Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ tham khảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.74 KB, 18 trang )

“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
(TBKTSG Online) - LTS: Hiện vẫn còn những tranh luận chung quanh cách
hiểu khái niệm “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tiếp
nối bài “Nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN?” của Trần
Ngọc Thơ (TBKTSG số Tân Niên, ngày 5-3-2015), TBKTSG Online giới thiệu
bài viết sau của nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển viết riêng
cho TBKTSG, để bạn đọc tham khảo.
Có một nội dung quan trọng đang được đặt ra: Chúng ta sẽ xây dựng nền kinh tế
thị trường như thế nào? Thế nào là “định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)?
Một định nghĩa vừa mới được đưa ra: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có
sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Qua trao đổi, có ý kiến đồng tình, có ý kiến băn khoăn về sự lựa chọn này, thậm
chí, cũng có ý kiến không đồng tình.
Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có sự luận giải đầy đủ-ở cả những người đồng
tình và cả những người phản đối- vì sao lại lựa chọn cách diễn đạt này và vì sao
phản đối sự lựa chọn đó?
Bài viết này góp phần thảo luận về những ý kiến nêu trên.
Thế nào là một nền kinh tế thị trường hiện đại và sự cần thiết phải xây dựng một
nền kinh tế thị trường hiện đại.
I. Một nền kinh tế thị trường hiện đại trước hết phải là nền kinh tế “vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường”.



Tuy nhiên, do thời đại ngày nay đã có những thay đổi khác xa so với nhiều thập kỷ
trước đây mà nổi bật là:
(1) Sự phát triển rất nhanh, rất mạnh của khoa học- công nghê, dẫn đến sự phát
triển lực lượng sản xuất ở một trình độ rất cao, tạo ra một khối lượng của cải vật
chất khổng lồ; nhiều ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ với nhiều sản phẩm mới
xuất hiện, tuổi đời của sản phẩm được rút ngắn. Điều này dẫn đến quá trình gia
nhập, rút khỏi thị trường và tái cơ cấu sản xuất diễn ra liên tục, trên phạm vi rộng.
Chỉ có tín hiệu của thị trường mới có thể khả dĩ cung cấp thông tin chính xác cho
các hoạt động này.
Khi cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ thấp hơn giá trị, kinh doanh bị lỗ. Chỉ có doanh
nghiệp nào có giá thành thấp hơn giá thị trường mới tồn tại được. Đây cũng là
động lực để các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ nhằm đạt được lợi nhuận
tốt hơn. Nếu không, phải rút ra khỏi thị trường. Khi đó, nguồn cung sẽ giảm và một
quan hệ cung-cầu mới được xác lập.
Trong trường hợp cung thấp hơn cầu, giá cả sẽ cao hơn giá trị; kinh doanh có lợi
nhuận cao, doanh nghiệp sẽ đầu tư thêm nguồn lực để có lợi nhuận nhiều hơn; các
nhà kinh doanh khác cũng có thể chuyển vốn vào đầu tư cho đến khi xác lập quan
hệ cung cầu mới theo trục lợi nhuận bình quân.
Ở đây, trục xoay để phân bố nguồn lực – cũng có thể nói trục xoay của kinh tế thị
trường là giá thị trường.
(2) Toàn cầu hóa với sự dịch chuyển tự do của các yếu tố của quá trình tái sản xuất
hàng hóa và dịch vụ từ nước này sang nước khác trên phạm vi toàn cầu, làm cho
trường hoạt động của các chủ thể kinh tế mở rộng trong không gian và thay đổi
theo thời gian với nhịp độ rất nhanh.
Trong trường hợp đó, sự can thiệp trực tiếp của nhà nước trở nên “bất khả thi”
không những kém hiệu quả mà còn có thể gây ra những tác động tiêu cực.
Từ đó dẫn đến kết luận: thị trường là cơ sở để phân bổ và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực. Trong điều kiện của thế giới hiện đại nhà nước không có khả năng làm
tốt điều đó.

II. Kinh tế luôn gắn với những vấn đề xã hội và môi trường. Trong khi đó, các
doanh nghiệp luôn chạy theo lợi nhuận của chính họ mà không quan tâm đầy


đủ đến lợi ích xã hội và bảo vệ môi trường, dẫn đến sự phân cực xã hội rất
nhanh và môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng.
Bất bình đẳng, xã hội bị phân cực là nguyên nhân dẫn đến rối loạn, ảnh hưởng đến
tăng trưởng. Môi trường bị hủy hoại làm tăng trưởng phải trả giá đắt, không bảo
đảm phát triển bền vững. Trong điều kiện bùng nổ nông tin, dân trí được nâng cao,
ý thức đân chủ ngày càng mạnh mẽ dẫn đến các phong trào xã hội chống lại các
hiện tượng này.
Mặt khác, trong điều kiện bất đối xứng về thông tin, các chủ thể không thể biết
chính xác hành động của nhau nên thị trường mang tính tự phát rất cao,chưa kể đến
sự đầu cơ, thao túng, rất dễ gây ra khủng hoảng và thực tế đã bị khủng hoảng.
Người ta tính rằng trong thế kỷ 20 và chỉ thập niên đầu của thế kỷ 21 đã có hàng
trăm cuộc khủng hoảng lớn nhỏ, điển hình là cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 và
cuốc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt dầu từ năm 2008 mà
hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay.
Như vậy, thị trường cũng bị thất bại và thực tế đã thất bai. Do đó, phải có vai trò
của nhà nước.Vấn đề ở đây là nhà nước làm gì? Vai trò đến đâu? Và bằng cách nào
thực hiện vai trò đó?
Trước đây, ngay cả những nước theo chủ nghĩa tư bản, nhà nước đã từng làm kinh
tế thông qua những doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu. Đây là thời kỳ nhà
nước sở hữu.
Nhưng thực tế chỉ ra rằng, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thường kém hiệu quả,
nhất là khi kinh tế phát triển, nhu cầu xã hội tăng lên, đòi hỏi số lượng và quy mô
doanh nghiệp tăng theo, nhà nước không thể “ôm” nổi. Chủ sở hữu nhà nước trở
thành “vô chủ”.
Các nước đều phải thực hiện quá trình tư nhân hóa, chỉ giữ lại một số rất ít doanh
nghiệp để thực hiện các mục tiêu chính sách mà tư nhân không muốn làm hoặc

chưa đủ sức làm, thậm chí có khi chỉ là vì mục tiêu chính trị chứ không phải do
tính tất yếu kinh tế. Nhà nước về cơ bản không còn giữ vai trò sở hữu nữa. Nhà
nước chuyển sang đóng vai trò can thiệp bằng các mệnh lệnh hành chính (như quy
định giá, quy định lãi suất…)
Nhưng như trên đã nói, trong thế giới hiện đại, lực lượng sản xuất đạt đến trình độ
rất cao, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các mối quan hệ kinh tế ngày càng phức
tạp, tính tùy thuộc giữa các nền kinh tế ngày càng chặt chẽ, sự biến động của một


nước tác động rất nhanh, rất mạnh đến nước khác; sự can thiệp hành chính của nhà
nước trở nên kém hiệu quả, thậm chí trong không ít trường hợp còn gây rối loạn.
Đây là thất bại của nhà nước. Nhà nước chuyển từ chức năng can thiệp sang chức
năng điều tiết.
Trong bài viết đầu năm 2014 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dùng khái niệm “Nhà
nước kiến tạo phát triển” (Trong buổi hội thảo tại Bộ KH-ĐT, ông Tony Blair,
nguyên Thủ tướng Anh có nói đại ý: Nhà nước đã chuyển từ thời kỳ nhà nước sở
hữu sang thời ký nhà nước can thiệp và nay đã là nhà nước điều tiết. Tuy nhiên,
chúng tôi cho rằng khái niệm “ nhà nước kiến tạo phát triển” có nội hàm rộng
hơn và do đó đầy đủ hơn). Nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước bảo đảm:
- Môi trường vĩ mô ổn đinh, môi trường kinh doanh thông thoáng và minh bạch, có
thể tiên liệu được nhằm tạo thuận lợi nhất cho kinh doanh.
- Xây dựng hệ thống pháp luật, điều chỉnh hành vi của mọi tổ chức, cá nhân để: (i)
bảo đảm quyền tự do kinh doanh, bảo vệ nhà đầu tư (ii) cạnh tranh công bằng (iii)
Bảo vệ sức khỏe nhân dân và môi trường sinh thái…
- Coi trọng giáo dục và dào tạo, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ
- yếu tố then chốt để nâng cao dân trí, tạo cơ hội việc làm, tăng năng suất lao
động, tăng thu nhập của dân cư.
- Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa nhằm nâng cao không chỉ đời sống
vật chất mà cả đời sống tinh thần của nhân dân.
- Sử dụng nguồn lực của nhà nước và các công cụ điều tiết khác để thực hiện chiến

lược “tăng trưởng bao trùm”nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và
chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, bảo đảm mọi vùng miền, moi tầng
lớp dân cư đều được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng.
- Đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: trách nhiệm với cộng đồng và
người lao động tại doanh nghiệp, trách nhiệm với môi trường và trách nhiệm chấp
hành pháp luật (CSR).
III. Mặc dầu đã chuyển từ nhà nước sở hữu sang nhà nước can thiệp và từ
nhà nước can thiệp sang nhà nước kiến tạo nhưng bản chất của nhà nước là
quan liêu, nhà nước cũng thường bị những nhóm lợi ích chi phối, thao túng
chính sách.


Vì vậy, cần đề cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của
Nhà nước đi đối với việc coi trọng vai trò của xã hội- trong đó có các tổ chức phi
chính phủ, các nhà nghiên cứu độc lập tham gia vào quá trình phản biện, xây dựng
chính sách.
Chính họ, bằng kiến thức và những trải nghiệm thực tiễn của mình sẽ cung cấp các
kinh nghiệm thực chứng làm cho chính sách sát đúng, phù hợp với thực tiễn cuộc
sống hơn, nhằm hạn chế thất bại của thị trường và nhà nước. Họ cũng là người
giám sát quá trình thực thi chính sách.
Tổng quát lại: Nền kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật thị trường đồng thời phản ánh được xu thế phát triển
của thời đại, hóa giải được những thách thức đặt ra trong thế giới hiện đại. Thể
chế để tạo lập và vận hành nền kinh tế ấy phải dựa trên 3 trụ cột: thị trường, Nhà
nước và xã hội.
Về hội nhập quốc tế
Ngay từ cuối thập niên 90 của thế kỷ 20, Đảng đã xác định: Trong thời đại ngày
nay, toàn cầu hóa là xu thế lớn, ngày càng cuốn hút các quốc gia, dân tộc vào tiến
trình này. Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết về hội nhập quốc tế. Như vậy, về nguyên
tắc, hội nhập nằm ngay trong tính chất của thời đại.

Với cách lý giải về nền kinh tế thị trường hiện đại như trên thì không nhất thiết
phải thêm cụm từ “hội nhập quốc tế” vào nội dung này. Tuy nhiên, đưa thêm cụm
từ “hội nhập quốc tế” là để khẳng định một chủ trương đã có, cần thực hiện tốt hơn
cũng không thừa. Hơn nữa, “hội nhập quốc tế” còn mang hàm ý là các văn bản quy
phạm pháp luật trong nước phải tương thích với định chế của tổ chức mà nước ta
đang hội nhập.
Theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trên thế giới đã có nền kinh tế thị trường xã hội (ở các nước Bắc Âu, Cộng hòa
Liên bang Đức….). Trong các nền kinh tế này, Nhà nước dùng công cụ thuế (thuế
thu nhập, thuế tài sản, thuế thừa kế…) được đánh ở mức cao nhằm điều tiết bớt thu
nhập và tài sản của những người giàu, hình thành nguồn lực của nhà nước để đầu
tư vào phúc lợi xã hội (y tế, giáo dục, các công trình văn hóa, vận tải công
cộng…), hình thành các quỹ an sinh, quỹ bảo hiểm (bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ
bảo hiểm y tế cho người nghèo,.. ) ở mức tương đối cao.


Nền kinh tế thị trường xã hội, theo các chính sách nêu trên chú ý đến sự phát triển
xã hội và lợi ích cộng đồng ở một mức độ nhất định, phù hợp với sự phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, do thể chế chính trị đa đảng, các chính sách này không ổn định và
tính hướng đích không cao do tùy thuộc vào chính sách của từng đảng. Khi đảng
cầm quyền thay đổi thì các chính sách nêu trên cũng thay đổi (mức điều tiết thay
đổi…).
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với nền kinh tế thị trường xã hội ở
điểm nào? Và sự hợp lý khi đưa cụm từ này vào khái niệm nền kinh tế thị trường
mà chúng ta đang xây dựng?
- Nói định hướng là nói sự vận động theo một hướng nào đấy, nhằm đạt tới một
đích đến nào đấy. Con đường cụ thể để tới đích đến ấy có thể phải qua thời gian
mới rõ dần, phải vừa đi vừa tìm, bước trước mở lối cho bước sau nhưng cứ phải
nhằm hướng ấy mà đi. Hướng đi ấy-như nhiều lần Đảng đã khẳng định là: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

-Nói “chủ nghĩa” là nói đến hệ thống những quan điểm, ý thức, hệ tư tưởng, làm
cơ sở lý thuyết chi phối, hướng dẫn tư tưởng và hành động của con người. Hệ
thống quan điểm đó có thể được khởi xuất từ một người, nhưng được một tập hợp
người đi theo.
Như vậy, nói định hướng XHCN trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở
Việt Nam là nền kinh tế đó được xây dựng trên cơ sở một hệ tư tưởng nhằm xác
định hướng đi bảo đảm mục tiêu tổng quát là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Nó khác với kinh tế thị trường xã hội ở chỗ hướng đi là ổn định, do một đảng duy
nhất lãnh đạo, mục tiêu là cụ thể, chú trọng tính công bằng và dân chủ ở mức cao;
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được coi trọng ngay trong từng chính sách phát
triển và ngày càng tốt hơn theo từng nấc thang phát triển, dựa trên một hệ tư tưởng
đã trở thành chủ thuyết.
Điều cần lưu ý ở đây là tính thời đại là nhân tố bao trùm. Một chủ thuyết muốn có
sức sống lâu bền phải phản ánh được xu thế phát triển của thời đại, hóa giải được
những thách thức mà thời đại đặt ra; không được giáo điều mà phải luôn bổ sung,
chỉnh sửa, hoàn thiện nó.
Tuy nhiên, phải thấy rằng đây không phải là con đường dễ dàng. Nó đòi hỏi Đảng
phải thật sự trong sạch, dấn thân vì lợi ích của dân tộc; phải tạo được một cơ chế


giám sát hiệu quả, đặt Đảng dưới sự giám sát của người dân; không được đặc
quyền đặc lợi.Đảng phải có năng lực sáng tạo, tinh thần đổi mới.
Về quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Ở bất kỳ một nền kinh tế nào cũng có vai trò của nhà nước. Điều khác nhau là ở
chỗ vai trò đó thể hiện thế nào, mức độ đến đâu? Nhà nước sở hữu, nhà nước can
thiệp, hay nhà nước kiến tạo?
Ở trên đã làm rõ vai trò kiến tạo phát triển của nhà nước và nhà nước là một trong
ba trụ cột của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy, không cần thiết đưa thêm
cụm từ “có sự quản lý của nhà nước” vào nội dung đã nêu. Sử dụng cụm từ “có sự

quản lý của Nhà nước” cũng không phản ánh chính xác vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường hiện đại.
Về sự lãnh đạo của Đảng
Sự lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định trong Hiến pháp 2013. Hơn nữa, Đảng
lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Mà, vai trò của Nhà nước
đã được luận giải ở phần trên, không cần thiết thêm cụm từ “dưới sự lãnh đạo của
Đảng”.
Mặt khác, nhà nước bằng các công cụ chính sách định hướng các lực lượng thị
trường. Thị trường hiện đại - cũng theo luận giải ở trên bao gồm ba “trụ cột”.
Trong đó “thị trường” hoạt động theo quy luật khách quan, đó là quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh và quy luật lợi nhuận. Đưa thêm cụm từ “dưới sự lãnh đạo của
Đảng sẽ xuất hiện câu hỏi: Đảng có lãnh đạo “thị trường” không và lãnh đạo theo
phương thức nào?
Tổng quát lại: Nên xác định là “xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, theo định
hướng XHCN” là đủ. Cũng có thể bổ sung thêm cụm từ “hội nhập quốc tế”, và thể
hiện là: “xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế theo định
hướng XHCN”.
Về kinh tế nhà nước và DNNN trong nền kinh tế thị trường hiện đại theo định
hướng XHCN
- Kinh tế nhà nước bao gồm tài nguyên thiên nhiên do nhà nước là chủ sở hữu,
ngân sách nhà nước, các nguồn dự trữ nhà nước, và cả DNNN.


Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất, cùng với các công cụ điều tiết và các chính
sách khác để nhà nước thực hiện chiến lược tăng trưởng bao trùm, bảo đảm định
hướng XHCN của sự phát triển. Vì vây,kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng.
Trong đó, DNNN phải hoạt động hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên phải được sử
dụng tiết kiệm; ngân sách nhà nước phải càng ngày càng lớn cùng với sự phát triển
của đất nước theo phương chậm “dân giàu- nước mạnh”. Dân có giàu thì nước mới
mạnh và từ dân giàu để làm nên nước mạnh.

- Về DNNN: kinh tế thị trường không loại trừ DNNN nhưng DNNN cũng phải đặt
trong môi trường cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác. Đây là yếu tố quan trọng buộc hoạt động của DNNN phải minh bạch
và hiệu quả.
Tuy nhiên, cần nhận thức đúng tính giai đoạn và vai trò giới hạn của DNNN vì
thực tiễn lịch sử chỉ rõ DNNN là kém hiệu quả, nhất là khi quy mô kinh tế tăng
lên, trường kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, DNNN lại không được
đặt trong môi trường cạnh tranh.
Vì vậy, trước khi dùng DNNN là công cụ thực hiện chinh sách cần đặt câu hỏi: Có
lực lượng nào hoặc cơ chế nào thay thế tốt hơn không? Trong điều kiện nước ta,
khi kinh tế tư nhân còn bé nhỏ, tiềm lực tài chính, đặc biệt là tiềm lực công nghệ
còn rất yếu kém, (nhiều khi có tiền cũng chưa dám đầu tư vì rủi ro lớn) DNNN có
thể và cần phải là công cụ để thực hiện chính sách công nghiệp.
Thử hỏi trong điều kiện nước ta hiện nay, nếu cần (người viết nhấn mạnh) phát
triển điện hạt nhân, có doanh nghiệp tư nhân nào có thể đầu tư vào lĩnh vực này.
Và, không chỉ điện hạt nhân ngay cả những dàn khai thác dầu mà công ty dịch vụ
cơ khí hàng hải thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang chế tạo, trong điều kiện
nước ta hiện nay cũng khó có doanh nghiệp tư nhân (DNTN) nào làm nổi?
Mặc dầu khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước, trong đó có DNNN
nhưng đối với nước ta, muốn phát triển nhanh, bảo đảm dân giàu nước mạnh, cùng
với cổ phần hóa, tái cơ cấu DNNN, phải lấy kinh tế tư nhân của người Việt Nam,
thông qua doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần đại chúng làm động lực chủ
yếu.
Để nền kinh tế thị trường hiện đại vận hành hiệu quả, cần:
- Bảo đảm sự phát triển đồng bộ các loại thị trường, các yếu tố của kinh tế thị
trường. Không phát triển đồng bộ, các loại thị trường, các yếu tố của kinh tế thị
trường sẽ cản trở, kìm hãm lẫn nhau.


- Phải đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế. Không đổi mới chính trị sẽ

cản trở đổi mới kinh tế. Cần lưu ý rằng hệ thống chính trị không chỉ là những chủ
thể thực thi chính sách kinh tế mà còn là đường dẫn cho các chính sách kinh tế đến
với thị trường, doanh nghiệp.
- Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền.
- Phát triền cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, thông tin nhằm tạo thuận lợi cho
việc dịch chuyển các nguồn lực đến các khu vực có nhu cầu phát triển.
Cuối cùng, việc tham gia các hiệp định mậu dịch tự do mới sẽ thúc đẩy việc hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một cơ chế quản lý
kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam tạo ra và triển khai tại Việt Nam từ thập
niên 1990[1] cho đến nay. Việc áp dụng cơ chế này cũng được ghi vào Hiến pháp
Việt Nam mới nhất.
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận
thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.[1] Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới,
chưa có tiền lệ trong lịch sử[2] Thêm vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ
thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn[2] Gần 20 năm theo đuổi chủ trương
xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể
chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ.[2] Đến hội nghị lần thứ 6
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra
nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa[1]. Tới ngày 23 tháng 9 năm
2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
Cơ sở lý luận và thực tiễn[sửa | sửa mã nguồn]
Không nên lầm tưởng kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, còn chủ
nghĩa xã hội thì không. Quan niệm này xuất phát từ mô hình kinh tế bao cấp của



Liên Xô và Đông Âu trước kia, song chính Liên Xô trong giai đoạn lãnh đạo
của Lenin cũng có nền kinh tế thị trường. Thực ra, theo lý luận của Lenin thì chủ
nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Trong đó mô hình kinh tế là hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể với kinh tế tư bản tư nhân. Theo đó, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế
mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành
công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của
mình. Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế kế
hoạch, khiến nhiều người lầm tưởng chủ nghĩa xã hội chỉ gắn liền với kinh tế bao
cấp.
Những lý luận đầu tiên về kinh tế thị trường của chủ nghĩa xã hội được nhà kinh
tế Enrico Barone người Ý nêu ra vào năm 1908 trong tác phẩm "Il Ministro della
Produzione nello Stato Collettivista"[3]. Barone đã đưa ra một mô hình toán về một
nền kinh tế tập thể, theo đó các quan hệ tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế đều có
thể tính toán được và từ đó có thể điều chỉnh để sao cho phúc lợi tập thể đạt mức
tối ưu.
Năm 1929, Fred Manville Taylor người Mỹ trong công trình "The Guidance of
Production in a Socialist State," tạp chí American Economic Review, số 19(1),
trang 1-8, đã nêu ra những điều kiện để nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể, về mặt
lý thuyết, đạt được hiệu quả trong phân phối nguồn lực.
Trên cơ sở mô hình của Barone, vào năm 1936 nhà kinh tế Ba Lan Oskar Ryszard
Lange đã công bố cuốn sách của mình mang tên Lý thuyết kinh tế về chủ nghĩa xã
hội trong đó ông kết hợp kinh tế học Marxist với kinh tế học tân cổ điển. Lange
ủng hộ việc sử dụng các công cụ thị trường (giá cả) và đồng thời ủng hộ việc kế
hoạch hóa. Lange cho rằng các nhà làm kế hoạch có thể tính toán và đặt ra các mức
giá và chờ đợi phản ứng của thị trường để điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy nền
kinh tế sẽ có hiệu quả cao hơn thay vì để cho thị trường quyết định hoàn toàn.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy Chủ nghĩa xã hội

kết hợp với yếu tố thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba (để phân biệt với
hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do (hay kinh tế tư bản chủ nghĩa) và
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã rời bỏ nền
kinh tế kế hoạch hóa để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các nước tư bản phát
triển như Mĩ, Anh, Pháp và Nhật trong thế kỉ 20 cũng điều chỉnh mô hình kinh tế


theo hướng giảm thiểu sự can thiệp của bộ máy nhà nước (mô hình kinh tế hỗn
hợp) [cần dẫn nguồn].
Các đặc trưng[sửa | sửa mã nguồn]
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau[2]:


Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường,
vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ,
ngân hàng, quốc phòng...) được nhà nước quản lý. Các thông lệ quốc tế trong
quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu
sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.



Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân.



Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập

kinh tế thành công.



Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối
lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo
hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công
bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.




Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được
khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.

Chính sách thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]
Chủ trương khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế bằng việc thành
lập hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như các tập đoàn kinh tế nhà nước,


các tổng công ty 90, tổng công ty 91. Tuy nhiên, hiện không ít doanh nghiệp nhà
nước lớn này hoạt động không hiệu quả và/ hoặc thua lỗ triền miên, dẫn tới yêu
cầu phải tái cấu trúc và cổ phần hóa các doanh nghiệp này.[4],[5]
Một số vấn đề đang tồn tại cần được nghiên cứu giải quyết[sửa | sửa mã nguồn]
Do nhà nước (thông qua các doanh nghiệp nhà nước) nắm quyền chi phối phần lớn
tài nguyên (economic resources) của nền kinh tế bao gồm đất đai, khoán sản, tín

dụng, ưu đãi chính sách.v.v. nên các chính sách chống tham nhũng, chống lãng
phí.v.v. nếu không chặt chẽ sẽ dẫn đến tiêu cực: cán bộ tham nhũng ngày càng tinh
vi và hệ thống phải gồng mình tập trung chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí,
thay vì tập trung toàn lực cho sản xuất.
Việc quản lý kém hiệu quả các nguồn tài nguyên kinh tế và tham nhũng thất thoát
cao trong hệ thống dẫn đến đầu tư nhà nước vào nền kinh tế đạt hiệu quả thấp. Tuy
vậy khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới là khu vực hiệu quả kém
nhất, nguyên nhân là do các báo cáo lỗ, do việc chuyển giá giữa công ty mẹ với các
công ty con diễn ra khá phổ biến trong những năm qua.[6]. (xem chỉ số ICOR). Ví
dụ, để có giá trị tăng thêm tương đương với 1 đồng, thì Việt Nam phải đầu tư 5,1
đồng (năm 2008) so với 4,1 đồng của Thái Lan. Chi phí đầu tư cao dẫn đến một
nguy cơ nền kinh tế luôn trong trạng thái căng thẳng, dễ xảy ra quá tải (overheat)
cùng lúc với dễ dàng suy thoái. Để đưa đất nước lên trở thành công nghiệp hóa,
Việt Nam phải tốn kém gấp 1,5 lần các quốc gia NIC như Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapore và Đài Loan, mà hệ lụy của sự tốn kém "bất thường" này là mục tiêu
công nghiệp hóa sẽ khó đạt được, hoặc cho dù đạt được thì chi phí "bảo trì" cho
một nền kinh tế như vậy cũng sẽ cao, dẫn đến hàng hóa do nền công nghiệp của
Việt Nam sản xuất ra thường phải bán giá cao mới đủ lợi nhuận, từ đó dẫn đến
giảm sức cạnh tranh. Để tăng sức cạnh tranh phải giảm giá hàng hóa, thì chi phí lao
động phải bị kiềm chế, vì các loại hàng hóa khác phải theo cơ chế thị trường. Sự
kiềm chế chi phí lao động sẽ khiến thị trường lao động bị bóp méo và nguy cơ mất
ổn định cao vì lãn công, đình công.[cần dẫn nguồn]
Sự thành công trong công cuộc chống tham nhũng lãng phí ở khu vực kinh tế Nhà
nước, đồng thời tổ chức lại khu vực kinh tế FDI và không kêu gọi đầu tư bằng mọi
giá, chỉ chấp nhận đầu tư có chọn lọc đối với khu vực FDI, sẽ quyết định rất lớn
đến sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam.


Trong những năm đầu áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã có

hiệu quả. Nhưng đến nay đã bộc lộ những bất cập và mâu thuẫn, vì: Nhà nước
(NN) quản lý, điều tiết 1 số giá được cho là chiến lược như giá điện, nhiên liệu...
[cần dẫn nguồn]
do vậy, khi cần thì NN tăng hoặc giảm giá, và như vậy khi cần tiến hành
lập, phân tích triển khai 1 dự án sẽ khó khăn khi xác định giá thành sản phẩm vì nó
phụ thuộc vào sự điều tiết giá đầu vào của NN, nếu sự điều tiết này là tăng cơ học
quá lớn thì làm đảo lộ tất cả các hoạch định, tính toán hiệu quả của 1 dự án, thậm
chí làm phá sản. Nhưng nếu NN không điều tiết thì DNNN sẽ bị lỗ (như ngành
điện chẳng hạn) và một bộ phận dân cư nghèo sẽ không kham nổi chi phí mua
hàng hóa.
Nhận xét[sửa | sửa mã nguồn]
Nhiều người cho là khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam vẫn còn rất mơ hồ, mỗi nơi lại hiểu một kiểu.


Theo luật sư Trương Thanh Đức cần được xác định rõ kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là gì trong dự thảo Hiến pháp, để tránh trường hợp áp
dụng kinh tế kế hoạch hoá tập trung vào kinh tế thị trường.[7]



Về câu hỏi, thế nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trong một buổi nói
chuyện về các vấn đề kinh tế ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào
cuối năm 2013, trả lời rằng đây là mô hình chưa từng có trên thế giới, đó là câu
hỏi mà Việt Nam vẫn phải dò tìm trong tương lai:





Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì

Theo luật sư Nguyễn Tiến Lập "định hướng xã hội chủ nghĩa" là phải bảo
đảm sự công bằng tương đối về xã hội và chế độ an sinh xã hội phổ cập đối với
người dân.[7] Điều này giống với mục tiêu của nền kinh tế thị trường xã hội của
nước Đức, và khác với nền kinh tế thị trường tự do của nước Mỹ (ở Mỹ, Nhà
nước không quản lý tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và có tới trên 40 triệu người
dân không có bảo hiểm y tế)[7] Tuy nhiên, có những thực tiễn vừa qua lại đi
ngược lại, ví dụ như việc tăng phí bệnh viện và phí học đường đang trở thành
gánh nặng cho người nghèo.[7] Hậu quả của việc không xác định mô hình kinh


tế và duy trì các mối quan hệ không rõ ràng giữa Nhà nước và thị trường, sẽ
biến các doanh nghiệp thành các chủ thể phụ thuộc ngày càng lớn hơn vào Nhà
nước.[9]


Câu hỏi tại sao sau hơn hai mươi năm chuyển sang kinh tế thị trườn

Chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]
Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban cố vấn của Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam thời các thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, bàn về bức thư
viết ngày 09/8/1995, tức 20 năm trước, của cố Thủ tướng Việt Nam, Võ Văn
Kiệt gửi cho Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khuyến nghị, cảnh báo và
nêu quan điểm về một số vấn đề được cho là có tầm chiến lược đối với Việt
Nam vào thời điểm đó:






"Mặc dù Việt Nam cũng đã phát triển nền kinh tế của mình theo hướ
Nam đã ở một tình thế rất khó phát triển." [10]

Tại hội thảo "Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển
giai đoạn 2015- 2035", ông Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện chiến lược phát
triển đánh giá rằng:





"quá trình đổi mới tư duy sang mô hình kinh tế thị trường định hướ

Thăm dò ý kiến[sửa | sửa mã nguồn]
Theo Pew, 95% số người Việt Nam được hỏi ủng hộ thị trường tự do, trong khi ở
Mỹ, có tới 25% số người được hỏi nghi ngờ về tính hiệu quả của thị trường tự
do. [12]
Khảo sát thay đổi cảm nhận về Nhà nước và thị trường của người Việt Nam" CAMS 2014 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy:
trong 1.600 phản hồi, có 89% ủng hộ mô hình kinh tế thị trường; 71% ủng hộ sở
hữu tư nhân trong khi chỉ có khoảng 4% lựa chọn sở hữu nhà nước, 94% yêu cầu


minh bạch trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tại Việt Nam, 99%
ủng hộ chủ trương tư nhân hóa một số dịch vụ công. Nhưng mặt khác, tỷ lệ “ủng
hộ song còn quan ngại” việc tư nhân hóa dịch vụ công vẫn còn cao hơn tỷ lệ “hoàn
toàn ủng hộ” chủ trương này (57% so với 42%). Đặc biệt, 75% vẫn mong muốn
Nhà nước có chính sách can thiệp, bình ổn giá cả do lo ngại sẽ bị ảnh hưởng bởi
những khiếm khuyết của thị trường.
Kết quả khảo sát cho thấy một thực tế khá nghịch lý: đa số người Việt Nam vừa

ủng hộ kinh tế tư nhân cạnh tranh nhưng lại cũng muốn bàn tay can thiệp của Nhà
nước đối với những mặt hàng thiết yếu để đảm bảo quyền lợi cho họ (Vừa muốn
thị trường cạnh tranh vừa muốn được Nhà nước "ôm ấp"). Nguyên nhân là do
những bất ổn kinh tế khiến người dân thấy không an toàn. Mặt khác tại Việt Nam,
những vấn đề về thiếu minh bạch thông tin, tình trạng không tuân thủ pháp luật của
doanh nghiệp, lách luật, ép giá người tiêu dùng... diễn ra phổ biến, khiến ưu điểm
của kinh tế thị trường ít được phát huy; trong khi những khiếm khuyết của thị
trường lại thường phát sinh. Điều này khiến người dân quay sang trông chờ ở sự
trợ giúp của nhà nước[13]
Kinh tế thị trường và câu trả lời của Thủ tướng
(Chinhphu.vn) – “Kinh tế thị trường là thế nào, định hướng xã hội chủ nghĩa
là thế nào, phải nói cụ thể, không chung chung nữa”, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng nêu vấn đề như vậy tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2015
vừa diễn ra, khi đề cập đến những đường hướng lớn nhằm tạo đột phá, thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội năm 2015 và những năm tiếp theo.
Câu chuyện bắt đầu khi một ý kiến tại phiên họp cho rằng để bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa, thì trong một số lĩnh vực như giáo dục hay y tế, nhà nước vẫn
phải đầu tư là chính, nếu xã hội hóa quá mức, thì có thể dẫn tới nguy cơ “chệch
hướng”.
Trên thực tế, mới cách đây vài ngày, Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định cơ
chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập – một hướng đi được kỳ vọng là sẽ giúp
các đơn vị này, trong đó có các bệnh viện, nhà trường, phát triển mạnh mẽ. Cổ
phần hóa là một hướng đi khác còn mạnh mẽ hơn. Sắp tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ
ban hành Quyết định chuyển một số đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ
phần, theo hướng thực hiện ngay không làm thí điểm và phạm vi mở rộng thêm so
với dự kiến trước đó…


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng là vấn đề rất lớn, có tầm
quan trọng đặc biệt, thu hút sự chú ý của đông đảo các giới, nhưng ý kiến nói trên

tại phiên họp Chính phủ cũng cho thấy vẫn còn những khác biệt trong quan điểm
về vấn đề này. Nhiều ý kiến lo ngại rằng việc thực hiện “triệt để” kinh tế thị trường
có thể dẫn tới nguy cơ “chệch hướng” xã hội chủ nghĩa.
Trả lời ý kiến nói trên tại phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: Không phải
tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực y tế hay giáo dục hay theo cơ chế
thị trường là không lo cho người nghèo. Rõ ràng, đã đến lúc phải thay đổi cách suy
nghĩ như vậy.
Nhìn rộng hơn, Thủ tướng nhấn mạnh: “Tất cả phải đi vào kinh thế thị trường và
đã là thị trường thì phải thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, trước
hết là giá cả, phân bổ nguồn lực phải theo thị trường. Và đã thị trường thì phải
công khai, minh bạch, bình đẳng”.
Còn định hướng XHCN là Nhà nước sẽ dùng chính sách, dùng công cụ, dùng
nguồn lực của mình để điều tiết, để phân phối, phân phối lại, bảo đảm cho tiến bộ
công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo… Thủ tướng lấy ví dụ trong lĩnh vực y tế,
giá các dịch vụ phải được tính đúng, tính đủ, còn người nghèo, đối tượng chính
sách phải được chăm lo.
Nhưng để đạt được mục đích đó, chúng ta phải có một cách làm khác so với trước
đây, mà cụ thể là bằng những giải pháp mà Chính phủ đã triển khai như xã hội hóa,
cơ chế tự chủ hay cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công lập, từ đó phát triển
mạnh lĩnh vực y tế, bảo đảm cung cấp dịch vụ tốt nhất cho tất cả mọi người, trong
đó người nghèo vào bệnh viện cũng được chăm sóc tốt thông qua bảo hiểm y tế.
“Định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là có bao nhiêu bệnh viện của nhà
nước, không phải là quốc doanh chiếm bao nhiêu, mà là làm sao để tất cả mọi
người dân được hưởng những dịch vụ xã hội cơ bản”, Thủ tướng nói.
Nói cách khác, cần tách bạch rõ ràng vấn đề phúc lợi xã hội và quan điểm này đã
được Thủ tướng, được Chính phủ thể hiện nhất quán. Chẳng hạn, một trong những
định hướng lớn trong tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là phải tách bạch nhiệm vụ


sản xuất kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích. Cũng sẽ không có chuyện

giữ giá, ví dụ giá điện, ở mức thấp với lý do bảo đảm an sinh xã hội nữa, Chính
phủ kiên quyết xóa bao cấp và không bao cấp tràn lan về giá, những đối tượng nào
thuộc diện chính sách sẽ được Nhà nước hỗ trợ trực tiếp.
Trên thực tế, những nhận thức nói trên về kinh tế thị trường đã được người đứng
đầu Chính phủ thể hiện qua nhiều chỉ đạo gần đây, mà nhiều ý kiến cho rằng là sự
khởi động cho “làn sóng” đổi mới lần thứ hai. Có thể nhận thấy điều đó từ Thông
điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng, cho tới Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày
18/3/2014 về cải thiện môi trường kinh doanh, những chỉ đạo về tái cơ cấu khối
doanh nghiệp nhà nước hay định hướng xây dựng các Luật Doanh nghiệp, Luật
Đầu tư… “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường” cũng là giải pháp lớn,
bao trùm đầu tiên mà Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện
trong dự thảo Nghị quyết mới sắp được ban hành về cải thiện môi trường kinh
doanh – vấn đề mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá là nội dung có ý nghĩa
quyết định đối với phát triển kinh tế-xã hội.
Những nhận thức, quan điểm đó của Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ
chính là câu trả lời cho vấn đề được Thủ tướng đặt ra: “Kinh tế thị trường là thế
nào, định hướng xã hội chủ nghĩa là thế nào, phải nói cụ thể, không chung chung
nữa”.
Cũng cần nhắc lại rằng, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là một trong tám mối quan hệ lớn mà Cương lĩnh xây dựng đất
nước được thông qua tại Đại hội XI yêu cầu “cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững
và giải quyết tốt”.
Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XII đã nêu ra định nghĩa mới về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mục tiêu, nhiệm vụ cho vấn đề này trong 510 năm tới.
Theo đó, nền kinh tế phải vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa


Nhà nước và thị trường; Nhà nước đóng vai trò định hướng, sử dụng các nguồn lực

của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế…
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng khẳng định, động lực mà những cải cách trước
đây tạo ra đã không còn đủ mạnh và “đây là lúc” chúng ta cần có thêm động lực.
Quan điểm mới nói trên rất có thể sẽ là chìa khóa để giải quyết những vấn đề lớn
lao đòi hỏi tư duy đột phá và tầm nhìn xa, để từ đó đưa đất nước tiến nhanh vào
giai đoạn phát triển mới.
- See more at: />


×