Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

BÀI GIẢNG KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYÊN đề KINH tế TRI THỨC và PHÁT TRIỂN KINH tế TRI THỨC ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.36 KB, 47 trang )

CHUYÊN ĐỀ BỔ TRỢ
KINH TẾ TRI THỨC VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
1. Mục đích:
Trang bị cho người học những hiểu biết chung nhất về kinh tế tri thức và sự
vận dụng của VN trong quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức.
2. Yêu cầu:
- Cần nắm vững những lý luận chung về CNH,HĐH của kinh tế chính trị
Mác - Lênin và sự vận dụng của ĐCSVN vào hoạch định đường lối phát triển
kinh tế - xã hội nước ta làm cơ sở cho nhận thức kinh tế tri thức.
3. Nội dung: Gồm 2 nội dung lớn
I. Những vấn đề chung về kinh tế tri thức
II. Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
4. Phương pháp
- Đi sâu trình bày những vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức và sự vận dụng
của Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH kết hợp với gợi mở nêu vấn
đề để các đồng chí tự nghiên cứu, liên hệ vận dụng vào thực tiễn.
- Kết hợp sự hỗ trợ của phương tiện trình chiếu với thuyết trình, phân tích
diễn giải của giáo viên.
5. Thời gian: 6 tiết
6. Tài liệu tham khảo
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (Năm 1991 và bổ
sung phát triển 2011).
2. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 (Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thư IX, XI, Nxb CTQG, H, 2001, 2011).


3. Văn kiện Hội nghị lần thứ VII, BCHTW Khóa VII, Nxb CTQG, HN,
1994.


4. Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến XI và một số Nghị
quyết chuyên đề như Nghị quyết TW 2 Khóa VIII, TW 5, TW 6, TW 9 Khóa IX.
5. Giáo trình KTCT Mác – Lênin, Tập II, Nxb QDND, HN, 1995, Chương
XVIII.
6. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác – Lênin, Nxb CTQG, HN, 1999,
2008, 2009, Chương XIX.
7. Đặng Hữu, “Báo cáo đề dẫn kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của
VN”, trong “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với VN”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học, Ban khoa giáo Trung ương, Bộ KH CNMT, Bộ Ngoại giao, Hà
Nôi 21, 22?6/2000.
8. Hội đồng Lý luận Trung ương, “Những vấn đề và thực tiễn mới đặt ra
trong tình hình hiện nay”, Nxb CTQG, HN, 2011.
9. “Một số vấn đề về kinh tế tri thức”, Thông tin chuyên đề, Phòng
KHCNMT, HVCTQS, 2001.
I. Những vấn đề chung về kinh tế tri thức
1. Khái niệm kinh tế tri thức
* Về thuật ngữ tên gọi “Kinh tế tri thức”
- Do sự phát triển như vũ bão của cuộc CM KH - CN hiện đại vào những
thập niên cuối của thế kỷ XX, một hiện tượng kinh tế mới trên thế giới xuất
hiện, giải thích hiện tượng đó dưới các góc độ tiếp cận khác nhau người ta dùng
nhiều thuật ngữ với những tên gọi:
+ Kinh tế thông tin (Information economy)
+ Kinh tế số hóa (Digital economy)
+ Kinh tế mạng (Net work economy)
+ Kinh tế học hỏi (Learning economy)
+ Kinh tế dựa vào tri thức ( Knowledge based economy)
+ Kinh tế tri thức (Knowledge economy).


Những thuật ngữ trên là các cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu kinh tế

tri thức và thuật ngữ kinh tế tri thức được dùng phổ biến hơn.
* Sự xuất hiện của thuật ngữ kinh tế tri thức
- Ngay từ rất sớm KTTT ở dạng phôi thai đã được đề cập tới, năm 1962 nhà
khoa học Mỹ là Fritz Marklup cho ra đời cuốn sách “Sản xuất và phân phối kiến
thức ở Mỹ”. Lần đầu tiên ông đưa ra khái niệm “Công nghiệp tri thức”. Theo đó
CN tri thức là công nghiệp sản xuất, phân phối tri thức, dưới các dạng:
+ Sản phẩm nghiên cứu khoa học;
+ Giáo dục, đào tạo;
+ Thông tin;
Ông còn nêu khái niệm “Ngành trí tuệ” và đem các vấn đề như nghiên cứu,
mở mang giáo dục, thông tin môi giới, thiết bị và dịch vụ tin học vào nội dung
của ngành trí tuệ.
- Sau đó, khái niệm ngành tin học và các thuật ngữ: Kinh tế thông tin, kinh
tế học hỏi, kinh tế số hóa...lần lượt ra đời. Người đưa ra thuật ngữ này là
Đainien Ben (Đaniel Bell), sau được nhiều tác giả bổ sung, làm phong phú thêm.
- Nhưng theo từ điểm mạng Wikipedia, KTTT lần đầu tiên được đưa ra là
do nhà kinh tế học Hoa Kỳ, giải thưởng Nobel, P.F.Drucker viết trong cuốn sách
của mình vào năm 1969.
Cùng với việc xuất hiện nền kinh tế mới phủ định nền kinh tế công nghiệp
TBCN, nhà tương lai học Alvin Toffler đã gọi đó là “Làn sóng thứ ba” tràn lên
làn sóng thứ hai là “kinh tế công nghiệp cổ điển” (Alvin Tofler chia sự phát triển
xã hội loài người thành: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn
minh trí tuệ).
- Ban đầu thường có sự hiểu nhầm về kinh tế tri thức, vì cho rằng tri thức là
vô hình nên kinh tế tri thức chỉ là cái gì đó ảo tưởng, không thiết thực với cuộc
sống thực tế như danh từ “kinh tế” vốn có.
- Thật ra trong kinh tế tri thức người ta có nhiều hơn, phong phú hơn, mới
lạ hơn các SP vật chất hữu hình, rất cần cho mọi mặt của cuộc sống.



- Xét cho cùng tri thức là sản phẩm cuả LĐ, người ta thường tùy theo nhu
cầu và năng lực nhận thức mà đưa ra những cách phân loại tri thức khác nhau.Ví
dụ, Đưa chữ “W” của tiếng Anh phân ra các loại tri thức về biết:
+ Biết cái gì? Know what? - Tri thức về sự vật;
+ Biết vì sao? Know why? - Tri thức về nguyên nhân;
+ Biết làm thế nào? Know how? - Tri thức về hành động;
+ Biết ai? Know who? - Tri thức về nhân thân;
+ Biết khi nào? Know when? - Tri thức về thời gian;
+ Biết nơi nào? Know where? Tri thức về vị trí.
* Quan niệm chung của thế giới về kinh tế tri thức
- Năm 1990, thuật ngữ kinh tế tri thức được xuất hiện đầu tiên trong một
báo cáo của một tổ chức quốc tế lớn là Liên Hợp Quốc.
- Năm 1996, trong báo cáo “Kinh tế dựa vào tri thức”, các nước thuộc Tổ
chức Hợp tác và Phát triển OECD đưa ra định nghĩa: “KTTT là những nền kinh
tế dựa trực tiếp vào việc SX, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin”.
- Năm 2000, các nước APEC đã có sự điều chỉnh lại và đưa ra khái niệm:
“KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là
động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong
tất cả các ngành kinh tế”.
- Viện Khoa học xã hội TQ đưa ra định nghĩa:
“Nền kinh tế dựa vào tri thức là một loại nền kinh tế được hình thành trên
cơ sở SX, phân phối, áp dụng và sử dụng tri thức và thông tin”.
- Một số học giả đưa ra quan niệm:
Giá trị (GT) của mỗi sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được tính bằng tiền,
gồm giá trị của hai thành tố:
+ Giá trị của vật liệu tạo ra sản phẩm (GTvl);
+ Giá trị công sức con người tạo ra sản phẩm (GTcs); giá trị công sức lại
bao gồm:
Giá trị lao động chân tay (GTct) và giá trị của công lao động trí tuệ (GTtt)



i, Có thể diễn đạt là: GT = GTvl + GTcs = GTvl + GTct + GTtt
ii, Nếu GTtt chiếm phần lớn của GT (GTtt > 50% GT) ta nói sản phẩm có
hàm lượng trí tuệ cao.
iii, Tương tự như trên, với một ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế
Tổng GT = Tổng GTvl + Tổng GTct + Tổng GTtt
Khi Tổng GTtt chiếm phần lớn trong tổng GT (> 50%) được gọi là ngành
hay nền kinh tế tri thức.
Như vậy, có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau về kinh tế tri thức,
nhưng tựu chung lại có thể phân loại một cách tương đối những cách hiểu khác
nhau đó về kinh tế tri thức dựa vào ba cách tiếp cận sau:
- Cách hiểu kinh tế tri thức dựa trên khía cạnh hẹp về tri thức
Có hai cách:
+ Thứ nhất: Hiểu "tri thức" với nghĩa hẹp, tức đồng nghĩa tri thức với
khoa học và công nghệ, hoặc đôi khi còn coi "tri thức" chủ yếu là cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trong đó 4 công nghệ trụ cột là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng
lượng mới (có người còn đề cập thêm công nghệ không gian vũ trụ). Cách hiểu
này khá phổ biến ở Mỹ cách đây khoảng 7, 8 năm thấy được qua các tài liệu của
Thượng nghị viện Mỹ (2000). Các nước như Ấn Độ, Philippin cũng đã có lúc
chấp nhận cách hiểu này.
+ Thứ hai: Cách tiếp cận ngành: Tách biệt nền kinh tế quốc dân thành hai
bộ phận là khu vực kinh tế tri thức và khu vực kinh tế cũ.
Theo quan niệm này khu vực kinh tế tri thức bao gồm các ngành được gọi
là các ngành dựa trên tri thức (theo phân loại của OECD). Hai khu vực kinh tế
này hoạt động với những cơ chế, qui luật và kết quả khác hẳn nhau. Nền kinh tế
tri thức phát triển tới trình độ càng cao khi các ngành kinh tế dựa trên tri thức
chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Có hai mốc cho thấy nền kinh tế đã chuyển
sang giai đoạn kinh tế tri thức:
Một là, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và nông nghiệp lên đến điểm cực đại



và ngày càng giảm đi. Điểm mốc này đã xuất hiện ở các nước tiên tiến nhất cách đây
30 năm.
Hai là, Tỷ trọng của các ngành dựa trên tri thức >70% (theo phân loại của
OECD 1996). Các ngành kinh tế tri thức đóng góp vào GDP ở Mỹ là 55%, ở Nhật là
53%, Canada là 51%, Singapo là 57,3%.
- Cách tiếp cận rộng
Tiếp cận này dựa trên cách hiểu: Tri thức là mọi sự hiểu biết của con
người đối với bản thân và thế giới. OECD đã phân ra 4 loại tri thức quan trọng
là biết cái gì, biết tại sao, biết như thế nào, biết ai. Kinh tế tri thức không chỉ có
nguồn gốc từ sự tiến bộ vượt bậc của các công nghệ mới mà là kết quả tập hợp
của ba nhóm nguyên nhân trực tiếp tác động tương tác lẫn nhau bao gồm tiến
bộ khoa học - kỹ thuật; nền kinh tế toàn cầu hoá và cạnh tranh quyết liệt; và các
biến đổi văn hoá, chính trị, tư tưởng của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Cách này cũng có hai nhánh tiếp cận tương tự nhau:
+ Thứ nhất, từ khía cạnh lực lượng sản xuất: Kinh tế tri thức là trình độ
phát triển cao của lực lượng sản xuất. Cách hiểu này nhấn mạnh kinh tế tri thức
chỉ là một nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất, không liên quan tới một
hình thái kinh tế - xã hội mới (xem các tài liệu của Đặng Hữu 2001 và Nguyễn
Cảnh Hồ, 2000).
+ Thứ hai, từ khía cạnh sự đóng góp của tri thức vào phát triển kinh tế.
Cách quan niệm này diễn giải định nghĩa của OECD đã nêu ở trên theo đúng
nghĩa đen của nó, tức là tri thức hay cụ thể hơn là những hoạt động sản xuất,
truyền bá và sử dụng tri thức, đã vượt qua vốn và lao động để trở thành nguồn
lực chi phối mọi hoạt động tạo ra của cải trong nền kinh tế tri thức. Trong đó tri
thức là một khái niệm rất rộng bao trùm mọi sự hiểu biết của con người.
- Cách tiếp cận bao trùm
Theo đó, người ta cho rằng, kinh tế tri thức thực chất là một loại môi
trường kinh tế - văn hoá - xã hội mới có những đặc tính phù hợp và tạo điều

kiện thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó,


tri thức tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự phát
triển kinh tế và hàm lượng tri thức được nâng cao trong mọi hoạt động kinh tế,
văn hoá, xã hội. Do vậy, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức,
không chỉ đơn thuần là phát triển khoa học - công nghệ mà là phát triển một
nền văn hoá đổi mới, sáng tạo thể hiện trong cách nghĩ, cách làm của mọi tác
nhân kinh tế, xã hội để tạo thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử
dụng mọi tri thức, mọi loại hiểu biết của loài người, cũng như xây dựng và phổ
biến các năng lực tri thức nội sinh.
Xét theo nghĩa này, kinh tế tri thức có thể được hiểu như một giai đoạn
phát triển mới của toàn bộ nền kinh tế, hoặc nói rộng hơn điều này sẽ dẫn tới
một giai đoạn phát triển mới của xã hội nói chung. Cách tiếp cận này ngày càng
dành được nhiều sự ủng hộ (xem các tài liệu của Ngân hàng thế giới 1998, Bộ
Công nghiệp, Giáo dục và Tài nguyên Australia, 1999, 2000)...
* Cách tiếp cận của Việt Nam về kinh tế tri thức
Ở Việt nam, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước vấn đề kinh tế tri thức
đã được giới các nhà khoa học, những người hoạch định chính sách, các nhà
quản lý đưa bàn luận khá nhiều. Kinh tế tri thức được nhìn nhận dưới nhiều góc
độ khác nhau, với những tầm mức và phạm vi khác nhau.
Trong nhiều cuộc hội thảo, hội nghị, người ta đã bàn đến không ít các
định nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức, tuy nhiên trong các văn bản chính thức
của Đảng và Nhà nước, chưa có văn bản nào nêu ra định nghĩa về kinh tế tri
thức. Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban Công nghệ thông tin thì
"Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống". Mặc dù vậy, trong số các định nghĩa về kinh tế tri thức
được bàn đến ở Việt Nam, dường như có một định nghĩa nổi lên và được nhiều
người công nhận - là định nghĩa của OECD và APEC nêu ra năm 2000, cho

rằng: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử
dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, việc


làm trong tất cả các ngành kinh tế". Như vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản
xuất của thế kỷ 21. Kinh tế tri thức là động lực chủ yếu nhất chứ không phải là
chỗ dựa trực tiếp. Điều này nhằm tránh tư tưởng cực đoan trước đây chỉ tập
trung phát triển các ngành công nghệ cao dựa nhiều vào tri thức.
Các định nghĩa trên đều chỉ ra được vấn đề cơ bản của KTTT là:
+ Dựa vào tri thức để phát triển.
+ Công nghệ là động lực cho phát triển kinh tế.
- Thống nhất nhận thức khi nghiên cứu về KTTT
+ KTTT là phạm trù kinh tế tổng hợp, phản ánh trình độ phát triển cao của
LLSX, ở đó các hoạt động kinh tế không chỉ dựa vào tri thức mà còn không
ngừng sáng tạo, sử dụng tối ưu tri thức và công nghệ mới.
+ Trong KTTT, tri thức ngày càng xâm nhập và gia tăng trong mỗi SP
hàng hóa, DV, trong mỗi ngành, lĩnh vực và trong toàn bộ nền kinh tế.
+ KTTT không phải là một PTSX, một HTKT - XH mới mà là kết quả của
quá trình xã hội hóa LĐ và SX. Nó đại biểu cho giai đoạn phát triển mới của
LLSX xã hội và của nền kinh tế thị trường.
+ KTTT tạo ra những thay đổi cơ bản, sâu sắc không chỉ đối với LLSX,
QHSX mà còn tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt đời sống XH, cải thiện đời
sống, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi QG, dân tộc, nhưng mỗi nước lại
có chế độ CT khác nhau nên mục đích và kết quả của KTTT cũng khác nhau.
+ KTTT ra đời trong nòng CNTB hiện đại, nhưng sự phát triển của nó lại
bị giới hạn bởi chính PTSX TBCN, đòi hỏi phải có một QHSX mới, một HT KT
- XH mới thích ứng với nó.
- Tiêu chí để một ngành, một quốc gia được gọi là KTTT
Tri thức phải chiếm tỷ lệ áp đảo.
+ Một ngành được gọi là ngành KTTT khi giá trị do tri thức tạo ra chiến tỷ

lệ áp đảo, khoảng 70% tổng giá trị sản xuất của ngành đó.


+ Một nền kinh tế được coi là đã phát triển đến trình độ KTTT khi tổng
giá trị sản phẩm của các ngành KTTT chiếm khoảng 70% tổng SP quốc nội
GDP.
+ Trên thế giới hiện nay, các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển
OECD, các ngành KTTT đã đóng góp trên 50% GDP; Mỹ 55,3%, Nhật 53%,
Canađa 51%.
2. Đặc trưng của kinh tế tri thức
Thứ nhất, tri thức trở thành nhân tố chủ yếu nhất của nền kinh tế.
Trong kinh tế tri thức, của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa
vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, tuy nhiên vốn và các nguồn
lực khác vẫn là những yếu tố rất cơ bản, không thể xem nhẹ. Kinh tế tri thức
được đặc trưng bởi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh
các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức: đó là các ngành
công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ
dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát
triển công nghệ và ứng dụng trực tiếp để tạo ra sản phẩm. Do vậy, tổng giá trị
sản phẩm tăng nhanh, nhưng tổng tiêu hao nhiên liệu, nguyên liệu, vật tư hầu
như không tăng mấy; số lượng người lao động trong khu vực sản xuất hàng hoá
có xu hướng ngày càng ít đi, trong khi số người làm việc ở các văn phòng hiện
đại đa chức năng và làm công việc xử lý thông tin chiếm tỷ lệ rất lớn trong cơ
cấu tổng thể lực lượng lao động xã hội.
Chúng ta thấy, trong kinh tế tri thức, con người là vốn quý nhất, sáng tạo
ra tri thức. Tri thức là yếu tố quyết định của sản xuất; sáng tạo, đổi mới là động
lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở thành nhân tố quan trọng
hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng; công nghệ thông tin được
ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao
chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ được tri thức, phải biết vận

dụng, quản lý, truyền bá tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo phát
triển bền vững.


Tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất, nhưng lại rất khác biệt với các yếu
tố khác của sản xuất (vốn, tài nguyên...) ở những đặc điểm cơ bản sau:
- Tri thức không bị hao mòn, giá trị của thông tin và tri thức ngày một tăng.
- Khi chuyển giao tri thức cho người khác, người sở hữu tri thức vẫn còn
nguyên vốn tri thức của mình.
- Khi tri thức chuyển giao cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên
gấp bội với chi phí không đáng kể. Do đó, khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri
thức thì nền kinh tế sẽ là nền kinh tế dồi dào, dư dật.
- Mặt khác, tiếp nhận vốn tri thức lại không dễ như tiếp nhận đồng vốn.
Việc chuyển giao, tiếp nhận phải thông qua GD-ĐT. GD-ĐT do đó trở thành
ngành sản xuất vốn tri thức - ngành sản xuất cơ bản nhất, quan trọng nhất trong
nền kinh tế tri thức.
- Tri thức, như một tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền kinh tế thị trường
lại do người lao động sở hữu, không tách khỏi người lao động. Như vậy, khi nền
kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức thì người lao động - là lao động tri thức - phải
thực sự được làm chủ, hợp tác nhau bình đẳng trong tổ chức kinh doanh, tạo ra
và phân phối của cải.
- Khi tri thức trở thành vốn chủ yếu của sản xuất thì vấn đề quản lý tri
thức trở thành yếu tố cần thiết nhất. Trong nền kinh tế công nghiệp, khâu quan
trọng là quản lý năng suất, rồi đến quản lý chất lượng thì ngày nay chuyển sang
quản lý thông tin và quản lý tri thức. Quản lý tri thức là quản lý việc tạo ra,
truyền tải và sử dụng tri thức sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Hai là, kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động nhanh và đổi mới nhanh.
Trong nền kinh tế công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là
bằng cách tối ưu hoá, tức là hoàn thiện cái đã có để giảm chi phí sản xuất; còn
trong kinh tế tri thức thì quyết định năng lực cạnh tranh chủ yếu là sự sáng tạo

ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới tiêu dùng nhanh hơn. Kinh tế
phát triển là do sáng tạo, không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Vòng đời công nghệ và vòng đời sản phẩm từ lúc mới nảy sinh phát triển, chín


muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn; tốc độ đổi mới của các doanh nghiệp
và của toàn bộ nền kinh tế ngày càng nhanh. Do đó, kinh tế tri thức có tốc độ
hoạt động rất nhanh. Làm việc và kinh doanh theo tốc độ của tư duy. Trong kinh
tế tri thức, sáng tạo trở thành động lực chủ yếu của phát triển.
Các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới, số doanh nghiệp dựa vào sáng chế,
công nghệ mới, sản phẩm mới, nhất là doanh nghiệp khoa học hay doanh nghiệp
sáng tạo tăng lên nhanh chóng; số doanh nghiệp không đổi mới bị phá sản rất
nhiều; số chỗ làm việc cũ mất đi nhiều, nhưng số chỗ làm việc mới được tạo ra
còn nhiều hơn và tổng số chỗ làm việc không ngừng tăng lên. Như thế nền kinh
tế tri thức là nền kinh tế có rất nhiều biến động và có cả nhiều rủi ro. Có người
gọi kinh tế tri thức là nền “kinh tế rủi ro”, “kinh tế mạo hiểm” (dám chấp nhận
mạo hiểm đầu tư vào sản phẩm mới, lĩnh vực mới để phát triển). Kinh tế tri thức
không phải chỉ có mầu hồng. Tình hình không phải chỉ sôi động một chiều có
những cơ hội phất lên hiếm có, mà cũng lắm bước thăng trầm ẩn chứa không ít
rủi ro bất trắc. Đây không phải là thứ trận địa cứ ào ào xông lên xung phong và
chiếm lĩnh được, mà cần có chiến lược thông minh, chuẩn bị kỹ và tổ chức tốt.
Ba là, mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng nhất.
Nhờ mạng thông tin mà tri thức được quảng bá rộng rãi đến mọi người;
gắn kết mọi người, mọi tổ chức với nhau; rút ngắn thời gian, mở rộng không
gian; các hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên sôi động, nhanh nhạy, sản xuất
gắn chặt với thị trường; tổ chức quản lý có hiệu quả, hiệu lực hơn, thúc đẩy
phát triển dân chủ công khai, minh bạch. Mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng
quan trọng nhất của nền kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, thông tin dồn dập,
hiệu ứng dây chuyền, hiệu ứng phụ, hiệu ứng cộng năng (như internet) ngày
càng tác động mạnh. Có xã hội thông tin mới có kinh tế tri thức. Nhiều người

gọi kinh tế tri thức là kinh tế mạng, để nhấn mạnh rằng chưa bao giờ thế giới
tràn ngập những tổ chức mạng như bây giờ, cho nên cách nghĩ, cách quản lý,
cách làm việc theo một hệ thống có trên có dưới, tôn ti trật tự theo kiểu phong
kiến hay tư bản thời công nghiệp hiện đại cũng đã lỗi thời.


Bốn là, Kinh tế tri thức là nền kinh tế học tập (Xã hội học tập là nền tảng
của kinh tế tri thức).
Mọi người có điều kiện thuận lợi để học tập suốt đời, không ngừng phát
triển tri thức, nâng cao kỹ năng, phát triển sức sáng tạo, thích nghi với sự phát
triển, thúc đẩy đổi mới. Trong thời đại bùng nổ về thông tin, sự phát triển như
vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đòi hỏi con người phải
không ngừng học tập, cập nhật kiến thức, sáng tạo tri thức mới, công nghệ mới,
đồng thời phải chủ động theo kịp sự đổi mới và có khả năng thúc đẩy sự đổi
mới. Mặt khác, con người phải học và tự học suốt đời mới thích ứng linh hoạt
với sự biến đổi hết sức mau lẹ của của môi trường và điều kiện làm việc mới. Vì
vậy, xã hội học tập trở thành một đặc trưng, một yếu tố quan trọng của nền kinh
tế tri thức.
Năm là, kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá.
Quá trình phát triển khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế tri thức
cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường, phát triển thương mại thế giới và
quá trình toàn cầu hoá là những quá trình đi liền với nhau, tác động qua lại và
thúc đẩy nhau phát triển. Sự sản sinh ra, truyền bá, sử dụng tri thức không thể
chỉ nằm trong biên giới quốc gia. Kinh tế tri thức ra đời trong điều kiện nền kinh
tế thế giới toàn cầu hoá; bất cứ ngành sản xuất, dịch vụ nào cũng đều dựa vào
nguồn cung ứng từ nhiều nước và được tiêu thụ trên toàn thế giới. Người ta
thường gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá nối mạng, hay là nền
kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Sáu là, kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững.
Thuật ngữ Phát triển bền vững do Bà Brundland đưa ra (người Na uy làm

việc trong Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED): kiểu phát triển
vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại, vừa không ảnh hưởng đến
khả năng mà các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của mình.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Nam Phi cho
rằng: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý,


hi hũa gia ba mt phát triển l phỏt trin kinh tế, phát triển xã hội
và bảo vệ môi trờng.
Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là: sự tăng
trởng kinh tế ổn định; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
khai thác hợp lý, sử dụng tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ và nâng cao đợc chất lợng môi trờng sống.1
Trong kinh t tri thc, cỏc cụng ngh mi c s dng ph bin, nht l cỏc
cụng ngh sch, tiờu hao ớt nguyờn liu, nng lng, l cỏi bo v, ci thin mụi
trng, cho nờn kinh t tri thc ớt gõy hi cho mụi trng, bo v c thiờn nhiờn.
Nh trỡnh dõn trớ cao, nh s dng mt cỏch ph bin cỏc tri thc mi trong mi
hot ng, t chin lc, quy hoch, k hoch n cỏc hot ng sn xut kinh
doanh, t chc qun lý, i sng hng ngy, mi ngi luụn cú ý thc gỡn gi, bo
v cỏc giỏ tr ca thiờn nhiờn, ca truyn thng vn húa, bit kt hp hi hũa li ớch
trc mt v li ớch lõu di, bo m c yờu cu phỏt trin bn vng.
Cú th tham kho s so sỏnh c trng ca kinh t nụng nghip, kinh t cụng
nghip v kinh t tri thc bng di õy:
c trng ba loi kinh t
Yu t sn xut

Kinh t

Kinh t


Kinh t

c bn
Yu t c bn

nụng nghip
- t ai, nc

cụng nghip
- Ti nguyờn, t

tri thc
- Tri thc, thụng tin

- Lao ng th cụng

bn (vn)

- Lao ng sỏng to

- Lao ng lm
Thnh phn

Nụng dõn

thuờ
Cụng nhõn

chớnh ca lao
ng

u t cho KH

Cụng nhõn tri thc,
nhõn ti

Di 0,3% GDP

T 1 - 2% GDP

Trờn 3% GDP

Định hớng chiến lợc phát triển bền vững ở Việt Nam (ban hành kèm theo QĐ
153/2004/QĐTTg của Thủ tớng CP).
1


Đóng góp của

-

30%

70% trở lên

trưởng GDP
Đầu tư cho GD

Dưới 1% GDP

2 - 4% GDP


Trên 6% GDP

Trình độ VH

Tỷ lệ mù chữ cao

Trung học

trung bình
Số dân SD

-

-

KH cho tăng

Đại học, cao đẳng
Trên 50%

Internet
Đặc trưng của ba loại kinh tế
Các thời đại

Kinh tế

Kinh tế

Kinh tế


kinh tế
Các quá trình

nông nghiệp
Trồng trọt

công nghiệp
Chế tạo

tri thức
Thao tác, điều khiển,

SX chủ yếu
Đầu ra của SX

Chăn nuôi
Lương thực

Gia công
KS xử lý TT
Của cải, HH tiêu Sản phẩm đáp ứng N/C
dùng, các DN, nền ngày càng cao của C/S,

Cơ cấu KT

CN
CN tri thức, vốn tri thức
Nông nghiệp là chủ CN, DV là chủ yếu Các ngành kinh tế tri


Công nghệ chủ

yếu
Súc vật, cơ giới

Cơ giới, hóa học

thức thống trị
CNC, điện tử hóa, tin

yếu

hóa đơn giản

hóa, ĐK hóa,

học hóa, xa lộ TT, thực

Tỷ lệ đóng góp

< 10%

chuyên môn hóa
> 30%

tế ảo
> 80%

của KH - CN
cho tăng trưởng

kinh tế
Bảng so sánh một số chỉ tiêu giữa các nền kinh tế
Danh mục

Kinh tế

Kinh tế

so sánh
Tính quan trọng của GD

nông nghiệp
Không lớn

công nghiệp
Lớn

và N/C khoa học

Kinh tế
tri thức
Cực lớn


Kết cấu công nghệ
- CNTT

3 - 5%

~ 15%


- CN Sinh học

2%

~ 10%

- CN NLM

2%

~ 10%

- CN VLM

1%

~ 5%

- KHKT Hải dương

2%

~ 10%

- KH không gian
Kết cấu sức LĐ

~ 5%


- Nông nghiêp

> 50%

10 - 20%

< 10%

- Công nghiệp

15 - 20%

> 30%

< 20%

- Công nghệ KT cao

-

10 – 15%

> 40%

- Tuổi thọ người LĐ

36 tuổi

60 - 70 tuổi


~ 70 tuổi

3. Chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tri thức
Sự nghiên cứu cho thấy, các nhà kinh điển Mác - Lênin chưa đề cập trực
tiếp đến kinh tế tri thức, nhưng đã có nhận thức và đánh giá rất cao vai trò của
nhân tố con người cùng với tri thức của họ với sự phát triển kinh tế - xã hội.
* C. Mác và Ph.Ăng ghen.
- C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: Chính con người bằng bàn
tay, khối óc của mình, bằng “sức mạnh đã vật hóa của tri thức” đã tạo ra các sản
phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội chứ không phải là thiên nhiên ban tặng.
+ Khi bàn về vai trò của tư bản cố định trong tham gian vào quá trình tạo
ra giá trị và theo đó là giá trị thặng dư cho nhà tư bản, Mác viết: “Thiên nhiên
không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo ... Tất cả những
cái đó đều là sản phẩm lao động của con người, là vật liệu tự nhiên đã được
chuyển hóa thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự nhiên hoặc
của hoạt động con người trong giới tự nhiên. Tất cả những cái đó đều là những
cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều có sức mạnh đã
vật hóa của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức


xã hội hóa phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất
trực tiếp” ( Mác, Ăngghen, Toàn tập, tập 46, PII, tr 372).
+ Các ông còn cho rằng lực lượng sản xuất xã hội bao gồm cả yếu tố vật
chất và yếu tố tinh thần, trước hết là tri thức.
Ăngghen viết: “Có hai yếu tố sản xuất hoạt động: giới tự nhiên và con
người; con người đến lượt mình, lại hoạt động với những thuộc tính thể chất và
tinh thần của nó” (Mác, Ăngghen, Toàn tập, tập 1, tr 762).
Mác cũng khẳng định: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra
của cải thực tế trở lên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao
động đã hao phí hơn ..., mà đúng ra chúng phụ thuộc vào trình độ chung của

khoa học vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay phụ thuộc vào sự ứng dụng khoa học
ấy vào sản xuất” (Mác, Ăngghen, Toàn tập, tập 46, PII, trang 368)
* V.I. Lênin
- Ông đã nhận thức ý nghĩa quyết định của tri thức với sự phát triển kinh tế
- xã hội, đưa nước Nga nông nghiệp lạc hậu thành một nước Nga phát triển. Ông
yêu cầu mọi người dân “học nữa, học mãi”.
- Trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quền Xô viết” viết
tháng 4/1918, Ông cho rằng: “nâng cao năng suất lao động là điều kiện vật chất
thứ hai” của chính quyền Xô viết phải lãnh đạo, chỉ đạo quần chúng CM thực
hiện, để cho xã hội mới chiến thắng xã hội cũ. Do đó cần có:
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền đại công nghiệp.
+ Để có năng suất lao động điều kiện trước hết là “nâng cao trình độ học
vấn và văn hóa của quần chúng nhân dân”.
+ Người yêu cầu phải sử dụng các chuyên gia tư sản để tiếp thu khoa học
kỹ thuật, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” viết 6/1919 Lênin khẳng định rằng:
“Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới thời
nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại, và sẽ bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa


xã hội tạo ra một năng suất lao động mới cao hơn nhiều” (Lênin, Toàn tập, tập
39, tr 25).
- Trong “Chính sách kinh tế mới”, ở tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã”,
ông yêu cầu phải xây dựng những xã viên hợp tác xã văn minh, trước hết, họ
phải có học thức; họ phải được giáo dục và đào tạo để có tri thức, hiểu biết, Ông
cho rằng: “Tất cả sự khôn ngoan mà chúng ta cần lúc này để chuyển sang chủ
nghĩa xã hội là ở chỗ đó” và “ Cần phải có cả một cuộc cách mạng, cả một thời
kỳ phát triển văn hóa của toàn thể quần chúng nhân dân” (Lênin, Toàn tập, tập
45, M, 1978, tr 424).
* Chủ tịch Hồ Chí Minh

- Để đất nước phát triển, ngay sau khi CM tháng Tám thành công, Bác yêu
cầu phải diệt hai loại giặc là: giặc đói và giặc dốt.
- Bác cho rằng: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu.
- Trong thư gửi các cháu học sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 9/1945 Bác đã viết: “Non sông Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ phần lớn ở
công học tập của các em” .
4. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về kinh tế tri thức
* Trước đây
Tuy chưa trực tiếp đề cập đến kinh tế tri thức, nhưng ngay từ Đại hội Đảng
III và IV Đảng ta đã xác định: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng
tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt” (Văn
kiện IV, tr 67).
* Đại hội IX
Cụm từ kinh tế tri thức được Đảng ta lần đầu tiên sử dụng chính thức trong
Văn kiện Đại hội IX.


- Đại hội nhận định:
+ Trong thế kỷ XXI: “Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt.
KTTT có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển LLSX”.
+ Nước ta thực hiện quá trình CNH,HĐH khi toàn thế giới KTTT đã phát
triển. Chúng ta có thể và cần thiết không qua các bước tuần tự từ kinh tế nông
nghiêp lên kinh tế CN rồi mới phát triển KTTT. Đó là lợi thế của các nước đi
sau, tuyệt nhiên không phải là nóng vội, duy ý chí.
“Con đường CNH,HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian...vừa
có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế

của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày
càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa
học và công nghệ, từng bước phát triển KTTT”(VK IX , Tr 25).
* Đại hội X và XI
- Đại hội X chỉ ra đường lối CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là:
“Đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức”
- Đại hội XI tiếp tục khẳng định lại đường lối trên. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong TKQĐ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011), đẩy mạnh
CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT là phương hướng đầu tiên trong tám
phương hướng xây dựng đất nước:
“Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường”(VK XI, tr72).
II. Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
1. Thực tiễn hành động về phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
* Những việc đã làm được
Đánh giá theo những đặc trưng của kinh tế tri thức, trong hơn 20 năm đổi
mới vừa qua, Việt nam đã đạt được những kết quả, thể hiện chủ yếu như sau:
- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo chiều hướng tiến bộ.


Liên tục trong nhiều năm Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định, đạt trung bình khoảng hơn 8% hàng năm trong giai đoạn 1990 - 2000 và từ
trên 6% đến hơn 7% trong giai đoạn từ 2001 đến nay. GDP thực tế trên đầu
người đạt trung bình hàng năm khoảng 5,9% trong giai đoạn 1990 - 2002. Tăng
trưởng cao và ổn định đã có tác động lan toả tích cực đến các khía cạnh của
đời sống kinh tế - xã hội.
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của nước ta trong những
năm qua đã có sự chuyển dịch, với tỷ trọng các lĩnh vực kinh tế có giá trị gia

tăng cao, trong đó có những lĩnh vực dựa nhiều vào tri thức ngày càng tăng. Tỷ
trọng nông - lâm - ngư nghiệp trong GDP đã giảm đều đặn và tỷ trong công
nghiệp, dịch vụ tăng lên tương ứng (bảng1). Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ
cấu GDP từ 41% năm 2005 tăng lên 41,1% năm 2010; khu vực dịch vụ từ 38%
năm 2005 tăng lên 38,5% năm 2010; tương tự, khu vực nông nghiệp từ 21%
giản xuống còn 20,6%. Một số lĩnh vực như công nghiệp th«ng tin, công nghiệp
công nghệ cao, các lĩnh vực dịch vụ dựa vào sử lý thông tin, tài chính ngân
hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ đã dần dần hình thành
và có bước phát triển đáng kể. Những lĩnh vực được chờ đợi này dần trở thành
đầu tàu thúc đẩy đổi mới và phát triển của toàn bộ nền kinh tế.

Bảng 1: Tỷ träng các ngành trong GDP
Các ngành/năm

1986

1990

1995

2000

2003

2005

Nông - lâm - ngư nghiệp

38,06


38,74

27,18

24,30

21,80

21,02

Công nghiệp - Xây dựng

28,88

22,67

28,76

36,61

40,00

40,97

Dịch vụ

33,06

38,59


44,06

39,09

38,20

38,01

Nguồn: Tổng cục thống kê
- Thứ hai, xây dựng thể chế kinh tế thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho


s phỏt trin cỏc thnh phn kinh t, c bit khu vc kinh t t nhõn
Vit Nam ó t c nhng kt qu quan trng trong vic xõy dng h
thng phỏp lut kinh t, ci cỏch t chc v hot ng b mỏy nh nc, tng
cng nng lc, tớnh nng ng, tinh thn trỏch nhim ca i ng, cụng chc,
chỳ trng h tr cỏc doanh nghip mi v to cuc sng tt hn cho ngi dõn;
c cu lao ng thay i cựng vi s gia tng tng bc ca lc lng lao
động x lý thụng tin, lm dch v, di chuyn sn phm, lm vn phũng...õy
chớnh l s th hin quan im xõy dng th ch kinh t th trng nh hng
xó hi ch ngha bo m cho cỏc quan h sn xut khụng ngng i mi v
hon thin (trong ú kinh t t nhõn c xỏc nh l cú vai trũ quan trng l
mt trong nhng ng lc ca nn kinh t).
c bit, trong nhng nm gn õy, vi s ra i ca Lut Doanh nghip,
khu vc kinh t t nhõn ó cú bc phỏt trin mnh. Trong giai on 2000 2003, trung bỡnh hng nm cú khong 20.000 doanh nghip dõn doanh thnh
lp mi, vi s vn ng ký u t hn 40.000 t ng v gii quyt vic lm
cho hn 1 triu lao ng. Cỏc doanh nghip dõn doanh ó tham gia vo hu ht
cỏc ngnh, cỏc lnh vc ca nn kinh t, vi t chc sn xut kinh doanh linh
hot, n lc ci tin cụng ngh, tng nng sut lao ng, thõm nhp th trng.

Tỡnh hỡnh ú cng ũi hi phỏt trin th trng hng hoỏ, th trng vn, th
trng sc lao ng, th trng bt ng sn, th trng khoa hc - cụng ngh...
gúp phn lm tng qui mụ th trng hoỏ nn kinh t nc ta.
- Th ba, ch ng hi nhp kinh t quc t
Cỏc quan h kinh t song phng, a phng ca Vit nam khụng ngng
c m rng thụng qua vic ký kt v tham gia vo cỏc hip nh v din n
nh: ký hip nh khung vi Liờn minh Chõu u EU (1992); tham gia Khu vc
Thng mi T do ASEAN (1994); tham gia Din n Hp tỏc Kinh t Chõu
- Thỏi Bỡnh Dng APEC (11/1998); ký hip nh thng mi Vit Nam - Hoa
K (2000) v chớnh thc gia nhp WTO (2007). Đó là kt qu thực hiện NQ
s 07 của BCT và Chơng trình hành động thực hiện hội nhập


kinh tế quốc tế của CP theo QĐ số 37/2002/QĐ TTg.
Đn nay, ã thit lp c mi quan h bỡnh thng vi 167 nc, quan
hệ thơng mại với 160 nớc, thu hút đầu t trực tiếp của các Cty,
tập đoàn thuộc 45 nớc và vùng lãnh thổ; tranh thủ viện trợ phát
triển của 45 nớc và định chế ti chớnh quốc tế. iu ny ó gúp phn
ỏng k cho phỏt trin kinh t nh: tip cn mt khi lng ln vn FDI (42 tỷ
đô, tạo việc làm cho 69 vạn Lđ), ODA (gần 20 tỷ đô); tip nhn
chuyn giao cụng ngh; tng nng sut lao ng; cú nguồn vn xoỏ úi
gim nghốo; m rng th trng tiờu th (16.200DN trực tiếp XK), tng kim
ngch xut khu (đến 2003: 23 tỷ đô, vợt trên 50% GDP; nm 2011, t
khong 94 t ụ la), tng v th ca nc ta trờn trng quc t...Nc ta ang
tng bc phỏt trin mt mt khõu trong mng li sn xut - kinh doanh ton
cu, trong ú cú nhng hot ng liờn quan n vic sn sinh v truyn bỏ kinh
t tri thc.
- Th t, tng bc hỡnh thnh kt cu h tng kinh t then cht cho phỏt
trin kinh t tri thc.
Mng thụng tin l mt trong nhng yu t quan trng nht ca xó hi v

kinh t tri thc. Trong nhng nm qua nh nhng n lc trong thc hin
Chng trỡnh quc gia v cụng ngh thụng tin t nm 1995 v chin lc y
mnh phỏt trin lnh vc vin thụng, mạng thông tin nc ta ó c m rng
v phỏt trin nhanh chúng, vin thụng c ỏnh giỏ l mt trong nhng lnh
vc cú tc phỏt trin nhanh nht ca nn kinh t nc ta hin nay. Hin nay
mng li thụng tin ca nn kinh t ó c t ng hoỏ hon ton, vi 100%
cỏc h thng chuyn mch s v truyn dn s tri rng trờn ton quc v kt
ni vi quc t.
Mt lot cỏc dch v bu chớnh, vin thụng v Internet ó c to lp v
m rng ỏp ng nhu cu ca khỏch hng, phc v hot ng sn xut kinh
doanh, qun lý nh nc, giỏo dc, y t, nghiờn cu, gii trớ, giao tip...
Thc tin, Chỳng ta ó cú nhng nhõn t mi, mụ hỡnh mi phỏt trin


dựa vào tri thức: Tổng Công ty bưu chính viễn thông; những cánh đồng 600
triệu ở xã Đoàn Thượng, Gia Lộc, Hải Dương; Công ty hoa HASFARM và các
cơ sở khác ở Đà Lạt; Ứng dụng công nghệ mới trong ngành thủy sản, công
nghiệp đóng tàu biển; ở Viện máy và Dụng cụ công nghiệp (IMI); ở một số
trường đại học lớn, ở Công ty phát triển phụ gia và sản phẩm dầu mỏ (APP), ở
công ty cổ phần TRAPHACO...
* Những việc có thể làm được nhưng chưa làm được
§ánh giá theo những đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức, trong những
năm qua, có những việc chúng ta có thể làm được và làm tốt hơn, nhưng chưa
làm được thể hiện chủ yếu là:
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp và chưa được cải thiện nhiều
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao thể hiện ở hiệu quả của nền kinh
tế còn thấp, năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế còn yếu, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế còn chậm và chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư có xu
hướng gia tăng, môi trường đầu tư chưa ổn định, năng lực quản lý điều hành của
bộ máy hành chính còn nhiều yếu kém làm tăng đáng kể chi phí giao dịch và chi

phí đÇu vào sản xuất kinh doanh. Việc tiếp tục theo đuổi phương thức tăng
trưởng chủ yếu dựa vào lợi thế so sánh tĩnh, tăng vốn (vốn đầu tư đóng góp vào
tăng trưởng là 64%, năng suất tổng hợp chỉ 19%)...trong nhiều năm qua khó có
thể bảo đảm được mức tăng trưởng cao trong dài hạn, nhất là trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, nền kinh tế và thể chế thị trường còn yếu, thiếu sót và méo mó.
Hệ thống kinh tế thị trường ở nước ta, nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chưa
theo kịp diễn biến thực tế của hoạt động kinh tế, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ,
mâu thuẫn, chồng chéo, không minh bạch và nhất là năng lực thực thi pháp luật
yếu. Cải cách hành chính diễn ra chậm chạp, khiến cho năng lực hỗ trợ của nền
hành chính cho phát triển kinh tế bị hạn chế nghiêm trọng, thậm chí trong nhiều
trường hợp các thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu còn gây cản trở cho công
cuộc phát triển. Một số thị trường quan trọng chỉ mới được hình thành những đã


cú nhiu mộo mú nh th trng khoa hc - cụng ngh. u t cho i mi cụng
ngh ca cỏc doanh nghip Vit Nam ch vo khong 0,2 - 0,3 doanh thu (n
5%, Hn Quc 10%). T l i mi mỏy múc thit b ca Vit Nam ch t 8
-10%, cũn cỏc nc trong khu vc l 15 - 20%.
Th ba, quỏ trỡnh chun b v hi nhp kinh t quc t cha mnh v
cha ng u
Nhn thc ca cỏc cp, cỏc ngnh v ton cu hoỏ v hi nhp kinh t
quc t cũn chm, thiu thng nht v quyt tõm cao (72% DN nắm đợc
thông tin hội nhập; 31% DN không biết về WTO). Vic ch o thc
hin cũn chch choc, thiu nht quỏn, cha cú k hoch tng th iu hnh;
cha cú l trỡnh hp lý. Trong khi ú tớnh ch ng ca cỏc ngnh, cỏc cp li
cha cao, thm chớ cũn khỏ b ng trong nhiu lnh vc (15% lãnh đạo DN
cha biết những thách thc mà họ phải đối mặt trong tơng lai.;
45% DN cha có kế hoạch chuẩn bị cho việc thực hiện các yêu
cầu của HĐTM Việt Nam - Hoa Kỳ) (23,8 số DN có hàng hóa XK,

13,7 % có triển vọng, 62,5 % DN hoàn toàn cha có khả năng XK
- điều tra của VCCI)
Th t, cỏc lnh vc biu hin ca kinh t tri thc cha phỏt trin.
Cỏc ngnh mi i din cho kinh t tri thc, hay cũn gi l cỏc ngnh
cụng ngh cao cha c hỡnh thnh hoc mi trỡnh rt s khai. S doanh
nghip u t mo him, u t cho nghiờn cu và phỏt trin (R&D) nhm to
ra cụng ngh mi l khụng ỏng k. Tri thc cha thc s tr thnh vn quớ, ý
thc xó hi v th ch phỏp lý v quyn s hu trớ tu cũn kộm, nhng ngi cú
kh nng to ra tri thc cha hỡnh thnh c thúi quen ng ký bo h quyn
s hu trớ tu cho sn phm khoa hc v cụng ngh ca mỡnh. ng dng cụng
ngh thụng tin trong i sng xó hi cũn hn ch. Nn giỏo dc ca nc ta
ang cha đng nhiu bc xỳc, cụng tỏc xó hi hoỏ giỏo dc cũn din ra
chm. Vi thc trng yu kộm nh vy s gõy khú khn cho hỡnh thnh Vit
Nam mt xó hi hc tp, mt ội ng ụng o cỏc nh tri thc.


Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo nhất thế giới, GDP bình quân của
Việt Nam mới bằng 1/14 Malaysia, 1/30 Hàn Quốc, tại sao như vậy? Tại sao cái
tiềm năng ấy chưa được phát huy, điều gì ngăn trở giải phóng cái tiềm năng ấy?
Giải đáp nghịch lý này chỉ có một cách trả lời: vì cơ chế quản lý chưa thuận, vì
trí tuệ cộng đồng chưa cao, vì cái phần mềm hệ thống còn nhiều trục trặc, vì trí
tuệ và tài năng đang bị vướng mắc bởi một cơ chế tự thân mâu thuẫn, thiếu nhất
quán. Do đó vấn đề cốt tử là nên tập trung trí tuệ cải cách quản lý, xây dựng
một môi trường kinh tế xã hội lành mạnh và thoáng đãng, khuyến khích mọi
sáng t¹o, phát huy mọi tài năng, đồng thời hạn chế, loại trừ những yếu tố và xu
hướng tiêu cực.
Nhiều thí dụ lịch sử đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này, cụ thể:
- Khoảng cách công nghệ giữa Tây Âu và Mỹ những năm 60 không phải do
người Mỹ tài giỏi gì hơn mà chủ yếu do cách quản lý của Mỹ thuận lợi hơn cho tài
năng nảy nở và phát triển.

- Singapore, Hàn Quốc, Hồng Công lên nhanh đâu phải vì các dân tộc họ
thông minh hơn Việt Nam.
- Ngẫm lại bản thân ta cũng thấy quá rõ: nếu hơn 20 năm trước, Việt Nam
không đổi mới thì bây giờ Việt Nam đang ở đâu trên thế giới này?
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức ở nước ta hiện nay
a, Sự cần thiết phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức
Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.”2 Chủ trương đó của Đảng ta là hoàn
toàn đúng đắn.
Thứ nhất, phát triển kinh tế tri thức là bước đi tất yếu của nền kinh tế thế
giới trong thế kỷ 21.
Xã hội loài người đã trải qua ba nấc thang kinh tế chủ yếu: Kinh tế nông
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, tr.87.


nghiệp với trình độ sản xuất thô sơ, năng suất lao động thấp, sức lao động là lực
lượng sản xuất chủ yếu và nông nghiệp đóng vai trò nền tảng xã hội. Kinh tế
công nghiệp đạt trình độ sản xuất cao hơn, máy móc trở thành lực lượng sản
xuất chủ yếu và các ngành công nghiệp là nền tảng của xã hội. Một số nhà khoa
học cho rằng sau khi thực hiện thành công công nghiệp hoá, các nước phát triển
đã chuyển sang nền kinh tế phân phối với sự phát triển mạnh mẽ của giao thông
vận tải và các loại hình dịch vụ làm gia tăng giá trị sản phẩm. Trong khoảng một
thập kỷ trở lại đây, sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, sự tương
tác giữa tin học, vi điện tử và sinh học đã tạo ra những tiến bộ thần kỳ trong kinh
tế và sẽ tiếp tục cung cấp nhiên liệu cho sự tăng trưởng của thế giới trong vòng
hai hoặc ba mươi năm tới. Sự phát triển không ngừng có tính bùng nổ của lực

lượng sản xuất trong đó tri thức đóng vai trò như lực lượng sản xuất chủ yếu đã
dẫn đến sự hình thành một nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức (Knowledge
Based Economy hoặc Knowledge economy).
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở
mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn
năm phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết…tức là tri
thức cơ bản về nông nghiệp, nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ công lại quan
trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và
phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ
khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa của kinh
tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng hơn nên tri
thức cổ điển cũng đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng
phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày
càng nghiêm trọng, chiến tranh huỷ diệt đe doạ thường xuyên…Trong bối cảnh
đó cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển bùng
nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú về thế


×