môi trường văn hóa và luật pháp tại Việt Nam nói chung và tại Bình
Định nói riêng.
- Giúp cho các nhà quản lý vĩ mô và vi mô có được cái nhìn tương đối
toàn diện về thực trạng phát triển hệ thống siêu thị tại tỉnh Bình Định, nắm
được những mặt hạn chế, yếu kém và các yếu tố liên quan đến sự phát triển hệ


-5thống siêu thị tại Bình Định, trên cơ sở đó tạo cho việc hoạch định các chiến
lược phát triển hệ thống siêu thị tại tỉnh Bình Định một cách có hiệu quả.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được trình bày theo 3 chương sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển hệ thống siêu thị;
- Chương 2: Thực trạng phát triển hệ thống siêu thị tại tỉnh Bình Định;
- Chương 3: Một số giải pháp phát triển hệ thống siêu thị tại tỉnh Bình
Định đến năm 2015.


-6CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG SIÊU THỊ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SIÊU THỊ
1.1.1. Khái niệm và phân loại siêu thị
1.1.1.1. Khái niệm về siêu thị
Siêu thị ra đời lần đầu tiên vào năm 1930 tại Hoa Kỳ, với những hình
thức mới mẻ và những ưu thế nổi trội của mình, đã tạo ra cuộc cách mạng
trong lĩnh vực thương mại bán lẻ. “Siêu thị” là từ được dịch ra từ tiếng nước
ngoài “Supermarket” (theo tiếng Anh), là loại hình bán lẻ hiện đại, văn minh
phát triển rất mạnh trên thế giới, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển.
Có nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau nên khái niệm siêu thị được
hiểu theo nhiều cách tùy từng quốc gia:
+ Tại Hoa Kỳ: Siêu thị được định nghĩa “Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ
tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng
hàng hóa bán ra lớn, bảo đảm thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về
thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa”
[10].
+ Tại Pháp: Siêu thị được định nghĩa “Siêu thị là cửa hàng bán lẻ theo
phương thức tự phục vụ, có diện tích từ 400m2 đến 2.500m2 chủ yếu bán hàng
thực phẩm và vật dụng gia đình”[16].

+ Tại Anh: Siêu thị được định nghĩa “Siêu thị là những cửa hàng bán lẻ
thực phẩm lớn, hoạt động trên cơ sở khách hàng tự phục vụ, doanh số hơn 02
triệu USD một năm, với tổng diện tích mặt bằng ít nhất 1.850 mét vuông
(2.000 feet vuông)”[17].
+ Tại Việt Nam: Siêu thị được định nghĩa “Siêu thị là loại hình cửa hàng
hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng
hóa phong phú, đa dạng, bảo đảm chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện


-7tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có
phương thức phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm
hàng hóa của khách hàng”[1].
Có thể có rất nhiều khái niệm khác nhau về siêu thị do những quan niệm
khác nhau về quy mô, cơ cấu mặt hàng, doanh số, tuy nhiên các khái niệm trên
không mẫu thuẫn nhau.
Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu, luận văn đưa ra khái niệm siêu thị
như sau: Siêu thị là cửa hàng bán lẻ hiện đại, kinh doanh tổng hợp hoặc
chuyên doanh với chủng loại hàng hóa rất phong phú, đa dạng, đảm bảo chất
lượng và đạt doanh thu cao. Có vị trí thuận lợi, đáp ứng tiêu chuẩn về diện tích
kinh doanh nhất định với những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, có trình độ
quản lý, tổ chức kinh doanh với phương thức phục vụ văn minh, người mua
hàng tự phục vụ chính mình, từ đó tạo khả năng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu
mua sắm của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
1.1.1.2. Phân loại siêu thị
Có nhiều cách phân loại siêu thị dựa trên các tiêu chí khác nhau và tùy
thuộc vào điều kiện của từng quốc gia, tuy nhiên có hai cách phân loại rất phổ
biến đó là phân loại theo quy mô và phân loại theo hàng hóa kinh doanh:
* Phân loại siêu thị theo quy mô, gồm có:
- Siêu thị nhỏ:
Có thể căn cứ vào diện tích mặt bằng để xác định quy mô cho siêu thị

(Theo cách phân loại của Pháp thì những siêu thị có diện tích nhỏ hơn 400m2
được gọi là siêu thị nhỏ), nhưng người ta cũng có thể dựa trên số lượng chủng
loại mặt hàng được bán tại siêu thị để xác định quy mô. Tuy nhiên, thông
thường siêu thị nhỏ chỉ chuyên bán một số loại hàng hóa như: Đồ chơi trẻ em,
quần áo dày dép, dụng cụ thể thao.
- Siêu thị vừa:
Thường có quy mô, diện tích mặt bằng vừa phải (ở Pháp trung bình có


-8diện tích khoảng 400m2 đến 2.500m2, còn ở Hoa Kỳ khoảng 1.250m 2), hàng
hóa gồm các loại dùng để phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày, khá phong
phú, thường từ vài ngàn đến trên 20.000 sản phẩm khác nhau. Vì phục vụ nhu
cầu tiêu dùng hàng ngày nên siêu thị thường được đặt ở các khu dân cư có
đường giao thông thuận tiện.
- Đại siêu thị:
Đại siêu thị là đơn vị thương mại bán lẻ với quy mô lớn, kinh doanh
tổng hợp với diện tích trên 2.500m2, có khi lên đến vài chục ngàn m2. Ở Anh
đại siêu thị là cửa hàng có diện tích trên 50.000 bộ vuông, ở Pháp và Hoa Kỳ
thì đại siêu thị có diện tích lên đến 100.000 bộ vuông. Đại siêu thị thường
thuộc sở hữu một tập đoàn thương mại, được tổ chức như một khu tổ hợp bán
lẻ với đủ các loại hàng hóa, tập hợp danh mục hàng hóa có thể lên tới 50.000
sản phẩm các loại.
Ngoài ra, trên thế giới người ta còn phân siêu thị thành các loại tiêu biểu
sau:
- Siêu thị thuốc và thực phẩm: Là sự kết hợp giữa siêu cửa hàng và cửa
hàng thuốc dưới cùng một mái nhà và các quầy tính tiền chung. Tuy nhiên mặt
hàng thuốc phải chiếm ít nhất 1/3 diện tích và đạt doanh số tối thiể u 15%
doanh số của siêu thị.
- Siêu thị chính thống: Là cửa hàng tạp hóa tự phục vụ đáp ứng đầy đủ
các loại hàng tạp hóa, thực phẩm và chế phẩm với doanh số hàng năm đạt 2

triệu USD.
- Siêu cửa hàng: Một dạng nâng cấp hiện đại của siêu thị chính thống với
tổng diện tích ít nhất 30.000 feet vuông, doanh số hàng năm hơn 8 triệu USD.
Hàng hóa bao gồm thực phẩm, sản phẩm phi thực phẩm và các gian hàng dịch
vụ
* Phân loại siêu thị theo hàng hóa kinh doanh:


-9Ngày nay siêu thị là những cửa hàng bán lẻ tổng hợp, bán hàng hóa phục
vụ cho nhu cầu tiêu dùng phổ biến của người dân từ thực phẩm đến vật dụng
gia đình, quần áo, giày dép, chất tẩy rửa, hàng vệ sinh, dẫu rằng thực phẩm vẫn
là mặt hàng kinh doanh quan trọng nhất tại các siêu thị. Tuy nhiên với cách
hiểu thông thường thì siêu thị gồm mọi dạng cửa hàng bán lẻ áp dụng phương
thức kinh doanh hiện đại, chúng ta có thể chia siêu thị thành hai loại sau đây:
- Siêu thị tổng hợp: Siêu thị tổng hợp là siêu thị bán nhiều loại hàng hóa
cho nhiều loại khách hàng. Hiện nay siêu thị tổng hợp đang ngày càng thịnh
hành, có những siêu thị có danh mục hàng hóa vừa rộng và vừa sâu có thể lên
tới hàng chục ngàn loại sản phẩm. Tại những siêu thị tổng hợp lớn như vậy,
khách hàng có thể mua được hầu hết tất cả các loại hàng hóa đáp ứng đủ nhu
cầu phục vụ cho sinh hoạt và cuộc sống, mà không cần phải bước ra khỏi siêu
thị để đến một siêu thị khác, thật là tiện lợi.
- Siêu thị chuyên doanh: Theo cách hiểu thông thường thì siêu thị chuyên
doanh chính là các cửa hàng áp dụng phương thức bán hàng tự chọn. Tập hợp
hàng hóa tại siêu thị chuyên doanh hẹp nhưng sâu, có khả năng thỏa mãn cao
nhu cầu của người tiêu dùng, đó có thể là các cửa hàng chuyên bán quần áo,
giày dép, trang trí nội thất, kim khí điện máy, đồ chơi trẻ em, sách, mỹ phẩm…
1.1.2. Tiêu chuẩn siêu thị
* Siêu thị đạt chuẩn là các siêu thị có địa điểm phù hợp với quy hoạch
phát triển thương mại của tỉnh; đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ bản theo quy
định tại Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM ngày 24/9/2004 của Bộ Thương

mại (nay là Bộ Công Thương). Tiêu chuẩn siêu thị được phân làm 3 hạng [1],
cụ thể như sau:
- Về diện tích, số lượng tên hàng:
Tiêu chuẩn tối thiểu về
Hạng

Loại hình

Diện tích kinh
doanh (m2)

Số lượng tên
hàng


-10-

Tiêu chuẩn tối thiểu về
Hạng

Hạng I
Hạng II
Hạng III

Loại hình

Diện tích kinh
doanh (m2)

Số lượng tên

hàng

Siêu thị kinh doanh tổng hợp

5.000

20.000

Siêu thị chuyên doanh

1.000

2.000

Siêu thị kinh doanh tổng hợp

2.000

10.000

Siêu thị chuyên doanh

500

1.000

Siêu thị kinh doanh tổng hợp

500


4.000

Siêu thị chuyên doanh

250

500

- Về quy mô, trang thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức:
+ Đối với siêu thị hạng I: Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc,
có tính thẩm mỹ cao, thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đảm
bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận
tiện cho mọi đối tượng khách hàng; có nơi giữ xe và khu vệ sinh dành cho
khách phù hợp với quy mô kinh doanh của siêu thị; hệ thống kho và các thiết
bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng gói, bán hàng, thanh toán, quản lý kinh
doanh tiên tiến, hiện đại; tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng
một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng trong việc lựa chọn, mua
sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; các
dịch vụ ăn uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật, trẻ em; giao hàng tận nhà,
bán hàng qua mạng, bưu điện, điện thoại.
+ Đối với siêu thị hạng II: Công trình kiến trúc được xây dựng vững
chắc, có tính thẩm mỹ, thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, đảm bảo các
yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho
khách hàng; bố trí nơi giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy
mô kinh doanh của siêu thị; có kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói,
bán hàng, thanh toán tiền và quản lý kinh doanh hiện đại; bố trí hàng hóa theo
ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng
lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành



-11lý cá nhân; có dịch vụ ăn uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật và trẻ em;
giao hàng tận nhà, bán hàng qua mạng, bưu điện, điện thoại.
+ Đối với siêu thị hạng III: Công trình kiến trúc xây dựng vững chắc, có
thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy,
vệ sinh môi trường, an toàn, thuận tiện cho khách hàng; bố trí nơi giữ xe và khu
vệ sinh cho khách phù hợp với quy mô kinh doanh của siêu thị; có kho và các
thiết bị bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán tiền và quản lý kinh doanh
hiện đại; tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách khoa
học giúp khách lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi
bảo quản hành lý cá nhân và các dịch vụ phục vụ người khuyết tật, giao hàng
tận nhà.
* Căn cứ quy hoạch thương mại, quy hoạch đô thị của tỉnh; quyết định
của Bộ Công Thương quy định về tiêu chuẩn siêu thị để đánh giá tiêu chí phát
triển hệ thống siêu thị trên địa bàn tỉnh.
1.1.3. Đặc trưng của loại hình kinh doanh siêu thị
Siêu thị là một mô hình phân phối văn minh hiện đại, cho nên có nhiều
đặc trưng, đặc thù so với các loại hình kinh doanh thương mại khác. Những đặc
trưng cơ bản đó bao gồm:
Là một dạng cửa hàng bán lẻ: Siêu thị được tổ chức dưới hình thức
những cửa hàng do thương nhân đầu tư và quản lý, được nhà nước cấp phép
hoạt động. Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ bán hàng hóa trực tiếp cho
người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bán lại.
Áp dụng phương thức tự phục vụ: Siêu thị sáng tạo và áp dụng phương
thức tự phục vụ, khi đề cập đến siêu thị người ta không thể không nghĩ tới mô
hình “tự phục vụ”, một phương thức bán hàng do siêu thị sáng tạo ra và là
phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội văn minh công nghiệp hóa. Siêu
thị chính thức ra đời vào những năm 1930, mô hình tự phục vụ đã trở thành
công thức chung cho ngành công nghiệp phân phối ở các nước phát triển và



-12ngày nay hình thức này được áp dụng phổ biến cho tất cả các cửa hàng hiện
đại. Sự thành công của siêu thị đã khích lệ việc phổ cập mô hình tự phục vụ của
siêu thị trong hệ thống bán lẻ hiện hành nhằm tiết kiệm chi phí lao động. Có thể
nói rằng phương thức tự phục vụ là sáng tạo diệu kỳ của kinh doanh siêu thị và
là một cuộc đại cách mạng trong lĩnh vực thương mại bán lẻ.
Siêu thị sáng tạo nghệ thuật trưng bày hàng hóa: Ngoài việc sáng tạo ra
phương thức bán hàng tự phục vụ, siêu thị còn sáng tạo ra nghệ thuật trưng bày
hàng hóa. Siêu thị đã nghĩ đến việc nghiên cứu cách thức vận động của người
tiêu dùng khi bước vào cửa hàng, nhằm tối đa hóa hiệu quả của không gian bán
hàng. Điều đó có nghĩa là hàng hóa trưng bày trong siêu thị phải có khả năng tự
quảng cáo và lôi cuốn người mua, siêu thị làm được điều này thông qua các
nguyên tắc sắp xếp, phân chia không gian, bố trí khu vực thích hợp, trưng bày
hàng hóa nhiều khi được nâng lên thành những thủ thuật nhằm kích thích tiêu
dùng cao nhất. Bởi vì nghệ thuật trưng bày hàng hóa có ảnh hưởng rất lớn đối
với số lượng hàng hóa bán ra, vì vậy mà các siêu thị đã khai thác tối đa lợi thế
này. Thông qua việc sắp xếp bố trí hàng hóa, không gian, ánh sáng, . . . phù hợp
với đặc tính của sản phẩm sẽ tạo ra trạng thái hấp dẫn, thu hút khách hàng, tạo
cho khách hàng hình dung và quan sát tốt được hàng hóa. Cũng từ đó dẫn đến
việc thúc đẩy mạnh mẻ hành vi mua hàng hóa của khách hàng.
Hàng hóa bán tại siêu thị: Chủ yếu là hàng hóa tiêu dùng hàng ngày từ
lương thực, thực phẩm, quần áo, giày dép, chất tẩy rửa, hàng vệ sinh, cho đến
hàng kim khí điện máy, hàng điện tử gia dụng. Hàng hóa được trưng bày trên
các giá kệ theo từng chủng loại, giá cả phải chăng và được niêm yết một cách
công khai rõ ràng, có hướng dẫn chi tiết về cách thức sử dụng và ghi rõ thời
hạn sử dụng.
Trang thiết bị và cơ sở vật chất: Siêu thị thường được trang bị cơ sở vật
chất tương đối hiện đại. Ngoài ra hình thức thanh toán tại các siêu thị rất thuận
tiện, hàng hóa được gắn mã vạch, mã số sau khi khách hàng chọn xong thì



-13được đem ra quầy tính tiền ở cửa ra vào, dùng máy quét scanner để ghi giá, tính
tiền bằng máy và tự động in hóa đơn. Tạo cảm giác thoải mái, hài lòng, tự tin
và sự thỏa mãn cao nhất cho người tiêu dùng.
1.1.4. Vị trí, vai trò của siêu thị trong hệ thống phân phối hiện đại
1.1.4.1. Vị trí của siêu thị
Nền kinh tế xã hội phát triển đã làm thay đổi các hình thức phân phối bán
lẻ sản phẩm dẫn đến thói quen mua sắm của người tiêu dùng cũng thay đổi; bên
cạnh đó vị trí, vai trò của các chợ truyền thống ngày một giảm đi trong hệ thống
phân phối bán lẻ, vì thế mà vị thế của siêu thị hết sức quan trọng.
Siêu thị là một trong các loại cửa hàng bán lẻ có vị trí trung gian cuối
cùng trong kênh phân phối hàng hóa. Ở vị trí này siêu thị trực tiếp phục vụ nhu
cầu người tiêu dùng và đóng vai trò rất quan trọng đối với cả người sản xuất
(hoặc người phân phối) lẫn người tiêu dùng.
Siêu thị được xếp ở vị trí cao hơn cửa hàng tiện dụng, siêu thị nhỏ và
thấp hơn so với đại siêu thị, trung tâm thương mại xét về quy mô và phương
thức kinh doanh. Tuy nhiên hệ thống siêu thị thường được dùng để chỉ tất cả
các loại hình bán lẻ hiện đại áp dụng phương thức kinh doanh tự phục vụ.
Không tính đến các nước công nghiệp phát triển như Châu Âu, Bắc Mỹ nơi mà
thương mại hiện đại chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng doanh số bán lẻ toàn xã
hội, thì ngay cả trường hợp của các nước trong khu vực như Thái Lan,
Singapore,... thương mại hiện đại cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng
doanh số bán lẻ xã hội.
1.1.4.2. Vai trò của siêu thị
Sự xuất hiện của siêu thị là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực lưu
thông hàng hóa, siêu thị đóng vai trò là cầu nối đồng thời cũng giải quyết được
rất nhiều mâu thuẩn giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Khi nền kinh tế phát
triển thu nhập của người dân tăng lên, nhu cầu cho tiêu dùng ngày càng đa
dạng và phong phú. Nếu như người tiêu dùng có nhu cầu hàng ngày về nhiều



-14loại hàng hóa với số lượng nhỏ, thì nhà sản xuất để sản xuất có hiệu quả, bảo
đảm lợi nhuận phải sản xuất một hoặc một số loại hàng hóa với khối lượng
lớn. Sản xuất khối lượng lớn với một vài chủng loại sản phẩm sẽ mâu thuẫn
với nhu cầu số lượng nhỏ nhưng chủng loại sản phẩm lại đa dạng của người
tiêu dùng. Hệ thống siêu thị sẽ giải quyết tốt mâu thuẫn này bằng cách mua
hàng hóa của nhiều nhà sản xuất khác nhau, rồi bán lại tại một địa điểm thuận
tiện cho người tiêu dùng. Mặt khác hệ thống siêu thị cũng giúp tạo nên sự ăn
khớp về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động dự trữ, rồi
phân phối hàng hóa. Bởi vì nhiều nhà sản xuất tiến hành sản xuất tại nhiều địa
điểm khác nhau, còn người tiêu dùng thì cũng sinh sống tại nhiều nơi khác
nhau, hơn nữa sản xuất thường không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu của
người tiêu dùng, nhiều loại hàng hóa sản xuất mang tính thời vụ còn tiêu dùng
thì xảy ra quanh năm hoặc ngược lại.
Hệ thống siêu thị đang ngày càng cũng cố vai trò là động lực thúc đẩy
sản xuất hàng hóa phát triển và đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng,
hệ thống siêu thị đóng vai trò là một nhân tố kích cầu, với nghệ thuật trưng bày
hàng hóa của mình siêu thị có khả năng tự quảng cáo và hấp dẫn người mua.
Siêu thị có thể thỏa mãn người tiêu dùng đúng chủng loại hàng hóa mà họ cần,
đúng thời gian, tại cùng một địa điểm và với một mức giá mà người tiêu dùng
có thể chấp nhận được. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày một phong phú,
biến đổi không ngừng, siêu thị sẽ có những thông tin phản hồi từ người tiêu
dùng rồi từ đó đặt hàng với nhà sản xuất để kịp thời đáp ứng những thay đổi
đó. Siêu thị cũng có thể kích thích tới việc tạo nhu cầu mới cho người tiêu
dùng thông qua việc bổ sung vào tập hợp danh mục hàng hóa của mình những
sản phẩm mới, tạo nhiều sự lựa chọn khác nhau nhằm phục vụ người tiêu dùng
một cách tốt nhất.
Hệ thống siêu thị giúp giảm thiểu các tầng, nấc trung gian trong hệ
thống phân phối, hình thành nên một hệ thống phân phối liên kết vững chắc,



-15giúp giảm thiểu tối đa thời gian và chi phí giao dịch, hạ giá thành sản phẩm
bảo đảm kinh doanh hiệu qủa. Sự có mặt của siêu thị trong hệ thống bán lẻ
hàng hóa tiêu dùng đã làm tăng mức độ cạnh tranh trong ngành thương nghiệp
bán lẻ. Cũng từ đó, siêu thị sẽ thúc đẩy các loại hình bán lẻ khác phải nâng cao
chất lượng phục vụ người tiêu dùng.
Siêu thị còn đóng vai trò như là người san sẻ rủi ro với các nhà sản xuất.
Nếu như trước kia các nhà sản xuất tự phân phối hàng hóa và tự gánh chịu rủi
ro đối với hàng hóa của mình thì ngày nay một số siêu thị đã bắt đầu tự kinh
doanh rủi ro. Siêu thị thường mua đứt hàng hóa của các doanh nghiệp với giá
đặc biệt, sau đó tự chịu trách nhiệm về khâu bảo hành, vận chuyển hàng hóa
đến người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Ngoài ra hệ thống siêu
thị còn có một số vai trò khác như: Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân
cư, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Tóm lại với hàng loạt vai trò đã nêu trên, siêu thị ngày càng cũng cố tầm
quan trọng như là một mắt xích chính yếu của quá trình tái sản xuất mở rộng
xã hội, bảo đảm cho quá trình này diễn ra thông suốt và góp phần nâng cao
hiệu quả kinh tế xã hội chung. Vì vậy phát triển hệ thống siêu thị là tất yếu,
nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời
gian tới.
1.1.5. Quá trình hình thành và phát triển siêu thị tại Việt Nam
Từ khi thực hiện chính sách cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã
đạt được những thành tựu đáng kể, tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và ổn
định. Với sự phát triển kinh tế, thu nhập và mức sống của người dân ngày càng
được nâng cao, môi trường xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống siêu
thị ở Việt Nam hình thành và phát triển.
Siêu thị đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam là siêu thị Minimart của Công ty
XNK nông sản và tiểu thủ công nghiệp Vũng Tàu (Vũng Tàu - Sinhanco) khai



-16trương vào tháng 10/1993 tại trung tâm quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng
quy mô còn nhỏ, số lượng mặt hàng bày bán và doanh thu hàng ngày thấp, phục vụ
chủ yếu cho đối tượng là khách nước ngoài. Từ năm 1994 tiếp tục ra đời những
siêu thị có quy mô lớn hơn về diện tích mặt bằng, chủng loại hàng hoá như
Co.opMart (Sài Gòn - Coop), Maximark (Công tyAn Phong), Citimart (Công ty
Đông Hưng),… được tổ chức theo hình thức liên hợp bao gồm các khu vực bán
hàng hoá, ăn uống, giải trí tại khu vực trung tâm Quận 1, Quận 3, Quận 5 và về sau
lan tỏa ra các vùng ven đô của thành phố Hồ Chí Minh như Quận Gò Vấp, Quận
Tân Bình.
Tại Hà Nội, siêu thị đầu tiên được xuất hiện là siêu thị Minimart Hà Nội
(Vũng Tàu - Sinhanco) khai trương tháng 3/1995 ở tầng 2 chợ Hôm, tiếp đến
siêu thị số 7 Đinh Tiên Hoàng (Công ty Bách hoá Hà Nội) khai trương tháng
01/1996. Từ đó đến nay các siêu thị xuất hiện ngày càng nhiều với đủ loại quy
mô, thương hiệu khác nhau.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương tính đến cuối năm 2009
thì cả nước có tới 445 siêu thị nhiều gấp 4,7 lần so với cách đây 05 năm. Nếu
trước đây số lượng siêu thị chỉ tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn thì nay số
lượng siêu thị đã rãi đều trên khắp cả nước.
Hiện nay không những người dân ở các tỉnh, thành phố lớn biết đến siêu
thị mà còn có người dân ở các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên như Bình Định,
Quảng Ngãi, Phú Yên, Gia Lai cũng đều biết đến siêu thị, một loại hình kinh
doanh bán lẻ hiện đại, văn minh. Siêu thị chính thức ra đời và phát triển tại
Việt Nam đã hơn 10 năm, chúng ta đã có một hệ thống siêu thị tương đối
hoàn chỉnh, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội c ủ a đất
nước nói chung. Tuy nhiên nhìn chung trong thời gian qua sự phát triển của
hầu hết các siêu thị tại Việt Nam đều mang tính tự phát, thiếu liên kết, thiếu sự
chỉ đạo quản lý điều hành của Chính phủ bằng các thể chế và chính sách phù
hợp, cũng như sự nhận thức và hiểu biết về siêu thị của các nhà quản lý, các



-17nhà kinh doanh vẫn còn khá mơ hồ. Cho nên hệ thống siêu thị tại Việt Nam
trong thời gian qua chưa đạt được hiệu quả như mong đợi.
1.2. PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG SIÊU THỊ
1.2.1. Quan niệm về phát triển hệ thống siêu thị
Phát triển là một phạm trù phản ánh sự thay đổi mang tính cấu trúc
không những về lượng mà còn về chất. Theo đó, phát triển hệ thống siêu thị là
một quá trình làm thay đổi theo hướng hoàn thiện nhằm phát triển về qui mô,
hoàn thiện về cơ cấu, nâng cao về chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của siêu thị.
Với vai trò của hệ thống phân phối hàng hóa nói chung và hoạt động
phân phối bán lẻ hàng hóa của siêu thị nói riêng là một lĩnh vực của hoạt động
kinh doanh thương mại, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đem
lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Để phát huy vai trò này, việc phát triển siêu
thị phải được tiếp tục theo hướng: Phát triển các siêu thị hiện tại trên cơ sở
nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cấp sở vật chất kỹ thuật của siêu thị, đồng
thời khuyến khích phát triển các siêu thị mới trong tương lai. Để đạt được hiệu
quả kinh tế cao cần phải có những biện pháp nâng cao về chất lượng phục vụ,
chất lượng sản phẩm và hiệu quả hoạt động kinh doanh của siêu thị. Mặt khác,
trong điều kiện hiện nay, phát triển siêu thị không thể mang tính tự phát mà
phải xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Điều đó đòi hỏi phải nghiên
cứu kỹ để xác định thị trường, nhu cầu và sự biến động của các yếu tố ảnh
hưởng tới hoạt động kinh doanh của siêu thị.
1.2.2. Nội dung và tiêu chí đánh giá phát triển hệ thống siêu thị
1.2.2.1. Phát triển hệ thống siêu thị về mặt lượng
Phát triển hệ thống siêu thị về mặt lượng là việc gia tăng giá trị sản lượng
hàng hóa kinh doanh qua hệ thống siêu thị được thực hiện bằng việc gia tăng
tuyệt đối số lượng siêu thị được quy hoạch xây dựng; siêu thị được thành lập,
mở rộng; siêu thị được bổ sung vào quy hoạch.



-18- Siêu thị được quy hoạch xây dựng: Là các siêu thị nằm trong quy hoạch
phát triển hệ thống siêu thị hoặc quy hoạch phát triển thương mại của tỉnh đã
được UBND cấp tỉnh phê duyệt.
- Siêu thị được thành lập, mở rộng: Được tính từ ngày ký quyết định
thành lập, mở rộng hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật
(và kinh doanh) của cấp có thẩm quyền.
- Siêu thị được bổ sung vào quy hoạch: Là siêu thị được tính từ ngày ký
văn bản chấp thuận (hoặc đồng ý) bổ sung vào quy hoạch phát triển hệ thống
siêu thị của tỉnh do UBND cấp tỉnh phê duyệt.
Mặt khác, phát triển hệ thống siêu thị về mặt lượng còn được thực hiện
bằng việc gia tăng tuyệt đối qui mô của từng siêu thị thông qua gia tăng qui mô
nguồn vốn đầu tư xây dựng siêu thị; gia tăng diện tích kinh doanh, gia tăng số
lượng, chủng loại hàng hóa kinh doanh, gia tăng doanh thu của siêu thị, gia
tăng lượng khách đến siêu thị…
Sự phát triển của hệ thống siêu thị về mặt lượng được phản ánh bằng các
chỉ tiêu sau:
- Số lượng, cơ cấu siêu thị được qui hoạch, xây dựng.
- Vốn đầu tư của siêu thị: Tiêu chí này phản ánh tổng vốn đăng ký, tỷ lệ
vốn đầu tư thực hiện trong tổng số vốn đăng ký đầu tư xây dựng siêu thị, vốn
đầu tư bình quân của một siêu thị.
- Số lượng, chủng loại hàng hóa kinh doanh trong siêu thị: Là số lượng
hàng hóa, loại hàng hóa thể hiện trong siêu thị.
- Doanh thu của siêu thị: Doanh thu được xem là một chỉ tiêu vô cùng
quan trọng, thông qua doanh thu ta có thể xác định được sức mua của khách
hàng. Doanh thu bán hàng của siêu thị càng cao thì sức mua của khách hàng
đối với siêu thị càng lớn. Việc xác định doanh thu còn nhằm đánh giá quy mô
hoạt động của siêu thị.
- Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa của siêu thị: Là tổng doanh thu bán lẻ



-19hàng hóa đã thực hiện được tạo ra bởi các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị.
- Lượng khách đến siêu thị: Đây là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh
giá kết quả kinh doanh của siêu thị. Lượng khách đến mua hàng tại siêu thị
càng đông chứng tỏ sức thu hút khách hàng đến với siêu thị càng lớn.
1.2.2.2. Phát triển hệ thống siêu thị về mặt chất
Về mặt chất, sự phát triển của hệ thống siêu thị là sự thay đổi về chất
lượng hoạt động bên trong của bản thân siêu thị bằng việc hoàn thiện tổ chức
hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn thiện tổ chức hệ thống cung ứng, nâng
cao chất lượng dịch vụ, tiết kiệm chi phí… để sử dụng hiệu quả các yếu tố sản
xuất như mặt bằng, vốn kinh doanh… làm gia tăng tích lũy cho bản thân siêu
thị. Đồng thời, phát triển về mặt chất là nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của
hoạt động kinh doanh siêu thị thông qua mở rộng ảnh hưởng của siêu thị với xã
hội; gia tăng mức độ đóng góp của siêu thị về giá trị hàng hóa tiêu thụ phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của xã hội, góp phần tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của địa
phương thông qua thiết lập hệ thống cung cấp với các nhà sản xuất tại địa
phương từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của địa phương;
gia tăng đóng góp vào ngân sách, đóng góp cho các nhiệm vụ chính trị xã hội
như tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế...
Sự phát triển của hệ thống siêu thị về mặt chất được thể hiện thông qua
các chỉ tiêu:
- Khả năng phục vụ của nhân viên: Đội ngũ nhân viên phục vụ có thái
độ cư xử lịch sự, nhã nhặn; có một số vốn hiểu biết nhất định về sản phẩm và
các dịch vụ cung cấp, có khả năng đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của
khách hàng: Việc mua sắm của người dân không chỉ vì mục đích tiêu dùng, mà
còn là một cách để thư giãn. Sự phục vụ tốt của đội ngũ nhân viên sẽ tạo ấn
tượng tốt và tâm lý thoải mái cho khách hàng và họ sẽ là những khách hàng
trung thành của siêu thị.


-20- Cách thức trưng bày trong siêu thị: Hàng hóa được bố trí theo các gian

hàng thích hợp tùy chủng loại, gọn gàng sẽ giúp cho việc mua sắm được thuận
tiện hơn và gây được sự chú ý của khách hàng.
- Thủ tục thanh toán nhanh gọn: Trong quá trình mua sắm, nếu việc
thanh toán buộc khách hàng phải chờ quá lâu sẽ gây tâm lý khó chịu, do đó
cần phải đủ số lượng quầy thanh toán phục vụ trong mọi tình huống, đội ngũ
nhân viên có trình độ, thao tác phục vụ nhanh chóng sẽ giúp khách hàng tiết
kiệm thời gian.
- Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng: Siêu thị là một loại hình kinh doanh
hiện đại, do đó cần chú trọng trong việc thiết kế xây dựng siêu thị phù hợp và
thuận tiện cho không gian mua sắm, đồng thời cần lắp đặt thêm các trang thiết
bị hiện đại như hệ thống màn hình quảng cáo, điều hòa nhiệt độ… nhằm phục
vụ khách hàng một cách tối đa.
- Đảm bảo về mặt an ninh: Đây là một vấn đề khá quan trọng nhằm tạo
sự an tâm cho khách hàng trong quá trình mua sắm. Do đó, các siêu thị cần
làm tốt các công tác an ninh như bảo vệ đồ đạc và xe cộ của khách khi vào
siêu thị, tránh để xảy ra tình trạng trộm cắp bên trong siêu thị gây phiền toái
cho khách hàng trong quá trình mua sắm.
- Gia tăng thị phần của siêu thị: Hiệu quả hoạt động kinh doanh của siêu
thị được hiện rõ qua thị phần của siêu thị trong thị trường bán lẻ nói chung và
hệ thống siêu thị nói riêng. Thị phần càng lớn chứng tỏ năng lực cạnh tranh của
siêu thị càng cao, thể hiện được chỗ đứng trên thị trường.
- Gia tăng tỷ suất lợi nhuận: Lợi nhuận là lượng tiền thu được của siêu
thị sau khi lấy doanh thu bán hàng trừ chi phí bán hàng. Chi phí bán hàng bao
gồm các chi phí như chi phí quản lý, tiền lương cho nhân viên, chi phí vận hành
máy móc, trang thiết bị phục vụ bán hàng,… Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng
mà mỗi siêu thị đều hướng tới. Thông qua lợi nhuận có thể xác định được mức
lãi lỗ của siêu thị, đồng thời đánh giá được hiệu quả hoạt động kinh doanh. Từ


-21đó người quản lý vạch ra những kế hoạch kinh doanh phù hợp nhằm tăng

doanh thu và tiết kiệm chi phí để lợi nhuận thu được là tối đa.
- Khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng: Tiêu chí này
phản ánh mức độ hấp dẫn của siêu thị đối với khách hàng, được thể hiện cụ thể
như hàng hóa, chất lượng phục vụ, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của khách hàng.
- Gia tăng đóng góp của siêu thị vào ngân sách: Là tổng giá trị đã thực
hiện nộp vào ngân sách của các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị. Gia tăng
quy mô và tỷ lệ thu ngân sách địa phương từ siêu thị
- Giải quyết việc làm cho lao động: Là số lao động đang trực tiếp làm
việc tại các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị.
- Góp phần thực hiện mục tiêu bình ổn thị trường: Góp phần làm cho giá
cả ổn định, với số lượng, chủng loại hàng hóa phong phú đa dạng, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân.
- Góp phần thay đổi thói quen, tập quán tiêu dùng theo xu hướng hiện đại.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, địa
phương theo hướng CNH - HĐH, góp phần bình ổn thị trường và đóng góp vào
ngân sách địa phương.
- Gia tăng sản lượng tiêu thụ của các sản phẩm hàng hóa sản xuất tại địa
phương qua siêu thị: Tiêu chí này phản ánh tình hình mua bán, trao đổi hàng
hóa của các siêu thị với các doanh nghiệp, các nhà sản xuất trong nước và địa
phương, từ đó sẽ giúp các nhà sản xuất trong nước, địa phương mở rộng thị
trường, phát triển sản xuất.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
SIÊU THỊ
1.3.1. Môi trường quốc tế
Thị trường dịch vụ bán lẻ của Việt Nam được đánh giá có sức hấp dẫn
thứ 3 trên thế giới, vì vậy được nhiều tập đoàn bán buôn và bán lẻ trên thế giới


-22nhắm tới, trong đó thị trường tỉnh Bình Định với lợi thế riêng nên sẽ thu hút

được một số đối tác, điều đó vừa tạo thêm những yếu tố thuận lợi để phát triển
thương mại nói chung và siêu thị nói riêng, nhưng cũng đem lại không ít khó
khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp thương mại của tỉnh trong cạnh
tranh với các nhà phân phối nước ngoài.
Những cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối
trong nước sẽ gia tăng những tác động của thị trường dịch vụ phân phối thế giới
đến sự phát triển của ngành thương mại tỉnh. Đến nay, Việt Nam đã mở cửa thị
trường dịch vụ phân phối gồm cả 4 phân ngành (đại lý uỷ quyền, bán buôn, bán
lẻ, nhượng quyền kinh doanh) theo cam kết gia nhập WTO. Hiện nay, một số
tập đoàn, công ty thương mại bán buôn và bán lẻ của Đức, Pháp, Nhật Bản ...
đã có mặt ở Việt Nam tại một số thành phố lớn. Như vậy, cùng với quá trình
thực thi các cam kết của Việt Nam, sự tham gia của các nhà phân phối bán
buôn, bán lẻ hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Anh, Hà Lan và sau
là Trung Quốc, Singapore... sẽ có ở tỉnh vừa tạo cơ hội hợp tác giữa các nhà
phân phối trong nước với các đối tác này, vừa cải thiện cơ cấu thương mại hiện
đại, đồng thời tạo sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trong ngành.
1.3.2. Môi trường vĩ mô
1.3.2.1. Yếu tố chính trị, pháp luật
Yếu tố chính trị thể hiện sự điều tiết bằng luật pháp của Nhà nước đến
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường tuy một mặt có
ưu điểm như kích thích sản xuất phát triển, năng động, có lượng hàng hóa và
dịch vụ dồi dào nhưng mặt khác lại chứa đựng mầm mống của khủng hoảng,
thất nghiệp, lạm phát, cạnh tranh không lành mạnh, vì vậy phải có sự can thiệp
của Nhà nước bằng các văn bản pháp luật để phát huy mặt tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực của nó.
Vì vậy bối cảnh chính trị, luật pháp có tác động rất lớn đến tất cả lĩnh
vực phát triển sản xuất kinh doanh nói chung và phát triển hệ thống siêu thị nói


-23riêng. Những yếu tố này có thể làm mất đi hoặc tạo ra cơ hội phát triển kinh

doanh vì nó mang lại không khí chính trị có lợi hay bất lợi, ảnh hưởng tới việc
khuyến khích đầu tư, tổ chức điều hành, phát triển kinh doanh của các doanh
nghiệp.
1.3.2.2. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế có tác động rất lớn và nhiều mặt đến môi trường phát triển
hệ thống siêu thị, chúng có thể trở thành cơ hội hoặc nguy cơ đối với phát triển
hệ thống siêu thị nói chung. Các yếu tố kinh tế chủ yếu gồm: tốc độ tăng trưởng
kinh tế, lãi suất ngân hàng, chính sách tiền tệ của Nhà nước, mức độ việc làm
và tình hình thất nghiệp. Khi phân tích các yếu tố kinh tế cần lưu ý đến tình
hình phân bố thu nhập của dân cư. Sự phân bố thu nhập thường không đều, từ
đó kéo theo khả năng tiêu dùng của các tầng lớp dân cư khác nhau, ảnh hưởng
rất nhiều đến hiệu quả phát triển hệ thống siêu thị của các doanh nghiệp kinh
doanh siêu thị.
1.3.2.3. Yếu tố văn hóa
Con người lớn lên trong một xã hội và chính xã hội đó đã hình thành
những quan điểm cơ bản của con người về các giá trị và chuẩn mực đạo đức.
Những giá trị văn hóa cơ bản có tính bền vững cao, được lưu truyền từ thế hệ
ông bà cha mẹ sang thế hệ con cái và cháu chắt được củng cố bằng các quy chế
cơ bản của xã hội, pháp luật, tôn giáo, hệ thống kinh doanh, chính quyền. Giá
trị văn hóa của xã hội được thể hiện qua thái độ của con người đối với bản thân
mình và người khác, đối với các thể chế tồn tại trong xã hội, đối với toàn xã
hội, tự nhiên.
Truyền thống và tập quán tiêu dùng, sự thay đổi nghề nghiệp, sự gia tăng
thu nhập, mức chi tiêu, dân số, tình trạng hôn nhân - gia đình, nhân khẩu học…
làm ảnh hưởng đến thị hiếu, hành vi, xu hướng mua sắ m của người tiêu dùng.
Văn hóa và các giá trị xã hội ảnh hưởng tới việc lựa chọn lối sống của mọi cá
nhân cũng như cung cách tiêu dùng của họ. Chính vì vậy mà các nhà đầu tư


-24phải chắc chắn một điều rằng, phát triển hệ thống siêu thị không đi ngược lại

với chuẩn mực văn hóa của người tiêu dùng.
1.3.2.4. Yếu tố khoa học kỹ thuật
Các yếu tố khoa học kỹ thuật và khoa học ứng dụng cũng ảnh hưởng
quan trọng và trực tiếp đến môi trường phát triển hệ thống siêu thị của doanh
nghiệp. Mọi kỹ thuật mới đều thay thế vị trí của cái cũ. Bất kỳ ngành khoa học
kỹ thuật mới nào cũng gây ra rất nhiều hậu quả to lớn và lâu dài mà không
phải lúc nào cũ lường trước được, vì vậy sự gia tăng quá trình đầu tư nghiên
cứu để đạt được những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới đã tạo ra khả năng
cạnh tranh phát triển siêu thị trên thương trường.
Ngoài những vấn đề cơ bản trên, còn có các yếu tố như môi trường tự
nhiên, vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, các vấn đề giao thông… cũng có tác
động đến việc phát triển hệ thống siêu thị.
1.3.3. Môi trường vi mô
1.3.3.1. Khách hàng
Nhân tố khách hàng và nhu cầu của khách hàng quyết định quy mô, cơ
cấu nhu cầu trên thị trường của siêu thị và là yếu tố quan trọng hàng đầu khi
xác định chiến lược phát triển siêu thị. Do vậy, khi phát triển hệ thống siêu thị
cần nghiên cứu kỹ khách hàng của mình.
Việc nghiên cứu nhân tố khách hàng sẽ giúp các doanh nghiệp kinh
doanh siêu thị xác định được nhu cầu nào của người tiêu dùng, lượng khách
hàng ra sao, họ đang tìm kiếm loại hàng nào, phương thức phục vụ như thế nào.
Từ đó giúp ta đưa ra biện pháp phát triển hệ thống siêu thị sao cho thật phù hợp
với từng đối tượng khách hàng.
1.3.3.2. Đối thủ cạnh tranh hiện tại và tương lai
Đối thủ cạnh tranh cùng lĩnh vực gồm các doanh nghiệp kinh doanh siêu
thị hiện tại và các doanh nghiệp có khả năng sẽ tham gia trong tương lai. Số
lượng các đối thủ, đặc biệt là đối thủ có quy mô lớn, trong ngành càng nhiều thì


-25mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Đây là quá trình đấu tranh giữa các doanh

nghiệp nhằm đứng vững được trên thị trường và tăng lợi nhuận. Quá trình cạnh
tranh sẽ tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để giảm chi
phí, nâng cao chất lượng bởi đó là cơ sở cho sự tồn tại hay phá sản của doanh
nghiệp. Vì vậy cần phân tích đối thủ cạnh tranh để nắm được các điểm mạnh,
yếu của đối thủ, từ đó xác định đối sách của mình nhằm tạo được thế đứng
vững mạnh trên thương trường. Nhìn chung mức độ cạnh tranh diễn ra rất khốc
liệt giữa hệ thống siêu thị với các loại hình bán lẻ khác như chợ truyền thống,
cửa hàng bán lẻ và giữa các hệ thống siêu thị với nhau.
1.3.3.3. Các nhà cung ứng
Nguồn hàng hóa cung ứng cho hệ thống siêu thị là do các cơ sở sản xuất,
công ty kinh doanh thương mại, đại lý trung gian cung ứng hoặc siêu thị có thể
nhập khẩu trực tiếp cho mình. Trong nền kinh tế thị trường, quá trình phát triển
của hệ thống siêu thị phải có mối quan hệ mật thiết với các nguồn cung ứng
hàng hóa. Số lượng, chất lượng và giá cả của hàng hóa cung ứng ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng lựa chọn và xác định phương án phát triển kinh doanh tối ưu
của hệ thống siêu thị. Phân tích các nguồn cung ứng nhằm xác định khả năng
đáp ứng các yếu tố đầu vào cho hệ thống siêu thị để từ đó xây dựng phương án
hữu hiệu nhất trong việc tận dụng các nguồn cung ứng này.
1.4. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN SIÊU THỊ CỦA MỘT SỐ ĐỊA
PHƯƠNG
Siêu thị ra đời thể hiện sự đổi mới của phương thức bán hàng từ những
cửa hàng tổng hợp thông thường vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, được phân
biệt với các loại hình bán lẻ khác bằng cách để khách hàng tự chọn lựa hàng
hóa, tự phục vụ, không cần nhân viên ghi hóa đơn, hàng đã được đóng gói gọn
gàng thay vì phải mang vác cồng kềnh.
1.4.1. Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh
Siêu thị đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam là MINIMART của Vũng Tàu -



×