Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân biệt phương thức phát hành chứng khoán riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công chúng. Phân tích ưu nhược điểm của từng hình thức phát hành. Liên hệ thực tế với các hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.19 KB, 15 trang )

BÀI THU HOẠCH MÔN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Đề bài: Phân biệt phương thức phát hành chứng khoán riêng lẻ và chào bán chứng
khoán ra công chúng. Phân tích ưu nhược điểm của từng hình thức phát hành. Liên hệ
thực tế với các hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
Họ và tên : Nguyễn Thu Thảo
Lớp
MSV

: Tài chính ngân hàng 2 – k15
: 143134202070
MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT
DN : Doanh nghiệp
UBCK : Ủy ban chứng khoán
CTCP : Công ty cổ phần
CtyNY : Công ty niêm yết
NĐT : Nhà đầu tư
NH : Ngân hàng
NHTM : Ngân hàng thương mại
TTCK : Thị trường chứng khoán
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
KSA : Công ty cổ phần Công nghiệp Khoáng sản Bình Thuận

1


2



Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đang sôi động một loại thị trường đó là
thị trường chứng khoán. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cơn sốt chưng khoán như hiện
nay trong đó phải kể đến những món lợi về kinh tế mà nó mang lại cho các nhà đầu tư
và cho chính những nhà phát hành. Cùng với sự phát triển của nề kinh tế thị trường tại
Việt Nam, xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, nhiều làn sóng kinh doanh mới đã và đang
ùa về nước ta. Qua đó chúng ta có thể thấy vai trò của thị trường chứng khoán nói
chung và thị trường cổ phiếu nói riêng đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Các
công ty càng có uy tín trong kinh doanh thì sự chú ý của các nhà đầu tư vào đợt phát
hành cổ phiếu của chúng càng lớn. Vì thế, nhìn vào giá của cổ phiếu mà chúng ta có
thể thấy một phần kết quả kinh doanh của công ty. Như vậy phát hành cổ phiếu là một
bước tiến quan trọng, nó đánh dấu một thời kỳ phát triển của công ty. Tuy cũng đã
hình thành ở nước ta một thời gian nhưng nghiệp vụ phát hành chứng khoán ở Việt
Nam còn khá non yếu nếu đem so sánh với thế giới. Nghiên cứu phương thức các
doanh nghiệp phát hành chứng khoán giúp chúng ta hiểu rõ hơn cách thức của các
doanh nghiệp phát hành, vì vậy em xin chọn đề tài : “Phân biệt phương thức phát
hành chứng khoán riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công chúng. Phân tích ưu
nhược điểm của từng hình thức phát hành. Liên hệ thực tế với các hoạt động phát
hành chứng khoán của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam”

3


I. Phát hành chứng khoán
1. Khái niệm, phương thức phát hành chứng khoán
I.1. Khái niệm về phát hành chứng khoán:
Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán. Nếu
đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra
công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng.
Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán

cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy
nhiên, không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ
thể phát hành mới có được quyền này.
1.2. Phương thức phát hành chứng khoán:
Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp : phát hành
riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
1.2.1.Phát hành chứng khoán riêng lẻ
-

Phát hành chứng khoán riêng lẻ là phương thức phát hành trong đó việc

công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất
định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán
một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế và
không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia
vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số
các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát
hành cổ phiếu thường, cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
- Công ty thường lựa chọn riêng lẻ bởi các nguyên nhân sau : Công ty không
đủ tiêu chuẩn để phát hành ra công chúng, số lượng vốn cần huy động thấp do đó nếu
phát hành hình thức ra công chúng thì chi phí trên mỗi đồng vốn huy động sẽ trở nên
quá cao, công ty phát hành cổ phiếu nhằm duy trì các mỗi quan hệ kinh doanh. Ví dụ :
phát hành cổ phiếu cho các nhà cung cấp hay tiêu thụ sản phẩm,..,phát hành cho các
cán bộ công nhân viên chức công ty
- Ưu điểm
+ Thủ tục đơn giản
+ Số lượng vốn huy động ít
+ Số lượng chứng khoán phát hành không nhiều
4



-

Nhược điểm

+ Không tiến hành rộng rãi ra công chúng
+ Điều kiện hạn chế
1.2.2.Chào bán ra công chúng
Chào bán ra công chúng: là quá trình trong đó chứng khoán có thể chuyển
nhượng được chào bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất
định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành
phải đạt một mức nhất định. Chào bán ra công chúng thường áp dụng cho những đợt
phát hành có lượng vốn huy động lớn và lượng chứng khoán phát hành phải đạt một
mức độ nhất định. Việc chào bán chứng khoán ra công chúng phải chịu sự điều chỉnh
của pháp luật về chứng khoán. Thủ tục chào bán ra công chúng phức tạp hơn nhiều so
với phương thức phát hành riêng lẻ. Việc chào bán chứng khoán ra công chúng phải bỏ
ra một khoản chi phí phát hành cao hơn so với việc phát hành riêng lẻ.
Việc phát hành ra công chúng được phân biệt giữa phát hành cổ phiếu và phát
hành trái phiếu
- Trường hợp phát hành cổ phiếu ra công chúng, việc phát hành được thực hiện
theo một trong hai phương thức :
+ Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) : là việc phát hành trong đó cổ phiếu
của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư. Nếu cổ phần được
bán lần đầu cho công chúng nhằm tăng vốn thì đó là IPO sơ cấp, còn khi cổ phần được
bán lần đầu từ số cổ phiếu hiện hữu thì đó là IPO thứ cấp
+ Chào bán sơ cấp ( phân phối sơ cấp ): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của
công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư.
- Trường hợp phát hành trái phiếu ra công chúng, việc phát hành được thực hiện
bằng một phương thức duy nhất, đó là chào bán sơ cấp.
- Ưu điểm

+ Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng
của công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động
vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách hàng và
nhà cung ứng của công ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy
công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.

5


+ Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp
công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi
hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ
phiếu của các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các
khoản vay ngân hàng. Ngoài ra, việc phát hành chứng khoán ra công chúng cũng giúp
công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngoài.
+ Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì
đội ngũ nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao
giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với
quyền mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi
trên vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty
làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của
mình.
+ Phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty có cơ hội tốt để xây dựng
một hệ thống quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát
triển rõ ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo
ra được tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị
không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối
trong quản lý và điều hành công ty.
+ Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác
của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo các tiêu

chuẩn chung do cơ quan quản lý qui định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so
sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.
- Nhược điểm :
+ Phát hành cổ phiếu ra công chúng làm phân tán quyền sở hữu và có thể
làm mất quyền kiểm soát công ty của các cổ đông sáng lập do hoạt động thôn tín công
ty. Bên cạnh đó, cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động do chịu
ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày.
+ Chi phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao, thường chiếm từ 8-10%
khoản vốn huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi
phí in ấn, phí kiểm toán, chi phí niêm yết… Ngoài ra, hàng năm công ty cũng phải
chịu thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm toán các báo cáo tài chính , chi phí
6


cho việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ co quan quản lý nhà nước về chứng khoán và chi
phí công bố thông tin định kỳ.
+ Công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ một chế độ
công bố thông tin rộng rói, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các
công ty khác. Hơn nữa, việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí cạnh
tranh, phương thức hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu, cũng như nguy cơ bị rũ rỉ
thông tin mật ra ngoài có thể đưa công ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi.
+ Đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công
chúng. Ngoài ra, do quy định của pháp luật, việc chuyển nhượng vốn cổ phần của họ
thường bị hạn chế.
1.2.3. Phân biệt phương thức phát hành chứng khoán riêng lẻ và chào bán
chứng khoán ra công chúng
Tiêu đề
Chào bán ra công chúng Phát hành riêng lẻ
Số lượng nhà đầu tư Chào bán cho từ 100 nhà
Giới hạn người chào bán

tham gia vào mỗi cuộc đầu tư trở lên, không kể
càng nhỏ càng tốt
chào bán
nhà đầu tư chuyên nghiệp
Phức tạp hơn phải đăng Đơn giản hơn, không phải
Thủ tục

ký tại ủy ban chứng đăng kí tai cơ qua nhà nước

khoán nhà nước
có thẩm quyển
Vừa là tổ chức cá nhân,
Thường là những nhà đầu tư
Chủ thể mua ck chào chủ thể rộng nên có cả
có tổ chức, có kiến thức
bán
nhà đầu tư chuyên nghiệp
chuyên sâu
và nghiệp dư
Chi phí tiến hành chào
Thường cao và tốn kém
Ít tốn kém hơn
bán
Huy động một lượng vốn
Mức huy động vốn
Thường huy động vốn ít
lớn trong công chúng
Chỉ được tiến hành trên
Phạm vi chào bán


Lý do chọn lựa

Rộng có thể chào bán trên
phạm vi rộng

phạm vi nhất định nằm phân
phối cho ít nhà đầu tư
chuyên nghiệp hoặc nhà đầu

tư cá nhân đặc biệt
- Quảng bá tên tuổi của - không đủ tiêu chuẩn để
công ty

phát hành ra công chúng
7


- Cần huy động ít vốn với số
- Tạo nguồn khách hàng lượng chứng khoán nhỏ để
cho Công ty

giảm chi phí

- Thu hút, duy trì đội ngũ - Duy trì các mối quan hệ
nhân viên giỏi làm tăng kinh doanh
chất lượng hoạt động sản - Phát hành cho cán bộ công
xuất- kinh doanh

nhân viên chức trong công
ty


Giá trị đợt phát hành lớn
Giá trị phát hành

với số lượng người mua

Giá chứng khoán

nhiều
Cao

Giá trị đợt phát hành nhỏ
với số lượng người mua ít
Thấp

* Ý nghĩa của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng:
- Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định
những người phát hành rộng rói ra công chúng phải là những công ty có chất lượng
cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung,
nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây
dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
- Phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật
Công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được
niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
2. Quản lí của Nhà nước đối với phát hành chứng khoán
Quản lí Nhà nước đối với thị trường chứng khoán của một quốc gia là sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển
của thị trường chứng khoán
Thị trường luôn tồn tại những khuyết tật nhất định, sự can thiệp của Nhà nước
vào thị trường nhằm giúp cho thị trường hoạt động theo đúng định hướng và đạt được

mục tiêu của thị trường chứng khoán là yêu cầu cần thiết khách quan ở mọi quốc gia
trên thế giới. Thị trường chứng khoán nói chung, thị trường sư cấp nói riêng cũng luôn
tồn tại những khiếm khuyết nhất định; đó là sự bất cân đối về thông tin giữa các chủ
thể tham giá vào thị trường. Các nhà đầu tư là những người bị bất lợi về thông tin; sự
bất cân đối về thông tin tao ra sự không công bằng cho các nhà đầu tư cá nhân, do
không có đầy đủ thông tin các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đầu tư chứng
8


khoán không chính xác, có nhiều rủi ro. Mặt khác, sự bất cân đối về thông tin còn dẫn
đến hậu quả làm các nguồn vốn được phân phối không hiệu quả. Do đó, sự quản lý của
Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp là cần thiết, vừa
đảm bảo sự công bằng cho các chủ thể tham gia vào thị trường vừa dảm bảo nguồn
vốn huy động trên thị trường được sử dụng một cách hiệu quả nhất cho sự phát triển
kinh tế xã hội.
Hiện tại trên thế giới có hai chế độ quản lý trên thị trường sơ cấp được gọi là
chế độ “quản lý theo chát lượng” và chế độ “công bố thông tin đầy đủ”.
2.1. Quản lý theo công bố thông tin:
Cơ quan quản lý về chứng khoán ít đưa ra các tiêu chuẩn cho các công ty tham
gia vào thị trường mà chỉ chú trọng vào việc đảm bảo các thông tin liên quan tới mọi
mặt hoạt động của các công ty nêu trên được công bố rộng rãi ra công chúng.
- Ưu điểm:Thị trường có tính linh hoạt cao
- Nhược điểm: Độ rủi ro cao
2.2. Quản lý theo chất lượng
Các cơ quan quản lý về chứng khoán đặt ra rất nhiều tiêu chuẩn để đảm bảo
các công ty tham gia vào thị trường là các công ty có chất lượng nhất định và có sự ổn
định hợp lý .
- Ưu điểm:Thị trường sẽ có tính ổn định cao hơn bởi các doanh nghiệp đc niêm
yết đều là những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính tốt, có khả năng sinh lời tốt.
- Nhược điểm: thị trường minh bạch, rõ ràng nên tính linh hoạt thấp, trong

nhiều trường hợp mất đi lợi thế của người đầu tư khởi nghiệp.
2.3. Kết hợp cả hai mô hình
Hiện tại trên thế giới, có rất ít nước sử dụng thuần túy một trong hai chế độ
quản lý trên mà thường kết hợp giữa hai cách thức quản lý " Quản lý theo chất lượng"
và " Quản lý theo công bố thông tin" ở những mức độ khác nhau.
Nhìn chung ở các nước phát triển, người ta thực hiện quản lý thị tường theo mô
hình " công bố thông tin", còn lại tại các nước đang phát triển, việc quản lý thị trường
chứng khoán thường áp dụng mô hình " quản lý theo chất lượng".
Với các nước phát triển, hệ thống pháp luật đã tương đối ổn định, nên kinh tế có
tính cạnh tranh cao, sự quản lý nhà nước về thị tường chứng khoán chỉ ở một mức độ
nhất định giúp cho thị trường hoạt động hiệu quả. Các nhà đầu tư, nhứng người tham
gia vào thị trường chứng khoán còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm tham gia thị trường
còn ít; mặt khác, hệ thống luật pháp thiếu và chưa đồng bộ. Để giảm thiểu rủi ro cho
các nhà đầu tư, các nước phát triển thực hiện quản lý theo chất lượng. Theo phương
9


thức này vừa đảm bảo sự phát triển ổn định thị trường vừa tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư khi tham gia vào thị trường sơ cấp.
3. Liên hệ thực tế với các hoạt động phát hành chứng khoán của các
doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tại các nước đã phát triển , các cơ quan quản lý về chứng khoán thường có xu
hướng quản lý thị trường theo chế độ công bố thông tin đầy đủ. Còn tại các quốc gia
đang phát triển, việc quản lý thị trường chứng khoán thường áp dụng chế độ quản lý
theo chất lượng. Vì tại các quốc gia đã phát triển, thị trường chứng khoán đã hoạt động
có tính cạnh tranh cao, các định chế về kinh tế pháp luật gắn liền với thị trường đã
phát triển ở mức tương đối đầy đủ và hoàn hảo. Do vậy, cho dù các cơ quan quan lý thị
trường có muốn quản lý theo chế độ công bố thông tin cũng ko thể thực hiện được do
những cản trở về hệ thống thông tin và hệ thống kiểm toán, kế toán. Hơn thế nữa ngay
cả trong các cơ quan quản lý về chứng khoán có thể đảm bảo các thông tin về các công

ty như theo chế độ quản lý thông tin đầy đủ trên thị trường thì các nhà đầu tư cũng khó
có thể lựa chọn được những cơ hội đầu tư tốt nhất cho mình do kinh nghiệm và kiến
thức còn thiếu hụt, và do sự vắng mặt của các cơ quan phân tích, tư vấn và định giá
trên thị trường. Vì những lí do nêu trên mà các cơ quan quản lý ở các nước đang phát
triển áp dụng chế độ quản lý theo chất lượng để đảm bảo sự ổn định cho thị trường và
để tạo niềm tin cho công chúng khi tham gia vào thị trường chứng khoán sơ cấp.
3.1 Phát hành chứng khoán riêng lẻ
Hai năm trở lại đây, phát hành riêng lẻ đang được các doanh nghiệp coi là vốn
huy động khả thi nhất. Theo số liệu tháng 6 năm 2015 về việc phát hành chứng khoán
riêng lẻ tại các doanh nghiệp, công ty cổ phần Công nghiệp Khoáng sản Bình Thuận
(KSA) vừa nộp hồ sơ lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) liên quan đến việc
chào bán 12.354.048 cổ phần riêng lẻ. Trao đổi với ông Nguyễn Văn Dũng, Chủ tịch
Hội đồng quản trị KSA cho biết, dự kiến vào cuối tháng 8, Công ty sẽ thực hiện việc
phát hành hơn 12 triệu cổ phiếu trên cho 3 đối tác chiến lược là Wanji Holding Group
Co. Ltd, Chengde Tianfu Titamium Co., Ltd và công ty cổ phần Đầu tư Đại Á Châu
theo Nghị quyết Đại hội cổ đông thường niên năm 2015. Ông Dũng cho biết, hiện
Công ty và các đối tác đang đàm phán về giá nhưng dự kiến giá phát hành tối thiểu là
20.000 đồng/CP, trong khi cổ phiếu KSA đang giao dịch trên thị trường với giá 13.000
đồng/CP. “Chúng tôi phải tìm cách phát hành riêng lẻ để huy động vốn, bởi trong năm
2014, Công ty bị vỡ kế hoạch phát hành cho cổ đông hiện hữu”, ông Dũng nói.
10


Tuy nhiên, không phải doanh ngiệp nào cũng có thể phát hành cổ phiếu
cao hơn thị giá. Trước đó, công ty cổ phần Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam (THV) đã
phải chọn phương án phát hành riêng lẻ hơn 42,2 triệu cổ phần, với giá chỉ 6.000
đồng/CP cho đối tác chiến lược, để tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng. Nhưng phương
án phát hành riêng lẻ với mức giá thấp hơn mệnh giá của THV xem ra vẫn khả thi hơn
nhiều so với việc phát hành rộng rãi cho cổ đông hiện hữu, trong điều kiện thiếu hụt
thanh khoản trầm trọng của THV. Nếu được UBCK chấp thuận, THV sẽ thực hiện kế

hoạch phát hành này ngay trong quý III/2015.
CTCK Sacombank (SBS) cũng vừa công bố kế hoạch phát hành ít nhất 10
triệu cổ phiếu hạn chế chuyển nhượng trong 1 năm, giá bán tối thiểu bằng mệnh giá
cho các NĐT chiến lược. Theo SBS, sau khi tiến hành nghiên cứu, thăm dò thị trường
về khả năng góp vốn đầu tư vào Công ty, HĐQT Công ty nhận thấy, việc huy động vốn
bằng cách phát hành riêng lẻ là khả thi trong thời điểm hiện tại. Nhiều ý kiến cho rằng,
không ai khác ngoài Sacombank (STB) sẽ đứng ra mua hết số cổ phần này.
CTCK Sacombank (SBS) phát hành ít nhất 10 triệu cổ phiếu hạn chế
chuyển nhượng trong 1 năm, giá bán tối thiểu bằng mệnh giá cho các NĐT chiến lược.
Cuối tháng 8, CTCP Công nghiệp Khoáng sản Bình Thuận (KSA) thực hiện việc phát
hành riêng lẻ hơn 12 triệu cổ phiếu cho 3 đối tác chiến lược là Wanji Holding Group
Co. Ltd, Chengde Tianfu Titamium Co., Ltd và CTCP Đầu tư Đại Á Châu.
Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng, những thương vụ trên chủ yếu được thực
hiện bởi các doanh nghiệp lớn và đều phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho các đối tác chiến
lược. Hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng diễn ra hết sức trầm lắng, kể cả đối
với các DN Nhà nước, các NHTM lớn,…..Thị trường cũng đã chứng kiến rất nhiều
cuộc thoái lui của các doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu, mặc dù đã có sự chuẩn
bị rất kỹ càng.
Bên cạnh đó, trước áp lực về vấn đề nợ xấu quá cao và nguy cơ bị thâu tóm,
sáp nhập, nội dung "tăng vốn điều lệ" xuất hiện trong tờ trình Đại hội cổ đông thường
niên năm 2015 của hầu hết các ngân hàng. Không chỉ các NH chọn thời điểm năm nay
như Vietinbank, ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, Maritime Bank, mà còn
có các NH tiếp tục thực hiện kế hoạch từ năm ngoái do khó khăn của thị trường như
DongABank, TrustBank,…Chính vì vậy, dự kiến thị trường cổ phiếu cuối năm sẽ tràn
ngập cổ phiếu của các ngân hàng (Chủ yếu là phát hành cho cổ đông chiến lược).
3.2 Chào bán chứng khoán ra công chúng
- Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO)
11



Đến thời điểm gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt hầu hết các
phương án sắp xếp, đổi mới DNNN tại các bộ, địa phương. Theo đó, hiện cả nước còn
1.309 DN 100% vốn nhà nước, có 692 DN được Nhà nước giữ 100% vốn, còn lại sẽ
thực hiện cổ phần hóa…
Theo vị lãnh đạo Vụ Đổi mới DN, trên cơ sở các phương án đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, các bộ, địa phương đang tiến hành sắp xếp, cổ phần hóa
các DN. Tuy nhiên, ngoài yếu tố khách quan là diễn biến vĩ mô, TTCK không thuận
lợi cho việc triển khai các đợt chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO), thì
những đặc thù của giai đoạn cổ phần hóa này cũng đang làm chậm tiến trình chuyển
đổi sở hữu các DNNN.
Trong số DN thuộc diện cổ phần hóa còn lại, nhiều DN có quy mô vốn
lớn, cơ cấu tài sản, đặc biệt là trụ sở, đất đai, công nợ… phức tạp, nên khó hoàn tất xác
định giá trị DN trong thời gian ngắn.
Như thông lệ hàng năm, quý I là thời điểm các bộ, địa phương tập trung
chỉ đạo DN hoàn tất khâu xác định giá trị DN. Quá trình này đang diễn ra khẩn trương,
nhưng do đây là các khâu chuẩn bị cho việc chốt phương án cổ phần hóa, nên chưa
được các bộ, địa phương công bố. Điều này phần nào giải thích tại sao thị trường và
NĐT cảm nhận quá trình cổ phần hóa từ đầu năm đến nay diễn ra trầm lắng. “Với
nhiều DN đã cơ bản hoàn tất khâu xác định giá trị DN và chuẩn bị công bố, nếu bối
cảnh vĩ mô cũng như TTCK ủng hộ các đợt IPO, thì nhiều khả năng bắt đầu từ quý
III/2012 sẽ diễn ra nhiều đợt IPO. Qua đó, làm nóng trở lại tiến trình cổ phần hóa vốn
bị chậm trễ trong suốt thời gian qua…”, vị lãnh đạo Vụ Đổi mới DN nhận định.
Tuy nhiên, trong khi sức nóng của tiến trình cổ phần hóa phần nhiều được
thị trường, NĐT đo lường bằng số lượng các đợt IPO, thì rõ ràng, các khâu “tiền” IPO
như xác định, công bố giá trị DN, đặc biệt là với các DN có quy mô lớn, hoạt động
hiệu quả và có tiềm năng phát triển bền vững… rất cần được các bộ, địa phương công
khai, để hỗ trợ NĐT trong và ngoài nước chủ động có định hướng đầu tư.
Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, nếu mọi thông tin được “nén” lại
và chỉ được công bố trước thời điểm tiến hành IPO, thì không chỉ khiến NĐT có cảm
giác tiến trình cổ phần hóa đang bị nguội, mà còn khiến họ bị động trong việc lên kế

hoạch tham gia IPO.
- Chào bán sơ cấp ( phân phối sơ cấp )
12


Hai năm vừa qua, thị trường đã chứng kiến rất nhiều đợt tăng vốn điều lệ
của các CtyNY trên cả hai sàn giao dịch Hồ Chí Minh và Hà Nội dưới các hình thức
thưởng cổ phiếu, trả cổ tức bằng cổ phiếu, bán cổ phiếu phát hành thêm cho cổ đông
hiện hữu, đối tác chiến lược (chào bán riêng lẻ), bán đấu giá cổ phiếu phát hành thêm
ra công chúng. Các CtyNY phần lớn không gặp khó khăn khi làm thủ tục xin phép
tăng vốn và các đợt phát hành thêm cổ phiếu hầu hết là thành công. Lý giải cho việc
phát hành thêm cổ phiếu thuận lợi như vậy là do giá bán thấp hơn nhiều so với giá thị
trường hiện hành ở trên sàn giao dịch (giá bán chủ yếu dao động từ 10.000 đến 80.000
đồng một cổ phiếu).
Trong thời điểm này, các nhà đầu tư đã tỏ ra hào hứng vì được mua với giá
thấp và họ kỳ vọng sau khi giá cổ phiếu bị điều chỉnh do phát hành thêm cổ phiếu sẽ
sớm tăng trở lại. Ngoài ra, yếu tố cơ bản nhất dẫn đến việc phát hành thành công là do
nhu cầu về vốn chính đáng của các doanh nghiệp niêm yết để thực hiện các dự án mới
và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Dựa trên kế hoạch doanh thu và lợi nhuận
đặt ra, các CtyNY đã thuyết phục được các cổ đông của mình góp thêm vốn để tài trợ
cho các kế hoạch kinh doanh. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào việc đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn phát hành thêm dựa trên tiêu chí so sánh tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau
thuế và tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu, chúng ta mới thấy rằng không ít Cty niêm
yết chưa hoặc chưa thể phát huy ngay hiệu quả sử dụng các nguồn vốn mới do cổ đông
đóng góp cho dù đó là do các nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan.
Công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam sẽ phát hành thêm 250 triệu cổ
phiếu, trong đó có 125 triệu cổ phiếu là trả cổ tức. Đáng chú ý là 125 triệu cổ phiếu
bán cho cổ đông bằng mệnh giá. Ngoài ra, 12.5 triệu cổ phiếu được bán cho người lao
động và 100 triệu cổ phiếu bán cho đối tác chiến lược tối thiểu là 12.000 đồng/cổ
phiếu. Kế hoạch phát hành này đã được bàn tại đại hội đồng cổ đông hồi tháng 4 vừa

qua và khi đó giá cổ phiếu PVX lúc đó còn loanh quanh 14.000 đồng nhưng cũng vấp
phải sự phản ứng tại đại hội khi đại diện 6.62% vốn phản đối kế hoạch tăng vốn cũng
đã tương đương trên 11 triệu cổ phần. Cuối tháng 11, khi thông tin giấy phép phát
hành thêm được công bố, giá PVX đóng cửa ở mức 9.400 đồng/cổ phiếu và ngày cuối
tuần (9-12) đã rơi xuống mức 8.700 đồng/cổ phiếu. Nhiều ý kiến cho rằng công ty
niêm yết phát hành thêm, tăng vốn để đầu tư cho sản xuất là điều tất yếu và không phải
là không thành công. Tuy nhiên khi phát hành công ty niêm yết cũng cần chú ý tới hiệu
13


quả sử dụng vốn và thời điểm phát hành. Đây cũng là một biểu hiện của việc coi trọng
cổ đông.

14


KẾT LUẬN
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một trong những chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm từng bước hoàn chỉnh hệ thống kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên để xây dựng thị trường chứng khoán hoạt
động có hiệu quả, ổn định bền vững thì công tác tạo hàng và cung cấp hàng hóa có
chất lượng cao cho thị trường vẫn là biện pháp phát triển thị trường lâu dài, tạo dựng
lòng tin cho nhà đầu tư, thu hút thêm sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức đầu tư
nước ngoài, mở rộng quy mô thị trường. Vì vậy việc đẩy mạnh niêm yết chứng khoán
vẫn là một trong những biện pháp quan trọng, lâu dài tạo nguồn cung dồi dào và có
chất lượng cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Tất nhiên việc đẩy mạnh
chứng khoán là cả một quá trình, không thể làm ngày một, ngày hai là xong. Tuy còn
nhiều trở ngại và khó khăn nhưng với quyết tâm phát triển kinh tế xã hội thì việc đưa
thị trường chứng khoán lên tầm cao mới , việc vận động các doanh nghiệp lên sàn
niêm yết không còn là khó khăn, nó còn là mục đích mà các doanh nghiệp hướng tới.


15



×