Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.53 KB, 28 trang )

4.2 - TỔ CHỨC HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
4.2.1- Khái niệm hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ
hữu cơ với nhau đã được xác định bởi sự thống nhất về cơ sở kinh tế, chính trị,
pháp chế và các nguyên tắc tổ chức của nhà nước.
Trên thế giới có hai mô hình tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước phù hợp
với hai mô hình tổ chức hệ thống hành chính. Đối với các nước có mô hình tổ chức
hành chính theo thể chế nhà nước liên bang (như Mỹ, Đức, Canada, Thuỵ Sỹ,
Malaysia...) hệ thống ngân sách nhà nước được tổ chức theo ba cấp: Ngân sách
liên bang; Ngân sách bang và Ngân sách địa phương. Đối với các nước có mô hình
tổ chức hành chính theo thể chế nhà nước thống nhất hay phi liên bang (như Anh,
Pháp, Ý, Nhật, Việt Nam...), hệ thống ngân sách nhà nước gồm có: Ngân sách trung
ương và Ngân sách địa phương.
4.2.2- Nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước
Nguyên tắc thống nhất và tập trung, dân chủ : Nguyên tắc tổ chức của bộ
máy nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngân sách là công cụ của Nhà
nước, vì vậy Hệ thống NSNN cũng được xây dựng theo nguyên tắc đó.
Nhà nước chỉ có một ngân sách tập hợp tất cả các khoản thu và các khoản
chi; thống nhất về hệ thống ngân sách, về các báo biểu, mẫu biểu tài chính.
Ở mỗi cấp chính quyền, HĐND thảo luận quyết định Ngân sách cấp mình,
nhưng phải được UBND cấp trên và Chính phủ xét duyệt lại để thống nhất vào
Ngân sách cấp trên và NSNN. NSNN các cấp đầu phải chấp hành các luật, các nghị
quyết của Quốc hội, các quyết định của Chính phủ về chính sách, chế độ thu chi,
các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu, mục lục NSNN và những quy định khác có liên
quan đến NSNN.
Nguyên tắc đầy đủ và toàn bộ: nguyên tắc này nhằm tránh tình trạng để
ngoài ngân sách các khoản thu hoặc chi thuộc ngân sách nhà nước, tránh lãng phí
trong chi tiêu của chính phủ.
Nguyên tắc trung thực: thể hiện chính xác trong ngân sách các nghiệp vụ tài
chính của chính phủ; tính chất của mỗi khoản thu, chi; sự phù hợp giữa dự toán đã
phê chuẩn và thực tế chấp hành.


Nguyên tắc công khai: phải công khai về nội dung, khối lượng các khoản thu
chi chủ yếu trên báo chí, phương tiện thông tin khác.


Đối với Việt Nam ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý giữa
các ngành, các cấp, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Quốc hội quyết định dự toán
ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn và quyết toán ngân
sách nhà nước. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các
cấp được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
(1) Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương
được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể;
(2) Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm
vụ chiến lược quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối
được thu, chi ngân sách;
(3) Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong
thực hiện những nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã. Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) quyết
định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền
địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh và
trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn;
(4) Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm;
việc ban hành và thực hiện chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có
giải pháp bảo đảm nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách
từng cấp; không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp
khác, trừ trường hợp đặc biệt theo qui định của Chính phủ.
4.2.3- Hệ thống ngân sách nhà nước ở Việt Nam
Giai đoạn từ năm 1945 - 1954: Mọi vấn đề huy động và chi tiêu của ngân
sách nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Năm 1967: Chế độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ra đời. Hệ thống

ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (ngân
sách các tỉnh và thành phố ở miền Bắc).
Như vậy từ khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945) đến năm 1967
nước ta chỉ có một cấp ngân sách.
Năm 1972: Nhà nước ban hành “ Điều lệ ngân sách xã ”, ngân sách xã được
xây dựng nhưng chưa được tổng hợp vào ngân sách nhà nước.


Năm 1978: Chính phủ ra quyết định số 108/ CP, ngân sách địa phương được
phân thành 2 cấp: Ngân sách tỉnh (thành phố), ngân sách huyện (quận). Đến năm
1978, hệ thống ngân sách nhà nước ở nước ta gồm 3 cấp: Ngân sách trung ương,
ngân sách tỉnh và ngân sách huyện.
Ngân sách xã được tổng hợp vào hệ thống ngân sách nhà nước theo nghị
định 138/ HĐBT (ngày 19/11/1983) và hệ thống ngân sách nhà nước lúc này gồm 4
cấp: Ngân sách nhà nước (NSNN); Ngân sách cấp tỉnh (thành phố); Ngân sách cấp
huyện (quận); Ngân sách cấp xã (thị trấn, phường).
Ngày 20/3/1996: Luật ngân sách nhà nước được Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ
9 thông qua và có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1997. Theo tinh thần của
Luật ngân sách nhà nước, hệ thống ngân sách nhà nước ở nước ta gồm 4 cấp: Trung
ương – tỉnh – huyện – xã.
Hệ thống ngân sách
nhà nước
Ngân sách Trung ương

Ngân sách địa phương
Ngân sách cấp tỉnh
Ngân sách cấp huyện
Ngân sách cấp xã

Sơ đồ 4.1- Hệ thống ngân sách nhà nước

4.2.4- Vai trò của các cấp ngân sách nhà nước
* Vai trò của Ngân sách trung ương: là khâu trung tâm và giữ vai trò chủ đạo.
Vai trò của Ngân sách trung ương như sau: Tác động có tính tổ chức và xác định
phương hướng hoạt động đối với các cấp trong toàn bộ hệ thống ngân sách; Ngân
sách trung ương tập trung phần lớn các nguồn thu và bảo đảm nhu cầu chi để thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội có tính chất toàn quốc; Thường xuyên điều hoà
vốn cho các cấp ngân sách địa phương nhằm tạo điều kiện cho các cấp ngân sách
hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội thống nhất của cả nước.


* Vai trò của ngân sách địa phương: Bảo đảm các nguồn vốn để thoả mãn
nhu cầu xây dựng kinh tế và các hoạt động văn hoá xã hội trong địa phương; Đảm
bảo huy động, quản lý và giám đốc một phần vốn của ngân sách trung ương hoạt
động trên địa bàn địa phương; Điều hoà vốn về ngân sách trung ương trong những
trường hợp cần thiết để cân đối hệ thống ngân sách.
4.2.5- Hệ thống kho bạc nhà nước ở Việt Nam
Kho bạc nhà nước (KBNN) là cơ quan quản lý quỹ của ngân sách nhà nước.
Hệ thống kho bạc nhà nước được thành lập theo quyết định 07/HĐBT (ngày
04/01/1990) và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/4/1990.
Hệ thống KBNN là tổ chức sự nghiệp thuộc ngành tài chính – tín dụng – bảo
hiểm nhà nước theo quy định trong bảng phân ngành kinh tế quốc dân hiện hành
của nhà nước. Tiền lương và chi phí hoạt động của hệ thống KBNN do ngân sách
trung ương đài thọ. Hệ thống KBNN được trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc
lợi.
Hệ thống KBNN được tổ chức thống nhất từ trung ương đến huyện như sau:
BỘ TÀI CHÍNH

Cục kho bạc nhà nước

Chi cục kho bạc NN

Chi nhánh kho bạc NN

Sơ đồ 4.2- Hệ thống kho bạc nhà nước
a) Nhiệm vụ và quyền hạn của hệ thống kho bạc nhà nước
Quản lý quỹ ngân sách nhà nước và tiền gửi của các đơn vị dự toán. Thực
hiện nhiệm vụ tập trung các nguồn thu ngân sách nhà nước, chi vốn ngân sách nhà
nước cho các bộ, ngành, địa phương, các đơn vị theo kế hoạch ngân sách đã được
duyệt; Trực tiếp giao dịch với khách hàng bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản của các
đơn vị kinh tế, đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc các cấp ngân sách; Tổ chức huy
động và quản lý các nguồn vốn vay dân và trả nợ dân; Tổ chức quản lý hạch toán
kế toán, hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê các hoạt động thu chi ngân sách


nhà nước, tiền gửi kho bạc và các nguồn vốn tài chính khác của nhà nước gửi tại
ngân hàng: quỹ ngoại tệ tập trung, quỹ dự trữ tài chính của nhà nước, các tài sản và
tiền tạm giữ chờ xử lý, các khoản tịch thu đưa vào tài sản nhà nước.
Tuỳ điều kiện và tình hình cụ thể, có thể thực hiện một số nghiệp vụ uỷ
nhiệm của ngân hàng nhà nước ở những nơi không có tổ chức của ngân hàng.
b) Quan hệ giữa ngân hàng nhà nước và kho bạc nhà nước
Kho bạc nhà nước được mở một tài khoản tiền gửi và các tài khoản khác tại
ngân hàng theo chế độ mở và sử dụng tài khoản của ngân hàng nhà nước và quy
định riêng của Liên bộ Tài chính- Ngân hàng.
Mọi khoản giao dịch quan hệ thanh toán quan hệ giữa các đơn vị dự toán với
các tổ chức kinh tế không có tài khoản ở Kho bạc nhà nước đều phải thông qua tài
khoản Kho bạc nhà nước tại ngân hàng để thanh toán.
Kho bạc nhà nước được giữ lại số tiền mặt cần thiết để đảm bảo nhu cầu chi
tiêu theo kế hoạch được duyệt, nếu tiền mặt thu được vượt quá mức quy định phải
gửi vào ngân hàng nơi Kho bạc nhà nước mở tài khoản, còn nếu thiếu tiền mặt
được rút từ ngân hàng ra để sử dụng.
Hệ thống Kho bạc nhà nước phải chịu sự giám sát quản lý tiền mặt của ngân

hàng nhà nước theo chế độ nhà nước quy định.
Ngân hàng được vay tiền nhàn rỗi của Kho bạc nhà nước đồng thời cho Kho
bạc nhà nước vay để đảm bảo chi tiêu theo kế hoạch khi nguồn thu ngân sách chưa
tập trung kịp. Quan hệ vay trả giữa hệ thống ngân hàng và hệ thống kho bạc sẽ
được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
c) Quan hệ giữa hệ thống Kho bạc nhà nước và Uỷ ban nhân dân các cấp
Kho bạc nhà nước là công cụ tài chính của nhà nước, có trách nhiệm giúp
chính quyền các cấp trong việc điều hành ngân sách nhà nước trên địa bàn.
Kho bạc nhà nước chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soát của UBND các cấp
đối với những vấn đề thuộc chức năng quản lý nhà nước của địa phương.
d) Quan hệ giữa hệ thống Kho bạc nhà nước với cơ quan tài chính các cấp
Kho bạc nhà nước là một tổ chức nằm trong hệ thống tài chính thống nhất
chịu sự kiểm soát của cơ quan tài chính các cấp về việc chấp hành kỷ luật tài chính,
về thực hiện các nhiệm vụ kho bạc được giao.


Kho bạc nhà nước có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tài chính các cấp
trong việc thực hiện nhiệm vụ, đôn đốc kiểm soát thu chi ngân sách nhà nước trên
địa bàn, thực hiện đầy đủ chế độ thông tư, báo cáo tài chính theo quy định.
Được nhận từ cơ quan tài chính kế hoạch thu, chi ngân sách trên địa bàn
hàng năm, hàng quý, hàng tháng và ý kiến tham gia về kế hoạch thu, chi tiền mặt
của kho bạc.
Giám đốc Sở Tài chính có quyền đề bạt, bãi miễn một số chức vụ thuộc Kho
bạc nhà nước theo phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Tài chính.
4.3- PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
4.3.1- Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Khi đã hình thành hệ thống NSNN gồm nhiều cấp thì việc phân cấp Ngân
sách là một tất yếu khách quan, bởi lẽ mỗi cấp Ngân sách đều có nhiệm vụ hoạt
động thu, chi mang tính độc lập tương đối.
NSNN là một thể thống nhất gồm nhiều cấp Ngân sách, mỗi cấp Ngân sách

vừa chịu sự ràng buộc bởi các chế độ thể lệ chung, vừa có tính độc lập tự chịu trách
nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích của các cấp chính quyền Nhà nước trong
quản lý NSNN.
Thực chất của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là giải quyết tất cả các
mối quan hệ (giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính quyền nhà
nước địa phương) có liên quan đến hoạt động của ngân sách nhà nước (nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của ngân sách nhà nước
Chính vì vậy, cần phát huy tính tự chủ, sáng tạo của địa phương trong việc
khai thác nguồn thu và bố trí các khoản chi phù hợp để giải quyết các nhu cầu tại
chỗ của địa phương, khắc phục tâm lý ỷ lại của các cơ sở hoặc bệnh quan liêu của
cấp trên.
Phân cấp quản lý NSNN được thực hiện theo các yêu cầu sau:
- Đảm bảo tính thống nhất của NSNN: Phân cấp quản lý NSNN để phát huy
quyền dân chủ, tính chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền trong khai thác, bồi
dưỡng, huy đồng nguồn thu, tính toán chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và có hiệu qủ các
khoản chi NSNN, không phải là sự cắt khúc NSNN. Các cấp chính quyền đều phải
chấp hành thống nhất các luật pháp tài chính – ngân sách, các quyết định của Chính
phủ và Bộ tài chính.


- Phân cấp NSNN phải phù hợp với phân cấp các lĩnh vực khác của Nhà
nước, tạo ra một sự đồng bộ trong thực hiện và quản lý các ngành, các lĩnh vực của
Nhà nước.
- Nội dung phân cấp NSNN phải phù hợp với Hiến pháp và luật pháp quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính quyền, bảo
đảm mỗi cấp Ngân sách có các nguồn thu các khoản chi, quyền và trách nhiệm về
Ngân sách tương xứng nhau.
- Nguồn thu và nhiệm vụ chi cho mỗi cấp chính quyền được ổn định theo
luật.
- Xác định rõ mối quan hệ giữa Ngân sách cấp trên với Ngân sách cấp dưới,

quan hệ giữa Trung ương và địa phương.
- Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chính quyền Nhà
nước trong lĩnh vực NSNN.
- Ổn định tỷ lệ điều tiết và bổ sung từ 3 – 5 năm.
4.3.2. Nội dung phân cấp Ngân sách nhà nước.
Trong quá trình quản lý, sử dụng NSNN giữa các cấp chính quyền thường
nẩy sinh các mối quan hệ quyền lực, quan hệ vật chất. Giải quyết các mối quan hệ
đó, được coi là nội dung của phân cấp NSNN. Cụ thể, phân cấp NSNN bao gồm
các nội dung chủ yếu sau:
• Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc
ban hành các chính sách, chế độ thu chi, quản lý NSNN.
Qua phân cấp Ngân sách phải xác định rõ quyền hạn ban hành các chính sách,
chế độ, tiêu chuẩn định mức, phạm vi mức độ quyền hạn của mỗi cấp trong việc ban
hành chính sách, chế độ. Có như vậy, việc quản lý và điều hành NSNN mới đảm bảo
tính ổn định, tính pháp lý, tránh tư tưởng cục bộ địa phương.
• Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi,
nguồn thu và cân đối NSNN.
Trong phân cấp Ngân sách, giải quyết các mối quan hệ vật chất luôn là vấn
đề phức tạp nhất, bởi vì mối quan hệ này là mối quan hệ lợi ích. Để giải quyết nó,
cần phải xác định rõ nhiệm vụ kinh tế, chính trị của mỗi cấp chính quyền, khả năng
tạo ra nguồn thu trên từng địa bàn mà chính quyền đó quản lý, đồng thời nghiên
cứu, sử dụng các phương pháp điều hoà thích hợp. Trong chế độ phân cấp NSNN,
quy định chi tiết các nguồn thu và các khoản chi cho từng cấp Ngân sách.


Trong chương III của Luật Ngân sách nhà nước, mỗi cấp Ngân sách đều có
các khoản thu được hưởng trọn vẹn 100% và các khoản được phân chia theo tỷ lệ
% nhất định. Riêng ngân sách các địa phương (tỉnh, huyện, xã) còn được khoản thu
trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cấp trên. Về chi tiêu, mỗi cấp ngân sách đều có các
khoản chi thường xuyên và chi đầu tư tuỳ thuộc vào phạm vi thực hiện các chức

năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền Nhà nước theo luật định.
• Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình Ngân sách
Chu trình NSNN được hiểu là quá trình lập, chấp hành và quyết toán NSNN.
Phân cấp Ngân sách là phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các
cấp chính quyền trong việc lập, chấp hành và quyết toán NSNN; mức vay nợ trong
dân, các khoản phụ thu bổ sung cho Ngân sách cấp dưới, thời hạn lập, xét duyệt,
báo cấo NSNN ra HĐND và gửi lên cấp trên sao cho vừa nâng cao trách nhiệm của
chính quyền Trung ương, vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của chính quyền
cơ sở.
Giải quyết tốt các mối quan hệ trong việc quản lý và sử dụng NSNN đó
chính là nội dung phân cấp NSNN.
4.3.3. Các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Nhằm giải quyết các mối quan hệ nói trên, trong phân cấp NSNN cần phải
thực hiện một số nguyên tắc nhất định.
• Phân cấp Ngân sách phải được tiến hành đồng bộ với phân cấp kinh tế và
tổ chức bộ máy hành chính.
Tuân thủ nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết mối quan
hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, xác lập rõ nguồn thu trên địa bàn và quy định
được nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền một cách chính xác.
Phân cấp kinh tế là tiền đề là điều kiện bắt buộc để thực hiện phân cấp
NSNN. Tổ chức bộ máy Nhà nước là cơ sở để xác định phạm vi, mức độ thu chi
của Ngân sách ở mỗi cấp chính quyền. Trong tương lai, khi nào hoàn thiện được
cho chế quản lý kinh tế và cải cách bộ máy hành chính, các cấp chính quyền địa
phương sẽ không còn được giao chức năng quản lý kinh tế thì nguyên tắc này cũng
được thay đổi một cách tương ứng.
• Đảm bảo thể hiện vai trò chủ đạo của NSTW và vị trí độc lập của NSĐP
trong hệ thống NSNN thống nhất.


Đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW là một đòi hỏi khách quan, bắt nguồn từ

vị trí, vai trò của chính quyền Trung ương được Hiến pháp quy định đối với việc
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
NSTW trên thực tế là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn
thu của quốc gia và thực hiện các khoản chi trọng yếu của quốc gia.
Vị trí độc lập của NSĐP được thể hiện ra là (1) Các cấp chính quyền có
quyền lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách của mình trên cơ sở chính sách, chế
độ đã ban hành. (2) Các cấp chính quyền phải chủ động sáng tạo trong việc động
viên khai thác các thế mạnh của địa phương để tăng nguồn thu, đảm bảo chi, thực
hiện cân đối Ngân sách của cấp mình.
• Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp Ngân sách.
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, việc
giao nhiệm vụ thu chi cho địa phương phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của
cả nước, nhưng phải cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá,
xã hội do hậu quả của phân cấp nẩy sinh giữa các vùng lãnh thổ.
Phân cấp NSNN là một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ sự phân cấp kinh tế
và hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước. Vì vậy, phân cấp NSNN cần được thực
hiện trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Bỏ qua các nguyên tắc đó sẽ làm cho
phân cấp NSNN không đạt được hiệu quả mong muốn.
Tại điều 4, Luật Ngân sách nhà nước có quy định: Phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp được thực hiện theo các nguyên
tắc sau đây:
(1) Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương
được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể;
(2) Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm
vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối
được thu, chi ngân sách;
(3) Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong
thực hiện những nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồng lực cho ngân sách xã.
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)
quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính

quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế- xã hội, quốc phòng, an
ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn;


(4) Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm;
việc ban hành và thực hiện chính sách. Chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có
giải pháp bảo đảm nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách
từng cấp;
(5) Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan
quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh
phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó;
(6) Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân
chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp
dưới để bảo đảm công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ
lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp
trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3 đến 5 năm. Số bổ sung từ ngân sách
cấp trên là khoản thu của ngân sách cấp dưới;
(7) Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn tăng
thu hàng năm mà ngân sách địa phương được hưởng để phát triển kinh tế- xã hội trên
địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển
ngân sách địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc
tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên;
(8) Ngoài việc ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi và bổ sung nguồn thu quy
định tại điểm 5 và điểm 6, không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm
vụ chi của cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.
4.3.4. Phân định thu chi giữa các cấp ngân sách nhà nước
a) Nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương
* Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%
(1) Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu;
(2) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;

(3) Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu;
(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành;
(5) Các khoản thuế và thu khác từ dầu, khí theo qui định của Chính phủ;
(6) Tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các tổ chức kinh tế, thu hồi
tiền cho vay của ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ quỹ dự trữ tài chính
của trung ương, thu nhập từ vốn góp của Nhà nước;


(7) Viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các
tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam;
(8) Các khoản phí và lệ phí nộp NSTƯ theo quy định của chính phủ;
(9) Thu kết dư ngân sách trung ương;
(10) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;
* Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương: 6 khoản
(1) Thuế giá trị gia tăng (trừ thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hoá nhập khẩu);
(2) Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của
các đơn vị hạch toán toàn ngành;
(3) Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
(4) Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài;
(5) Thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hoá, dịch vụ trong nước;
(6) Phí xăng, dầu.
* Nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương
+ Chi đầu tư phát triển: gồm 4 khoản
(1) Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có
khả năng thu hồi vốn do trung ương quản lý;
(2) Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp
thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước;
(3) Chi bổ sung dự trữ nhà nước;

(4) Các khoản chi khác theo qui định của pháp luật.
+ Chi thường xuyên: gồm 10 khoản
(1) Các hoạt động sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông
tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các
hoạt động sự nghiệp khác do các cơ quan trung ương quản lý;
(2) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các cơ quan trung ương quản lý: sự
nghiệp giao thông (duy tu, bảo dưỡng, lập biển báo...); sự nghiệp nông nghiệp, thuỷ
lợi, ngư nghiệp và lâm nghiệp...; điều tra cơ bản, đo đạc địa giới hành chính các
cấp, đo vẽ bản đồ...; định canh định cư và kinh tế mới; các sự nghiệp kinh tế khác.
(3) Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, không kể phần chi giao
cho địa phương;


(4) Hoạt động của các cơ quan trung ương của Nhà nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội;
(5) Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
(6) Các chương trình quốc gia do trung ương thực hiện;
(7) Hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ;
(8) Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội do Trung ương đảm nhận;
(9) Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp ở trung ương theo quy định của pháp luật;
(10) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
+ Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay
+ Chi viện trợ
+ Chi cho vay theo quy định của pháp luật
+ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của trung ương.
+ Chi bổ sung cho ngân sách địa phương.
b) Nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương
* Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%: 18 khoản
(1) Thuế nhà, đất;

(2) Thuế tài nguyên, không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí;
(3) Thuế môn bài;
(4) Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
(5) Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
(6) Tiền sử dụng đất;
(7) Tiền cho thuê đất;
(8) Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;
(9) Lệ phí trước bạ;
(10) Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
(11) Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ
quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương;
(12) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các
cá nhân ở nước ngoài trực tiếp bằng tiền, hiện vật cho địa phương;
(13) Các khoản phí, lệ phí thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu
khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật;
(14) Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác;


(15) Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật;
(16) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài
nước;
(17) Thu kết dư ngân sách địa phương;
(18) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương (gồm 6 khoản giống như phần a) của mục
2.3.3.);
+ Thu bổ sung từ ngân sách trung ương;
+ Thu từ đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định;
* Nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương gồm:
+ Chi đầu tư phát triển

(1) Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa
phương quản lý;
(2) Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
(3) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
+ Chi thường xuyên: có 8 khoản mục.
(1) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn
hoá thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục - thể thao; sự nghiệp khoa học và công
nghệ, môi trường; các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý;
(2) Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn XH (phần giao cho địa phương);
(3) Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam
và các tổ chức chính trị- xã hội ở địa phương;
(4) Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội- nghề nghiệp ở địa phương theo qui định của pháp luật;
(5) Thực hiện chính sách XH đối với các đối tượng do địa phương quản lý;
(6) Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;
(7) Trợ giá theo chính sách Nhà nước;
(8) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật
+ Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư thuộc phạm vi
của dự toán cấp tỉnh quản lý;
+ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh;


+ Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
Căn cứ vào nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương theo qui định
trên đây, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm
vụ chi cho từng cấp ngân sách của chính quyền địa phương.
CHU TRÌNH QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Năm ngân sách và chu trình NSNN
Một trong những điểm khác biệt của quản lý ngân sách nhà nước so với các

khu vực khác như doanh nghiệp hay hộ gia đình là quản lý theo năm ngân
sách (còn gọi là năm tài chính hay tài khoá).
Năm ngân sách là giai đoạn mà trong đó dự toán thu, chi ngân sách được
Quốc hội quyết định có hiệu lực thi hành.
Năm ngân sách ở các nước ngày nay đều có thời hạn bằng một năm dương
lịch, nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc năm ngân sách ở mỗi nước khác nhau.
Năm ngân sách của Việt Nam cũng giống đại bộ phận các nước như
Malaixia, Hàn quốc, Trung quốc trùng với năm dương lịch (1/1/N- 31/12/N).
Tuy nhiên, cũng có một số nước năm ngân sách có thời điểm bắt đầu và kết
thúc không như vậy, ví dụ: Mỹ, Thái lan từ 1/10 năm trước đến 30/9 năm sau;
Anh, Canada, Nhật từ 1/4 năm trước đến 31/3 năm sau; Italia, Na uy, Thuỵ
điển từ 1/7năm trước đến 30/6 năm sau.
Dự toán NSNN gắn với năm ngân sách, khi năm ngân sách này kết thúc
cũng là thời điểm bắt đầu một năm ngân sách mới, nên hoạt động NSNN có tính
chu kỳ, hình thành nên chu trình NSNN liên tục.
Để có dự toán NSNN cho năm ngân sách phải có khâu lập dự toán NSNN lập NSNN và nó được thực hiện trước năm ngân sách bắt đầu. Ở nước ta, thời gian
lập dự toán ở cơ sở là từ tháng 6, Bộ tài chính tổng hợp trình Chính phủ trong tháng
10 và Quốc hội quyết định dự toán ngân sách trước 15/12 năm trước. Then chốt của
một chu trình NSNN là khâu chấp hành ngân sách trùng với năm ngân sách. Sau
khi năm ngân sách kết thúc phải đánh giá tình hình chấp hành ngân sách, đó là khâu
quyết toán NSNN.
Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân sách dùng để chỉ toàn bộ
hoạt động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho tới khi kết thúc
chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách gồm 3 khâu nối tiếp nhau,
đó là: Lập ngân sách; Chấp hành ngân sách và Quyết toán ngân sách.


Chu trình ngân sách thường bắt đầu từ trước năm ngân sách và kết thúc sau
năm ngân sách. Trong một năm ngân sách đồng thời diễn ra cả ba khâu của chu
trình ngân sách đó là: chấp hành ngân sách của chu trình ngân sách hiện tại; quyết

toán ngân sách của chu trình ngân sách trước đó và lập ngân sách cho chu trình
tiếp theo. Theo Luật NSNN 2002 mối quan hệ đó được minh hoạ như sau:
Chu trình ngân sách Việt Nam
Lâp NS
(n+1)

Chấp hành NS năm
(n+1)
Lập NS
(n+2)

Quyết toán NS năm (n+1)
Chấp hành NS năm
(n+2)
Lập NS
(n+3)

6/n

1/n+1
6/n+5

`

1/n+2

Quyết toán NS năm (n+2)
Chấp hành NS năm
(n+3)


1/n+3

Quyết toán NS năm (n+3)

1/n+4

1/n+5

2. Nội dung chủ yếu của Chu trình quản lý NSNN.
2.1. Lập dự toán ngân sách nhà nước
Mục tiêu của lập dự toán ngân sách nhà nước
Lập ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ
các khâu của chu trình quản lý ngân sách. Lập ngân sách thực chất là lập kế
hoạch (dự toán) các khoản thu-chi của ngân sách trong một năm ngân sách.
Kết quả của khâu này là dự toán ngân sách được các cấp có thẩm quyền quyết
định.
Ngân sách là chiếc gương tài chính phản ánh sự lựa chọn các chính sách
của Nhà nước.Vì vậy, cần có cơ chế cho việc hình thành các chính sách hữu hiệu
và đảm bảo mối quan hệ vững chắc giữa chính sách và ngân sách là rất quan
trọng.
Quá trình lập ngân sách nhằm mục tiêu:
+ Trên cơ sở nguồn lực có thể huy động và sử dụng của Nhà nước là có
hạn, cần đảm bảo rằng ngân sách đáp ứng được việc thực hiện các chính sách kinh
tế-xã hội.
+ Phân bổ nguồn lực phù hợp với chính sách ưu tiên của Nhà nước
trong từng thời kỳ.
+ Tạo điều kiện cho việc quản lý thu, chi trong khâu thực hiện cũng
như việc đánh giá, quyết toán ngân sách được hữu hiệu.



Yêu cầu đối với lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm
Lập dự toán phải đảm bảo quán triệt đầy đủ, đúng đắn các quan điểm của
chính sách tài chính quốc gia trong từng thời kỳ.
Hoạt động ngân sách nhà nước là một trong những nội dung cơ bản của
chính sách tài chính quốc gia. Vì vậy, khi lập ngân sách phải dựa vào những quan
điểm này để thiết lập một kế hoạch ngân sách phù hợp như: mức độ, trật tự và cơ
cấu động viên các nguồn thu trong nước, ngoài nước; thứ tự và cơ cấu bố trí các
khoản chi đầu tư, chi thường xuyên, chi trả nợ; đảm bảo nợ quốc gia và bội chi
ngân sách trong phạm vi an toàn, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Lập dự toán ngân sách phải tuân thủ những quy định của Luật Ngân sách
Nhà nước.
Dự toán ngân sách của đơn vị dự toán các cấp phải lập theo đúng nội dung,
biểu mẫu, thời hạn kèm theo báo cáo thuyết minh rõ ràng cơ sở, căn cứ tính toán.
Việc lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước phải căn cứ vào mức tăng
trưởng kinh tế và các quy định của pháp luật về thu, chi ngân sách như: chính
sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi. Đối với chi đầu tư phát triển phải ưu tiên
bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai của các chương trình, dự án đã được
cấp có thẩm quyền quyết định và đang thực hiện dở dang; bố trí chi trả đủ các
khoản nợ cả gốc và lãi.
Dự toán ngân sách nhà nước phải bảo đảm tổng số thu thuế và phí, lệ phí
phải lớn hơn chi thường xuyên và các khoản chi trả nợ; bội chi phải nhỏ hơn chi
đầu tư phát triển.
Việc lập dự toán vay bù đắp thiếu hụt ngân sách trung ương, phải căn cứ
vào cân đối ngân sách, khả năng từng nguồn vay, khả năng trả nợ và mức
khống chế bội chi ngân sách theo Nghị quyết Quốc hội.
Đối với dự toán của ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã phải đảm bảo
cân đối giữa thu và chi.
Phương pháp lập dự toán
Khuôn khổ kinh tế vĩ mô là điểm khởi đầu của việc lập dự toán ngân sách.
Việc lập ngân sách trong khuôn khổ kinh tế vĩ mô, dựa trên các giả định thực

tế, không tính quá cao các chỉ tiêu về thu ngân sách, ngược lại không tính quá
thấp các khoản chi tiêu bắt buộc là hết sức quan trọng để đảm bảo tính khả thi
của kế hoạch ngân sách.


Lập ngân sách hàng năm thường được tổ chức như sau:
Cách tiếp cận từ trên xuống, bao gồm:
Xác định tổng các nguồn lực sẵn có cho chi tiêu công cộng trong
khuôn khổ kinh tế vĩ mô.
Chuẩn bị thông tư hướng dẫn lập ngân sách. Lập số kiểm tra về dự toán
thu, chi cho các Bộ, các địa phương, đơn vị phù hợp với chính sách ưu tiên của
Nhà nước...
Thông báo số kiểm tra cho các bộ, địa phương, đơn vị.
Cách tiếp cận từ dưới lên, bao gồm:
Các bộ, địa phương, đơn vị đề xuất ngân sách của mình trên cơ sở các
hướng dẫn ở trên.
Trao đổi, đàm phán, thương lượng
Đàm phán ngân sách giữa các bộ, đơn vị với cơ quan tài chính là quá trình
rất quan trọng để xác định dự toán ngân sách cuối cùng trình lên cơ quan lập pháp
trên cơ sở đạt được sự nhất quán giữa mục tiêu và nguồn lực sẵn có.
Quá trình lập ngân sách muốn đảm bảo chất lượng cần được chú trọng
theo hướng sau:
Các quyết định làm thay đổi số thu, chi cần đuợc xem xét kỹ lưỡng kể cả
các quyết định liên quan đến chi tiêu thuế, cho vay, bảo lãnh và các công nợ bất
thường khác.
Các giới hạn tài chính cần được đưa vào ngay khi bắt đầu của quá trình lập
ngân sách, nhất quán với các ưu tiên chính sách và các nguồn lực sẵn có. Các đơn
vị chi tiêu cần biết trước và rõ ràng về các nguồn lực họ có thể sử dụng càng
sớm, càng tốt.
Cần có cơ chế phối hợp các chính sách trong dự thảo ngân sách. Những

chính sách chủ yếu mà Nhà nước đưa ra ảnh hưởng đến ngân sách trong trung
hạn cần được đánh giá một cách có hệ thống. Các khoản thu, chi liên quan đến
vay nợ từ nước ngoài phải hết sức thận trọng trong dự báo.
Thiết lập khuôn khổ tài khoá và khuôn khổ chi tiêu trung hạn sẽ đóng
góp tích cực cho quá trình lập ngân sách hàng năm.
Phân định rõ và giới hạn trách nhiệm của các thành viên tham gia vào
việc dự thảo ngân sách và xây dựng chính sách. Cơ quan lập pháp có vai trò
chính trong việc quyết định dự toán ngân sách.
Căn cứ lập dự toán ngân sách nhà nước


Để dự toán NSNN thực sự trở thành công cụ hữu ích trong điều hành ngân
sách, lập dự toán NSNN phải căn cứ vào các nhân tố chủ yếu sau đây:
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
nói chung và nhiệm vụ cụ thể của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, địa phương.
- Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước
- Chính sách, chế độ thu ngân sách; định mức phân bổ ngân sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách.
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách. Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về
việc lập dự toán ngân sách; Thông tư hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch vốn đầu tư phát triển
thuộc ngân sách nhà nước và văn bản hướng dẫn của ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Số kiểm tra về dự toán thu, chi ngân sách nhà nước.
- Lập ngân sách phải tính đến các kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực
hiện ngân sách các năm trước đặc biệt là năm báo cáo.
Quy trình lập dự toán ngân sách
Giai đoạn 1: Hướng dẫn lập dự toán ngân sách và thông báo số kiểm tra
Trước ngày 31/5, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về việc xây dựng kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm sau.
Trước ngày 10/6, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn lập dự toán
ngân sách nhà nước và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà nước cho
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Các bộ, cơ quan trung ương căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,
Thông tư hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và căn cứ yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của mình thông báo số kiểm tra
về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về dự
toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Uỷ ban nhân dân cấp huyện tiếp tục hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về
dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Giai đoạn 2: Lập và thảo luận dự toán ngân sách


Các đơn vị trên cơ sở các văn bản hướng dẫn và số kiểm tra tiến hành lập dự
toán thu, chi ngân sách trong phạm vi nhiệm vụ được giao, báo cáo cơ quan quản lý
cấp trên trực tiếp. Đơn vị dự toán cấp I xem xét, tổng hợp, lập dự toán tổng thể báo
cáo cơ quan tài chính, cơ quan kế hoạch và đầu tư cùng cấp trước ngày 20/7, kèm
theo bản thuyết minh chi tiết căn cứ tính toán từng khoản thu, chi.
Cơ quan tài chính các cấp tổ chức làm việc để thảo luận về dự toán ngân sách
với cơ quan, đơn vị cùng cấp và Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp dưới (đối
với năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách); cơ quan, đơn vị cấp trên phải tổ chức
làm việc để thảo luận về dự toán với các đơn vị dự toán ngân sách trực thuộc trong
quá trình lập dự toán.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, cơ
quan liên quan, tổng hợp và lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước, lập phương
án phân bổ ngân sách trung ương trình Chính phủ Bộ Tài chính thừa uỷ
quyền Thủ tướng Chính phủ báo cáo và giải trình với Quốc hội và các cơ quan của

Quốc hội theo quy định tại Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự
toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn
quyết toán ngân sách nhà nước.
Giai đoạn 3: Quyết định, phân bổ, giao dự toán ngân sách nhà nước
Trước ngày 20 tháng 11, căn cứ vào các nghị quyết của Quốc hội, Bộ Tài
chính trình Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan trung ương theo từng lĩnh vực; nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ
phần trăm (%) phân chia các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương và mức bổ sung cân đối, mức bổ sung có mục tiêu từ ngân
sách trung ương cho từng tỉnh.
Trước ngày 10 tháng 12, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán
ngân sách địa phương, phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp tỉnh và mức bổ
sung từ ngân sách cấp tỉnh cho ngân sách cấp dưới.
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Sở Tài chính trình ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ
quan, đơn vị trực thuộc tỉnh; nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các
khoản thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương và giữa ngân sách
các cấp chính quyền địa phương; mức bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh cho từng
huyện.


Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách của ủy ban
nhân dân cấp trên, ủy ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định
dự toán ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình,
bảo đảm dự toán ngân sách cấp xã được quyết định trước ngày 31 tháng 12 năm
trước.
2.2. Chấp hành ngân sách nhà nước
Mục tiêu của chấp hành ngân sách nhà nước
Chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài
chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong kế hoạch NSNN năm

trở thành hiện thực.
Để thực thi ngân sách được hiệu quả, vai trò của khâu lập dự toán không thể
phủ nhận. Một ngân sách dự toán tốt có thể được thực hiện không tồi, nhưng một
ngân sách lập tồi, không thể thực hiện tốt. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa thực hiện ngân sách chỉ đơn thuần là đảm bảo tuân
thủ ngân sách dự kiến ban đầu, mà phải thích ứng với các thay đổi khách quan
trong quá trình thực hiện, đồng thời tính đến hiệu quả hoạt động.
Mục tiêu của chấp hành NSNN là:
Biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong kế hoạch ngân sách năm từ khả năng, dự
kiến thành hiện thực. Từ đó, góp phần thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển
kinh tế- xã hội của Nhà nước.
Kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức về kinh
tế –tài chính của Nhà nước. Thông qua chấp hành NSNN mà tiến hành đánh giá sự
phù hợp của chính sách với thực tiễn.
Đối với công tác quản lý điều hành NSNN, chấp hành NSNN là khâu cốt yếu
có ý nghĩa quyết định với một chu trình ngân sách. Nếu khâu lập kế hoạch đạt kết
quả tốt thì cơ bản cũng mới dừng ở trên giấy, nằm trong khả năng và dự kiến,
chúng có biến thành hiện thực hay không là tuỳ thuộc vào khâu chấp hành ngân
sách. Hơn nữa, chấp hành ngân sách thực hiện tốt sẽ có tác dụng tích cực trong việc
thực hiện khâu tiếp theo là quyết toán ngân sách nhà nước
Nội dung tổ chức chấp hành ngân sách nhà nước
Tổ chức thu ngân sách nhà nước
Trên cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được giao và nguồn thu dự kiến phát sinh
trong quý, cơ quan thu lập dự toán thu ngân sách quý chi tiết theo khu vực kinh tế,


địa bàn và đối tượng thu chủ yếu, gửi cơ quan tài chính cuối quý trước. Cơ quan
thu bao gồm: Cơ quan thuế, Hải quan, Tài chính và các cơ quan khác được Nhà
nước giao nhiệm vụ thu ngân sách. Các khoản thu có tính chất nội địa như thuế,
phí, lệ phí thường do cơ quan thuế thực hiện. Cơ quan Hải quan tổ chức thu thuế

xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu. Cơ quan Tài
chính và các cơ quan thu khác được uỷ quyền thu các khoản thu còn lại của ngân
sách nhà nước.
Các tổ chức cá nhân có nghĩa vụ nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí,
lệ phí và các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
Về nguyên tắc toàn bộ các khoản thu của ngân sách nhà nước phải nộp trực
tiếp vào Kho bạc Nhà nước, trừ một số khoản cơ quan thu có thể thu trực tiếp song
phải định kỳ nộp vào Kho bạc Nhà nước theo quy định.
Tổ chức chi NSNN: Giai đoạn này bao gồm các khâu:
Phân bổ và giao dự toán chi ngân sách
Sau khi được Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân giao dự toán ngân
sách, các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, các đơn vị dự toán cấp I
tiến hành phân bổ và giao dự toán chi ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách
trực thuộc.
Dự toán chi thường xuyên giao cho đơn vị sử dụng ngân sách được phân bổ
theo từng loại và 4 nhóm mục:
- Chi thanh toán cá nhân.
- Chi nghiệp vụ chuyên môn.
- Chi mua sắm, sửa chữa.
- Các khoản chi khác.
Dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản được phân bổ chi tiết theo từng loại và
các mục của Mục lục ngân sách nhà nước và phân theo tiến độ thực hiện từng quý.
Lập nhu cầu chi quý
Trên cơ sở dự toán năm được giao, các đơn vị sử dụng ngân sách lập nhu cầu
chi ngân sách quý (có chia ra tháng), chi tiết theo các nhóm mục chi như trên gửi
Kho bạc Nhà nước và cơ quan tài chính cuối quý trước để phối hợp thực hiện chi
trả cho đơn vị.
Cơ chế kiểm soát chi



Các đơn vị dự toán ngân sách và các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ
thường xuyên phải mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài
chính; chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước trong quá trình
thanh toán, sử dụng kinh phí. Các khoản thanh toán về cơ bản theo nguyên tắc chi
trả trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây :
- Đã có trong dự toán ngân sách nhà nước được giao
- Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định
- Đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền
quyết định chi
- Trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng
cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải
qua đấu thầu hoặc thẩm định giá phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy
định của pháp luật.
Điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước
Trong quá trình chấp hành ngân sách, nếu có sự thay đổi về nguồn thu và
nhiệm vụ chi thực hiện như sau: Số tăng thu và số tiết kiệm chi so dự toán được
giao, được sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ
sung quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Nếu giảm thu so với dự toán
được duyệt thì phải sắp xếp lại để giảm một số khoản chi tương ứng.
Khi phát sinh các công việc đột xuất như: chi phòng chống, khắc phục hậu
quả thiên tai, hoả hoạn, nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và các nhiệm
vụ chi cấp bách khác, được phép sử dụng dự phòng ngân sách để chi trả. Trường
hợp số thu, chi có biến động lớn so với dự toán cần điều chỉnh tổng thể Chính phủ
phải trình Quốc hội, Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định
điều chỉnh dự toán ngân sách.
2.3 Quyết toán ngân sách nhà nước
Mục đích của quyết toán ngân sách nhà nước
Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách. Mục
đích của quyết toán NSNN là tổng kết đánh giá lại toàn bộ quá trình thu, chi ngân

sách trong một năm ngân sách đã qua, cung cấp đầy đủ thông tin về quản lý điều
hành thu, chi cho những người quan tâm như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp, Chính phủ, các nhà tài trợ, người dân...


Quyết toán ngân sách được thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc nhìn nhận lại quá trình chấp hành ngân sách qua một năm, rút ra những bài học
kinh nghiệm thiết thực bổ sung cho công tác lập ngân sách cũng như chấp hành
ngân sách những chu trình tiếp theo.
Nguyên tắc quyết toán ngân sách nhà nước
Về số liệu
Số liệu trong báo cáo quyết toán ngân sách phải chính xác, trung thực, đầy
đủ. Số quyết toán thu ngân sách nhà nước là số thu đã thực nộp hoặc đã hạch toán
thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước;
Số quyết toán chi ngân sách nhà nước là số chi đã thực thanh toán hoặc đã
được phép hạch toán chi theo quy định.
Về nội dung
Báo cáo quyết toán ngân sách phải theo đúng các nội dung trong dự toán
được giao và theo Mục lục ngân sách nhà nước; Báo cáo quyết toán của các đơn vị
dự toán và ngân sách các cấp chính quyền địa phương không được quyết toán chi
lớn hơn thu. Báo cáo quyết toán năm phải có báo cáo thuyết minh nguyên nhân
tăng, giảm các chỉ tiêu thu, chi ngân sách so với dự toán.
Về trách nhiệm
Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của báo cáo quyết toán của đơn vị, chịu trách
nhiệm về những khoản thu, chi hạch toán, quyết toán sai chế độ.
Kho bạc Nhà nước các cấp có trách nhiệm tổng hợp số liệu quyết toán gửi cơ
quan Tài chính cùng cấp để cơ quan Tài chính lập báo cáo quyết toán. Kho bạc Nhà
nước xác nhận số liệu thu, chi ngân sách trên báo cáo quyết toán của ngân sách các
cấp, đơn vị sử dụng ngân sách.

Trình tự lập, xét duyệt, thẩm định và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước
Lập quyết toán NSNN thường được thực hiện theo phương pháp lập từ cơ sở,
tổng hợp từ dưới lên.
Trình tự lập, gửi, xét duyệt và thẩm định quyết toán năm của các đơn vị dự
toán được tiến hành như sau:
Đơn vị dự toán cấp dưới lập báo cáo quyết toán ngân sách năm theo chế độ
quy định và gửi đơn vị dự toán cấp trên.


Đơn vị dự toán cấp trên xét duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt
cho các đơn vị cấp dưới trực thuộc. Các đơn vị dự toán cấp trên là đơn vị dự toán
cấp I, phải tổng hợp và lập báo cáo quyết toán năm của đơn vị mình và báo cáo
quyết toán của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc, gửi cơ quan Tài chính cùng
cấp. Cơ quan Tài chính cùng cấp thẩm định quyết toán năm của các đơn vị dự toán
cấp I. Trường hợp đơn vị dự toán cấp I đồng thời là đơn vị sử dụng ngân sách, cơ
quan Tài chính duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp I.
Trình tự lập, gửi, thẩm định, phê chuẩn quyết toán thu, chi ngân sách hàng
năm của ngân sách các cấp được tiến hành như sau :
Ban Tài chính xã lập quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã trình ủy ban nhân
dân xã xem xét gửi Phòng Tài chính huyện; đồng thời ủy ban nhân dân xã trình Hội
đồng nhân dân xã phê chuẩn. Sau khi được Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn, ủy
ban nhân dân xã báo cáo bổ sung quyết toán ngân sách gửi Phòng Tài chính huyện.
Phòng Tài chính huyện thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách xã; lập quyết
toán thu, chi ngân sách cấp huyện; tổng hợp, lập báo cáo quyết toán thu ngân sách
nhà nước trên địa bàn huyện và quyết toán thu, chi ngân sách huyện (bao gồm
quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện và quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã)
trình ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét gửi Sở Tài chính - Vật giá; đồng thời ủy
ban nhân dân cấp huyện trình Hội đồng nhân dân cấp huyện phê chuẩn. Sau khi
được Hội đồng nhân dân cấp huyện phê chuẩn, ủy ban nhân dân báo cáo bổ sung,

quyết toán ngân sách gửi Sở Tài chính - Vật giá.
Sở Tài chính - Vật giá thẩm định quyết toán thu ngân sách nhà nước phát
sinh trên địa bàn huyện, quyết toán thu, chi ngân sách huyện; lập quyết toán thu,
chi ngân sách cấp tỉnh; tổng hợp lập quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn tỉnh và quyết toán thu, chi ngân sách địa phương (bao gồm : quyết toán thu,
chi ngân sách cấp tỉnh; quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện và quyết toán thu,
chi ngân sách cấp xã) trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét gửi Bộ Tài chính;
đồng thời ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn.
Sau khi được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn, ủy ban nhân dân báo cáo bổ
sung, quyết toán ngân sách gửi Bộ Tài chính.
Bộ Tài chính thẩm định quyết toán thu ngân sách nhà nước, báo cáo quyết
toán thu, chi ngân sách địa phương; lập quyết toán thu, chi ngân sách trung ương và
tổng hợp lập tổng quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước (bao gồm quyết toán thu,


chi ngân sách trung ương và quyết toán thu, chi ngân sách địa phương) trình Chính
phủ xem xét để trình Quốc hội phê chuẩn; đồng gửi cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
Thời hạn xét duyệt, thẩm định và phê chuẩn quyết toán ngân sách năm quy
định cụ thể trong luật ngân sách. Thời gian phê chuẩn quyết toán năm của Quốc hội
chậm nhất là 18 tháng sau khi kết thúc năm ngân sách.
2.4. Kiểm tra, thanh tra, kế toán, kiểm toán ngân sách nhà nước
Nguồn lực của ngân sách nhà nước là nguồn lực do nhân dân đóng góp vì
các mục đích chung của cả cộng đồng. Bởi vậy, công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán luôn là vấn đề được quan tâm trong công tác quản lý ngân sách. Nó đảm bảo
cho việc thực hiện ngân sách đúng về pháp luật cả về chính sách và tài chính đồng
thời sử dụng nguồn lực theo đúng mục tiêu đề ra, tránh những hậu quả xấu đè nặng
lên người dân, người chịu thuế.
Quá trình này có nhiều cơ quan tham gia nhưng chịu trách nhiệm chính vẫn
thuộc về thủ trưởng của các đơn vị dự toán. Các Bộ, các đơn vị dự toán cấp trên
chịu trách nhiệm kiểm tra việc chấp hành các chế độ thu, chi và quản lý ngân sách,

quản lý tài sản nhà nước của các đơn vị trực thuộc và hướng dẫn các đơn vị này
thực hiện việc kiểm tra trong đơn vị mình. Cơ quan tài chính, cơ quan thu ngân
sách, cơ quan Kho bạc Nhà nước, có trách nhiệm tổ chức thực hiện chế độ kiểm tra
thường xuyên, định kỳ đối với các đơn vị, cá nhân có nghĩa vụ thu nộp ngân sách,
đơn vị sử dụng ngân sách các cấp.
Thanh tra Tài chính có nhiệm vụ thanh tra việc chấp hành thu, chi và quản lý
ngân sách, quản lý tài sản nhà nước của các tổ chức và cá nhân, xem xét giải quyết
các đơn khiếu tố về tài chính, kiểm tra các vụ việc đã xảy ra trong hoạt động tài
chính công. Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thu, nộp ngân sách nhà nước, sử
dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước và quản lý các khoản thu, chi tài chính phải
tổ chức hạch toán kế toán, lập báo cáo kế toán các khoản thu, chi của ngân sách nhà
nước và các khoản thu, chi tài chính theo quy định của pháp luật về kế toán, thống
kê, theo chế độ kế toán và Mục lục ngân sách nhà nước. Công tác kế toán và quyết
toán ngân sách phải thực hiện thống nhất về :
- Chứng từ thu, chi ngân sách nhà nước.
- Mục lục ngân sách nhà nước.
- Hệ thống tài khoản, sổ sách, mẫu biểu báo cáo.
- Mã số đối tượng nộp thuế và mã số đối tượng sử dụng ngân sách.


×