Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập học kỳ môn Luật Thương mại 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.77 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì Tòa án đóng
vai trò quan trọng đối với hoạt động trọng tài thông qua việc hỗ trợ và giám
sát hoạt động trọng tài như chỉ định trọng tài viên (đối với trọng tài vụ việc),
giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của trọng tài, hỗ trợ áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ triệu tập nhân chứng và thu thập chứng cứ, đăng ký
phán quyết trọng tài (đối với trọng tài vụ việc), xem xét hủy phán quyết trọng
tài... Trọng tài không thể tồn tại và hoạt động hiệu quả nếu thiếu sự trợ giúp
kịp thời của Tòa án. Để đi sâu vào phân tích vấn đề trên, trong bài tập lớn học
kỳ, em xin lựa chọn đề bài số 8: “Phân tích 4 (bốn) quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của
trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định đó”.
NỘI DUNG CHÍNH
I.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.Khái quát chung về trọng tài thương mại
Theo khoản 1 điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “ Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này”.Như vậy ta có thể hiểu Trọng tài
thương mại là hình thức tài phán mà quyền lực của nó được tạo nên bởi chính
các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại. Tôn trọng quyền tự định đoạt
của các đương sự, pháp luật quy định nguyên tắc loại trừ thẩm quyền của tòa
án khi các bên đã lựa chọn trọng tài.
2. Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng
tài thương mại
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán
phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên


tranh chấp giao phó, ủy nhiệm do đó trọng tài không mang trong mình quyền
lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài không mang
tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước mà đại diện
2


cho ý chí của các bên tranh chấp. Điều này đã đặt ra cho TTTM những khó
khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp
trong quá trình tố tụng cũng như việc thi hành phán quyết trọng tài. Khi
những khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự
giúp đỡ của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Vì vậy sự hỗ trợ của Tòa án
có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động trọng tài, để trọng
tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao phó.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt
Nam: Các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam ngày
một nhiều hơn và đa dạng về chủng loại, phức tạp về tính chất. Chính sự hỗ
trợ đó sẽ làm cho hoạt động trọng tài được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước, đồng thời không làm mất đi ưu thế của hình thức giải quyết
tranh chấp tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các đương sự.
Thứ ba, xuất phát từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa kinh tế:
Cùng với sự phát triển sôi động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại được đưa đến Tòa kinh tế ngày
càng nhiều, đã tạo ra tình trạng "quá tải", án tồn đọng tại các Tòa kinh tế, đặc
biệt là ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động trọng tài:
Nhà nước nói chung và các cơ quan Nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản
lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà
nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã
thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra
hành lang pháp lý cho hoạt động của trọng tài.

Như vậy mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và Trọng tài là mối quan
hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Toà án mà trọng tài
tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách có
hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ
trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của TTTM là một sự tiếp
3


sức cho TTTM, thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá
phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các
chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá
trình thực hiện giao dịnh thương mại.
II.SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI THÔNG QUA BA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Theo quy định tại Điều 7 Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM) thì các
loại việc có liên quan đến hoạt động trọng tài mà Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ
là:
“a) Chỉ định Trọng tài viên để thành lập Trọng tài vụ việc.
b) Thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc.
c) Yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
d) Yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
đ) Yêu cầu Tòa án triệu tập người làm chứng.
e) Khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, hoặc không thể thực hiện được, và về thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài.
f) Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc.”
Trong 07 loại việc nêu trên thì các loại việc từ điểm a đến điểm đ và
loại việc đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thể hiện rõ vai trò hỗ trợ của
Tòa án, hai loại việc còn lại quy định tại điểm e và f thể hiện sự “giám sát”

của Tòa án đối với hoạt động trọng tài. Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 7
Luật TTTM thì chỉ có TAND cấp tỉnh mới có thẩm quyền thụ lý, giải quyết
đối với các loại việc liên quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam.
1.Về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên
a,Về việc chỉ định trọng tài viên để thành lập hội đồng trọng tài vụ việc
Đối với trường hợp tranh chấp được đưa ra một trung tâm trọng tài để
giải quyết thì việc chỉ định Trọng tài viên, Chủ tịch Hội đồng trọng tài hoặc
4


Trọng tài viên duy nhất do các bên thỏa thuận hoặc do Chủ tịch Trung tâm
trọng tài quyết định. Tuy nhiên, khi các bên thỏa thuận áp dụng hình thức
trọng tài vụ việc để giải quyết tranh chấp thì Tòa án sẽ có thẩm quyền chỉ định
Trọng tài viên, Chủ tịch Hội đồng trọng tài hoặc Trọng tài viên duy nhất nếu
các bên không thỏa thuận được. Tại khoản 1 Điều 41 Luật TTTM về thành lập
Hội đồng trọng tài vụ việc có quy định: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài
viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời
hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà
mình chọn và các bên không có thoả thuận khác về việc chỉ định Trọng tài
viên, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng
tài viên cho bị đơn”. Quy định này nhằm tránh tình trạng bị đơn cố tình dây
dưa, gây khó khăn cho việc giải quyết.
Đối với trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì nếu sau 30 ngày,
phía bị đơn không chọn được Trọng tài viên, thì một hoặc các bên có quyền
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn. Đây là
quy định mới của Luật TTTM 2010. Trong khi Pháp lệnh TTTM 2003 chỉ quy
định nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án chỉ định Trọng tài viên thì Luật
TTTM 2010 lại cho phép cả bên nguyên đơn và bị đơn đều có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết. Bởi vì trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn,

theo quy định của Luật TTTM 2010, “các bị đơn phải thống nhất chọn Trọng
tài viên”, điều này không phải lúc nào cũng thực hiện được do các bị đơn có
thể có những quan điểm và ý kiến khác nhau về việc chọn Trọng tài viên. Nếu
các bị đơn không thống nhất được việc chọn Trọng tài viên, họ có thể yêu cầu
Tòa án hỗ trợ trong việc chỉ định Trọng tài viên cho vụ tranh chấp.
Tại khoản 3 và khoản 4 Điều 41 về thành lập Trọng tài vụ việc cũng có
quy định về việc Tòa án có thẩm quyền có thể hỗ trợ các bên trong việc chỉ
định Chủ tịch Hội đồng trọng tài (khoản 3 Điều 41) hoặc chỉ định Trọng tài

5


viên duy nhất trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do một trọng
tài viên duy nhất giải quyết (khoản 4 Điều này).
Những quy định của Luật TTTM 2010 về sự hỗ trợ của Tòa án đối với
việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc nhằm tránh bế tắc trong tố tụng
trọng tài, đồng thời đảm bảo vụ tranh chấp sẽ được trọng tài giải quyết. Bởi vì
nếu Hội đồng trọng tài không thể thành lập được thì quá trình tố tụng trọng tài
sẽ dừng lại và vụ tranh chấp sẽ không thể tiếp tục được giải quyết bằng con
đường trọng tài thương mại. Do đó, sự hỗ trợ của Tòa án là hết sức cần thiết.
b,Về việc thay đổi trọng tài viên
Tương tự như đối với việc thành lập Hội đồng trọng tài, Tòa án chỉ có
thẩm quyền thay đổi Trọng tài viên trong trường hợp vụ tranh chấp do Hội
đồng trọng tài vụ việc giải quyết. Tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM có quy
định: “Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc
thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài
quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài
không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy
nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc

các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm
phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên”. Theo đó, nếu các thành viên
còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài
viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp thì Tòa án sẽ có
thẩm quyền về việc thay đổi Trọng tài viên. Theo quy định này, nếu nhận
được yêu cầu của ít nhất một Trọng tài viên, của một hoặc các bên tranh chấp,
Tòa án cũng có thể phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi
Trọng tài viên.
Bên cạnh đó, Luật TTTM 2010 còn có quy định tại khoản 4 Điều 43
đối với trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia
giải quyết tranh chấp: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc
6


lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh
chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên
không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa
chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có
quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo đó, Tòa án cũng có thể hỗ trợ
trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia
giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
2.Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời:
Theo quy định của Luật TTTM 2010, các bên có quyền yêu cầu Hội
đồng trọng tài hoặc Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tùy theo
sự thỏa thuận giữa các bên. Khoản 1 Điều 49 Luật TTTM 2010 quy định như
sau: “Theo yêu cầu của một trong các bên, Hội đồng trọng tài có thể áp dụng
một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp”.
Theo đó, Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời khi có một hoặc các bên đương sự yêu cầu. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Hội
đồng trọng tài chỉ có quyền ra quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp

tạm thời được liệt kê tại Điều 49 của Luật TTTM và Hội đồng trọng tài chỉ có
thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi Hội đồng trọng
tài đã thành lập. Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật TTTM 2010, những
biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài bao
gồm:
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
- Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số
hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá
trình tố tụng trọng tài;
- Kê biên tài sản đang tranh chấp;
- Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp;
- Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
7


- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
Các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án
thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Luật TTTM: “Sau khi nộp đơn
khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy
cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm
quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Các
biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện được quy
định tại Điều 102 Bộ Luật tố tụng dân sự. Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ
quan có thẩm quyền. Luật TTTM đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm
quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa Hội đồng trọng tài và Tòa án
nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên
tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tại khoản 3 Điều 49 Luật TTTM có quy định: “Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc
một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó
lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và khoản 5 Điều 53 Luật này lại có quy
định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu
cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời
mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa
án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”.
Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu Hội đồng trọng tài đã áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không
thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối. Do đó, với quy định tại
khoản 5 Điều 53, Luật TTTM đã nâng cao vai trò của Hội đồng trọng tài
8


trong việc áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đối với
hoạt động này, Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên đã
có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện
pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
3. Tòa án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập người làm
chứng có liên quan đến vụ tranh chấp:
a,Về việc thu thập chứng cứ
Theo quy định tại Điều 46 Luật TTTM 2010, các bên có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ có liên quan đến vụ tranh chấp cho Hội đồng
trọng tài, nhằm chứng minh một số vụ việc trong tranh chấp thương mại giữa
các bên. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, Hội đồng trọng tài có quyền yêu
cầu người làm chứng cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc giải

quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc
các bên, có quyền trưng cầu giám định, định giá tài sản trong vụ tranh chấp để
làm căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, là một tổ chức phi
chính phủ, Trọng tài không có quyền bắt buộc các tổ chức, cá nhân có liên
quan đến vụ việc phải cung cấp những bằng chứng mà họ biết. Do đó, Luật
TTTM đã có quy định về sự hỗ trợ của Tòa án trong việc yêu cầu cung cấp
chứng cứ tại khoản 5 Điều 46 như sau: “Trong trường hợp Hội đồng trọng tài,
một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà
vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có
thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp”.. Do
vậy, quy định về sự hỗ trợ của Tòa án trong việc yêu cầu cung cấp chứng cứ
là một điểm hợp lý và cần thiết của Luật TTTM 2010.
b,Tòa án quyết định triệu tập người làm chứng:
Theo quy định tại Điều 47, Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người
làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong trường
hợp người làm chứng không đến họp nhưng không có lý do chính đáng và
9


việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp thì theo
khoản 2 Điều 47 Luật này, Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có
thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của Hội
đồng trọng tài. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn
bản đề nghị triệu tập người làm chứng của Hội đồng trọng tài, Chánh án Tòa
án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu triệu
tập người làm chứng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân
công, Thẩm phán phải ra quyết định triệu tập người làm chứng. Người làm
chứng có nghĩa vụ nghiêm chỉnh thi hành quyết định của Tòa án.
Thông qua sự hỗ trợ của Tòa án, việc triệu tập người làm chứng của

Hội đồng trọng tài được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế thi hành của
Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp.
4. Tòa án quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài:
Khoản 1 Điều 68 Luật TTTM 2010 quy định: “Tòa án xem xét việc hủy
phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”. Quy định này nhằm
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ tiện của Trọng tài
viên, pháp luật quy định sau khi vụ tranh chấp được giải quyết bởi Trọng tài,
nếu một bên không đồng ý sẽ có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem
xét việc huỷ quyết định đó. Quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật TTTM 2010
như sau: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài,
nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra
phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy
theo khoản 2 Điều 68 Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm
quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài”. Quyền yêu cầu Tòa án huỷ phán
quyết trọng tài của các bên tranh chấp chỉ phát sinh nếu một bên có đủ căn cứ
để chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những
trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy.
Khi có yêu cầu của một bên tranh chấp, Toà án nơi Hội đồng trọng tài
đã ra phán quyết có thẩm quyền xem xét để huỷ phán quyết trọng tài, nếu
10


phán quyết trọng tài thuộc các trường hợp bị hủy theo Điều 68 Luật này. Theo
khoản 2 Điều 68, phán quyết trọng tài bị hủy trong các trường hợp sau:
- Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
- Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù
hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài;
trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;

- Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó
để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công
bằng của phán quyết trọng tài;
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Chánh án Toà án
chỉ định một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó có một
Thẩm phán làm chủ tọa theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày được chỉ định, Hội đồng xét đơn yêu cầu phải mở
phiên họp để xét đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Khi xét đơn yêu cầu,
Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này
và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định. Hội đồng xét đơn yêu cầu có
quyền ra quyết định huỷ hoặc không huỷ phán quyết trọng tài.
Khi giải quyết Toà án không xét xử lại việc tranh chấp bởi Toà án
không phải là cấp xét xử thứ hai của Trọng tài đồng thời cũng không có quyền
kết luận đúng sai về nội dung phán quyết của Trọng tài đối với vấn đề xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp mà chỉ có quyền xem
xét căn cứ để ra quyết định huỷ bỏ hoặc giữ nguyên quyết định trọng tài. Theo
khoản 8 Điều 71 Luật TTTM, trường hợp quyết định trọng tài bị huỷ bỏ thì có
nghĩa tranh chấp chưa được giải quyết và các bên có thể thỏa thuận lại để đưa
11


vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện
tại Tòa án. Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết trọng
tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.
Bên cạnh đó, Luật TTTM 2010 cũng có quy định giúp cho Hội đồng
trọng tài có thời gian khắc phục sai sót, nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán
quyết trọng tài. Quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM 2010 như sau:

“Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có
thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài
khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài
nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải
thông báo cho Tòa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng”. Trong trường
hợp Hội đồng trọng tài không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Hội đồng
tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN
SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT
Thực tiễn áp dụng bốn quy định trên của Luật TTTM trong gần sáu năm
qua, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ hơn so với các văn bản pháp
luật trước đó, đặc biệt là so với Pháp lệnh TTTM 2003, nhưng một số quy
định của Luật này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Đặc biệt, một trong những
bất cập có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống trọng tài Việt Nam là cơ chế hỗ
trợ của Toà án đối với trọng tài trong ba quy định như đã phân tích ở trên vẫn
chưa thực sự hiệu quả, cụ thể như sau:
1. Về quy định Tòa án xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài:
Cần quy định về thời hạn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền quyết định thay
đổi Trọng tài viên của trọng tài vụ việc. Theo quy định tại khoản 4 Điều 42
12


Luật TTTM, các Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài từ chối giải quyết
tranh chấp hoặc các bên tranh chấp là những chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định thời hạn Tòa án
phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên (là 15

ngày, kể từ ngày có đơn yêu cầu) mà không có quy định về thời hạn nộp đơn
yêu cầu của các chủ thể nói trên. Điều này, đôi khi làm kéo dài thời gian giải
quyết tranh chấp hoặc nếu các chủ thể có quyền yêu cầu không nộp đơn yêu
cầu đến Tòa án thì đương nhiên Tòa án không có thẩm quyền trong việc thay
đổi Trọng tài viên, dẫn đến việc không có Trọng tài viên thay thế. Theo cá
nhân em, nên quy định thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu
đến Tòa án có thẩm quyền, kể từ ngày Trọng tài viên thông báo bằng văn bản
cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những tình tiết
có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình (khoản 2 Điều 42 Luật
này). Điều này nhằm giúp cho việc thay đổi Trọng tài viên diễn ra nhanh
chóng và kịp thời.
Bởi trong thực tế nhiều khi một bên tranh chấp có ý định trốn tránh trách
nhiệm nên không muốn tham gia tố tụng trọng tài.Đặc biệt là trong hình thức
trọng tài vụ việc, các bên sẽ tự do tiến hành thành lập Hội đồng trọng tài theo
ý chí của mình nên họ có thể gặp khó khăn lớn nếu một bên (thường là bị
đơn) không muốn tham gia vào trọng tài khi tranh chấp phát sinh. Do đó họ
không đáp lại yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài của bên kia, sau đó họ lại
tìm cách trì hoãn tố tụng bẳng cách yêu cầu thay đổi trọng tài viên. Quy định
cụ thể về thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án
có thẩm quyền sẽ hạn chế được tình trạng này.
2. Về việc tòa án quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời:
Luật cũng đã cho phép các bên yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì tất nhiên sẽ có những trường hợp thì Tòa án tích cực hợp tác,
ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi trọng tài có yêu cầu
nhưng cũng sẽ có trường hợp Toà án đùn đẩy trách nhiệm lại cho HĐTT với lí
13


do bản thân HĐTT cũng có quyền ra quyết định thực hiện các biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Hoặc ngược lại, cũng lại có trường hợp các bên Toà án và

HĐTT "tranh nhau" ra quyết định thực hiện với yêu cầu của 2 bên đương sự,
khi mà theo như sự quy định của pháp luật thì bên nào nhận việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trước thì bên đó sẽ thực hiện, bên kia không có quyền
thực hiện nữa để tránh chồng chéo, trên thực tế trong một số trường hợp, có
thể sẽ có lợi hơn cho nguyên đơn, nếu sau khi khởi kiện tại trung tâm trọng tài
và yêu cầu Tòa án ra các lệnh Tòa cho áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
theo quy định của Điều 53 LTTTM 2010, bởi như thế người yêu cầu sẽ có
một vài lợi thế (không phải mất thời gian chờ thành lập HĐTT, Tòa án và hệ
thống thi hành giúp việc thực thi biện pháp liên thông hơn…), mà lợi thế của
bên này lại là rào cản của bên kia, nên khó tránh tình trạng mỗi bên yêu cầu 1
cơ quan giải quyết, gây ra tình trạng "tranh nhau" thực hiện dù có thể không
thực sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Đồng thời, Luật TTTM cũng đã trao quyền cho Hội đồng trọng tài được
quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luật đã trao quyền nhưng lại
không quy định việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời; quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định bổ sung
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như quyết định hủy bỏ áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài. Hơn nữa, tuy luật
cho phép Hội đồng trọng tài được quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời, nhưng về bản chất Hội đồng trọng tài không phải là cơ quan quyền lực
nhà nước, nên chắc chắn rằng việc áp dụng các biện pháp đó trên thực tế gặp
nhiều khó khăn là điều không thể tránh khỏi.
3. Về việc Tòa án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập người
làm chứng có liên quan đến vụ tranh chấp
Dù Luật TTTM được đánh giá cao trong xây dựng cơ chế hỗ trợ của Tòa
án đối với Hội đồng trọng tài trong quá trình làm việc, nhưng vẫn còn tồn tại
cần được khắc phục, đó là, Luật TTTM chưa quy định biện pháp chế tài xử lý
14



đối với cá nhân không chấp hành quyết định của Tòa án trong việc thu thập
chứng cứ và triệu tập người làm chứng. Hai hoạt động này là sự hỗ trợ đáng
kể của Tòa án đối với Hội đồng trọng tài, vì nếu không có sực giúp sức của cơ
quan công quyền này, Hội đồng trọng tài khó có thể thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ là văn bản
gửi các cá nhân, tổ chức có liên quan mà chưa có chế tài rõ ràng đối với cá
nhân, tổ chức không thực hiện yêu cầu của Tòa án. Trong BLTTDS cũng
không quy định về vấn đề này, mà chỉ quy định “Thủ tục giải quyết yêu cầu
liên quan đến hoạt động TTTM Việt Nam”. Đây thật sự là bất cập khiến cho
việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài gặp khó khăn do bị trì
hoãn.
4. Về việc tòa án quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài:
Theo thông tin của Bộ tư pháp, hiện nay nước ta có 14 Trung tâm trọng tài
với khoảng 445 trọng tài viên. Từ năm 2011 đến tháng 6/2015, các Trung tâm
trọng tài đã thụ lý 879 vụ việc và ban hành 586 phán quyết trọng tài, trong đó
180 phán quyết đã được thi hành xong với số tiền là 3.612.000 USD và 300 tỉ
đồng. Trong giai đoạn 2003 - 2010, số vụ tranh chấp có đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài chiếm 12% (trong số đó 34% bị hủy). Khi Luật trọng tài
thương mại có hiệu lực từ 1/1/2011 đến nay, có tới 36% số phán quyết trọng
tài bị hủy.
Đặc biệt, khi pháp luật hiện hành lại không quy định cơ chế giám sát đối
với hoạt động hủy PQTT của tòa án, sự tùy tiện khi ban hành các quyết định
hủy PQTT của tòa án là không thể tránh khỏi. Điều này đặt hoạt động trọng
tài vào tình trạng bị động. Không những thế, việc tòa án tuyên hủy PQTT
trong nước khiến hoạt động trọng tài bị giảm uy tín và hiệu quả, làm môi
trường kinh doanh, đầu tư của Việt Nam kém hấp dẫn hơn. Khi PQTT bị hủy,
theo quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật TTTM 2010, một bên có quyền khởi
kiện vụ án ra trước tòa án. Lúc này, tình trạng quá tải của hệ thống tòa án vốn
đã nghiêm trọng nay lại càng nghiêm trọng hơn. Hơn nữa, quy định của pháp
15



luật hiện hành về vấn đề quyết định của tòa án về việc hủy PQTT có được
giám đốc thẩm, tái thẩm hay không vẫn chưa được rõ ràng, minh bạch. Điều
này làm cho các thẩm phán lúng túng khi có nhiều trường hợp sau khi quyết
định hủy phán quyết được ban hành, bên thắng trong tố tụng trọng tài khiếu
kiện quyết định hủy đó.
KẾT LUẬN
Có thể nói, việc LTTTM 2010 quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với
hoạt động của TTTM đã góp phần hạn chế được những nhược điểm của
TTTM, giúp hoạt động của TTTM được thực hiện nhanh chóng hơn, các phán
quyết của TTTM được thực hiện chính xác, hạn chế được các trường hợp oan
sai, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Tuy rằng còn một
số hạn chế thiếu sót nhất định trong thực thi cũng như trong quy định của
pháp luật còn cần phải hoàn thiện hơn, nhưng nhìn chung, với các quy định
nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp bằng
TTTM, LTTTM 2010 đã góp phần làm cho hoạt động TTTM hiệu quả hơn,
thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp, khuyến khích việc giải quyết tranh
chấp thông qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà
án.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn
Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006;
2. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nxb. Giáo
dục, 2008;
3. Nguyễn Thị Khế (chủ biên), Luật thương mại và giải quyết tranh chấp

thương mại, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2007;
4. Vũ Thanh Minh, Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương
mại và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Khóa luận tốt
nghiệp 2008;
5. ThS. Bạch Thị Lệ Thoa, Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ
trợ của Tòa án,Tạp chí nghiên cứu lập pháp;
6. Nguyễn Thị Yến, Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của
trọng tài thương mại, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2005.
7. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
8. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
9. Một số trang web:
/>.

17



×