Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học QUAN NIỆM của TRIẾT học PHỤC HƯNG và cận đại về CON NGƯỜI, ý NGHĨA xây DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.16 KB, 20 trang )

2

MỞ BÀI
Cùng với vấn đề tìm hiểu tự nhiên và cuộc sống xã hội, kể từ khi loài
người ra đời, một vấn đề nữa vấn đề con người luôn luôn là chủ đề được quan
tâm phân tích, luận bàn trực tiếp hay gián tiếp của các trường phái triết học từ
xưa đến nay. Tuy nhiên, tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử mà sự phát hiện và nghiên
cứu về con người có góc độ và khía cạnh khác nhau. Chủ đề này không mới
nhưng lại luôn luôn mang tính thời sự và chưa bao giờ cũ. Chúng ta khám phá,
tìm hiểu thế giới xung quanh thì nhiều nhưng khám phá, tìm hiểu về con người,
bản thân mình, như nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận, thì vẫn còn tương đối ít.
Cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII là một giai đoạn vĩ đại trong lịch sử
nhân loại, nó đánh dấu sự thất bại của chế độ phong kiến Phương Tây và bước
tiến đầu tiên của chế độ tư bản. Sau hàng nghìn năm dài “đêm trường Trung cổ”
tối tăm mù mịt, dưới sự áp bức, hẹp hòi của Giáo hội và phong kiến, lần đầu tiên
những triển vọng giải phóng, phát triển mọi khả năng của con người được mở
ra. Đó là thời kỳ giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi những xiềng xích
của chế độ phong kiến.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận, tác giả trung vào phân tích những tư
tưởng, quan niệm của Triết học Phục Hưng và Cận đại về con người - ý nghĩa
xây dựng con người Việt Nam hiện nay.


3

I. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ
PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cơ bản ảnh hưởng đến những quan điểm
của triết học về con người giai đoạn này.
Mỗi thời đại kế tiếp nhau là một nấc thang tiến bộ của nhân loại, chế độ
phong kiến ra đời thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ cũng không nằm ngoài quy


luật ấy. Tuy nhiên, xét riêng về mặt triết học trong thời kỳ này lại là bước lùi so
với lịch sử triết học cổ đại. Trong một thời gian dài của đêm trường trung cổ,
triết học kinh viện giữ vai trò thống trị hoàn toàn ở các nước Tây Âu. Những
quan điểm duy vật bị các thế lực phong kiến cầm quyền và giáo hội đàn áp bằng
những biện pháp tàn khốc, nhưng chủ nghĩa duy vật không bị tiêu diệt, cùng với
khoa học, triết học duy vật vẫn mở được con đường phát triển trong xã hội
phong kiến, nó đã được phục hồi vào thế kỷ XV – XVI và phát triển mạnh mẽ
vào thế kỷ XVII – XVIII dựa trên sự phát triển của khoa học, công nghiệp và
thương nghiệp.
Thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ XV - XVI)
Đây là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản
(thế kỷ XV - VI), bắt đầu hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này. Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu,
chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã
bước vào thời kì tan rã. Nhiều công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia,
sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên
kém phát triển. Giai cấp tư sản được hình thành với tiềm lực kinh tế ngày càng
lớn mạnh, họ đòi hỏi có các chính sách kinh tế, pháp luật, bộ máy nhà nước
cũng như các chế tài - tức là một kiến trúc thượng tầng đồng bộ - đảm bảo cho
sự phát triển ngày càng cao của họ. Do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất,
các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội


4

thu về các thành tựu khoa học kỹ thuật như sử dụng năng lượng nước, dệt, khai
mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, in ấn, hàng hải… đã cho phép thay thế dần sức
người và sức súc vật trong sản xuất. Những điều kiện đó đã thổi bùng lên những
khát khao giải phóng con người, cụ thể là thoát khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với
những điều luật khắt khe, vô nghĩa. Yêu cầu đặt ra là làm sao nhà nước và chúa

trời, tức là vua và giáo hội phải để cho nhân dân được tự do sản xuất, giảm thiểu
các loại thuế. Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp,
trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư
sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn...
Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ
nông thôn di cư ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng
thợ. Họ tham gia vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công
nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông
dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy tàn.
Về mặt văn hoá, những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của
thời cổ đại được khôi phục và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời đại
phục hưng đặc biệt dương cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là đối
tượng nghiên cứu của triết học, những tư tưởng tốt đẹp về con người của
Protagore, Xocrate…trở thành tiền đề lý luận cho ước mơ giải phóng con người.
Các giá trị toán học của Talet, hình học của Euclide, những yếu tố duy vật trong
triết học của Epicure,..cũng dược xem xét và ghi nhận thoả đáng. Triết học thời
phục hưng có những đặc diểm chính sau đây: Thứ nhất, triết học thời kỳ này là
vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo
hội. Thứ hai, tư tưởng của các nhà triết học phục hưng có tính hai mặt: vừa có
những tiến bộ nhưng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm, luẩn quẩn với hình thức
“phiếm thần luận” hay “tự nhiên thần luận”. Thứ ba, triết học thời kỳ này gắn
liền với vấn đề nâng cao giá trị khát vọng giải phóng con người. Thứ tư, triết
học thời kỳ này là những tư tưởng xã hội học thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn.


5

Thời kỳ Cận đại (thế kỷ XVII – XVIII)
Khác với thời phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước
Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã dành được chính quyền, PTSX TBCN được

xác lập và trở thành PTSX thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa
học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt
được trình độ là cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là
khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn tới “thói quen” nhìn
nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng, tách rời, không vận động, không
phát triển, nếu có đề cập đến vận động thì là sự vận động máy móc không phát
triển. Quan điểm về con người trong triết học thời kỳ này cũng mang nặng tính
duy vật siêu hình, máy móc. Chính điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự
nhiên thời cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học thời kỳ này:
Thứ nhất, đây là thời kỳ thắng lợi của CNDV đối với CNDT, của những tư
tưởng vô thần đối với hữu thần. Thứ hai, CNDV thời kỳ này mang hình thức của
CNDV siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong
lĩnh vực tư duy triết học và khoa học. Thứ ba, đây là thời kỳ xuất hiện những
quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát
khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử. Những đặc điểm
ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia, điển hình như
B.Xpinôda, Ph.Bêcơn. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách,
G.G.Rutxô. Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần
của thời cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải cách
nhất định. Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt trong triết học duy tâm chủ quan
của nhà triết học thần học người Anh G.Beccơli. Tuy nhiên, ở đây con người
mới được đề cập chủ yếu ở khía cạnh cá thể, bản chất xã hội của con người chưa
được đề cao.
2. Vấn đề con người trong triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng và
cận đại.
Chính những điều kiện kinh tế - xã hội cơ bản ảnh hưởng đến những quan
điểm của triết học về con người giai đoạn này. Điều đó được thể hiện rõ nét ở
một số nhà triết học tiêu biểu sau đây:



6

Nicôlai cudan (1401-1464) Nicôlai Cudan xuất thân từ nông dân, ở
miền Nam nước Đức, nhưng chịu ảnh hưởng của các nhà nhân đạo và những
người theo phái platôn ở italia. Vì thế, ông là một trong những người đầu tiên
dám phê phán mạnh mẽ các giáo lý trung cổ, mở đầu thời kỳ triết học phục hưng
với các tác phẩm nổi tiếng như Về sự dốt nát, Về tri thức học…
Chủ trương của ông là xây dựng một hệ thống thần học mới thay thế thần
học cũ của các triết học gia trung cổ mang nặng tính thần luận. Ông đưa ra quan
điểm tự nhiên thần luận và cho rằng sự tồn tại của thượng đế không gì khác mà
chính là sự tồn tại của thế giới trong thượng đế. Điểm mới của ông là ở chỗ ông
không coi thượng đế như một vật hay cá nhân cụ thể mà là bản chất vô hạn của
thế giới. Quan hệ giữa thượng đế với các sự vật ở ông được thể hiện rõ nhất qua
luận điểm biện chứng khá sâu sắc: “Thượng đế là tất cả trong mọi cái, nhưng
đồng thời cũng không là gì cả (hư vô) trong mọi cái”
Trong quan niệm về con người, cudan đã thể hiện rõ nét chủ nghĩa nhân
đạo tư sản. Đó là tư tưởng coi con người luôn luôn là sự thống nhất giữa mặt
sinh vật cao cấp và mặt xã hội, là chủ thể đầy sức mạnh thường xuyên chủ động
tác động vào tự nhiên; mặt khác ông coi con người chính là sản phẩm tối cao và
tinh tuý nhất trong sự sáng tạo của thượng đế, vì con người như thượng đế - con
người. Ông là một trong số ít nhà triết học từ trước tới giờ ý thức được con
người không chỉ là một sinh vật cấp cao bằng xương bằng thịt như hàng ngày
chúng ta vẫn thấy, mà là một thượng đế – con người đang thường xuyên tác
động vào các sự vật tự nhiên. Vì vậy, “con người chính là thế giới con người
bao quát dưới dạng tiềm tàng toàn bộ thượng đế và thế giới…, nội tâm triển
vọng của con người đó là tất cả”. Quan niệm của cudan đánh dấu một bước tiến
mới của triết học thời phục hưng và cận đại về vấn đề con người. Con người
trong triết học của ông đang tiến gần đến làm chủ bản thân và làm chủ tự nhiên.
Đây là cơ sở, là tiền đề rất quan trọng, là bước mở đầu cho con người tự do.
Brunô (1548 – 1600) Brunô là nhà triết học, nhà khoa học tự nhiên vĩ đại

thời kỳ phục hưng ở italia, là người bảo vệ thuyết nhật tâm của côpécních. Cũng


7

như cudan, ông là nhà tự nhiên thần luận, nhưng nghiêng về lập trường duy vật
hơn. Vì thế tự nhiên thần luận của ông là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng
duy vật thời phục hưng.
Khi đề cập đế vấn đề con người, brunô đặc biệt đề cao nhận thức trí tuệ
của con người. Chống lại uy quyền của giáo hội, hạ thấp vai trò của thần linh,
thượng đế. Đồng thời ông phủ nhận cả chân lý thần học lẫn quan niệm thừa nhận
“hai chân lý” thịnh hành thời trung cổ và phục hưng, khẳng định tồn tại duy nhất
một dạng chân lý duy nhất do triết học và khoa học khám phá.
Phranxis Bêcơn (1561 – 1626) Bêcơn là triết học kiệt xuất thời cận đại.
Theo Mác, bêcơn là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực
nghiệm. Bắt đầu từ bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn
mới với những màu sắc riêng.
Về vấn đề con người, Bêcơn giải quyết không triệt để. Ông chia linh hồn
thành hai dạng: linh hồn lý tính và linh hồn cảm tính. Linh hồn cảm tính có thể
bị huỷ hoại cùng với cơ thể, khi con người chết. Còn linh hồn lý tính thì có
nguồn gốc từ thượng đế. Đó là một khả năng kỳ diệu mà chúa ban cho con
người, và do đó nó mang tính thần thánh. Và chính vì trong con người có cả hai
dạng linh hồn cảm tính và lý tính, cho nên, một mặt con người rất gần gũi với
động vật, nhưng mặt khác lại là cái gì đó rất siêu phàm. Nhìn chung quan niệm
của bêcơn không rõ ràng nhất quán, thể hiện tư tưởng thoả hiệp của giai cấp tư
sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo.
Tômát hốpxơ (1588 – 1679) Tômát hốpxơ là nhà triết học nổi tiếng, đại
biểu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII.
Cũng như Bêcơn, Hốpxơ cho rằng “tri thức là sức mạnh”, do vậy phải
tăng cường phát triển các khoa học, nhất là triết học. Theo ông, lý luận triết học

phải phục vụ thực tiễn của con người, vì nó giúp cho con người hiểu biết về các
sự vật. Con người theo Hốpxơ là một thể thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Về
bản tính tự nhiên thì mọi người khi sinh ra đều như nhau cả về thể xác lẫn tinh
thần. Vì tất cả mọi người có quyền ngang nhau cho nên mọi người đều cố gắng


8

thực hiện quyền này của mình. Ông viết: “giới tự nhiên đã tạo ra mọi người như
nhau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng sự khác nhau nhất định về thể xác và
tinh thần giữa họ không lớn tới mức để cho bất kỳ người nào dựa trên điều đó
để có thể kỳ vọng kiếm lợi được điều gì cho bản thân mình mà những người
khác lại không thể làm được”. Ông còn giải thích thêm, con người ai cũng có
khát vọng, nhu cầu riêng của mình. Và ông cho rằng đây chính là tiền đề để con
người làm điều ác và cũng là điều đẩy xã hội loài người tới các cuộc chiến tranh
liên miên gây bao đau khổ, chết chóc. Theo Mác, sai lầm của hốpxơ ở chỗ coi
tính ích kỷ cũng như nhiều tính cách khác nhau mang tính xã hội của con người
là những tính cách thuộc về bẩm sinh của tạo hoá. Quan niệm trên đây của
hốpxơ mặc dù chưa đánh giá đúng mức đặc trưng riêng của loài người so với
loài vật, thể hiện lập trường duy danh của hốpxơ chưa thấy được bản tính xã hội,
tính nhân loại của con người, nhưng nó cũng mang yếu tố hợp lý nhất định. Một
mặt, nó cho thấy sự tương đồng nào đó giữa loài người và loài vật. Mặt khác,
chính lợi ích cá nhân là một trong những động lực cơ bản trực tiếp của hoạt
động con người và phát triển xã hội. Mọi sự kiện lịch sử đều được tiến hành
không thể thiếu lợi ích của một vài cá nhân hay tầng lớp xã hội nhất định.
Xpinôda (1632 – 1677) Xpinôda là nhà triết học lỗi lạc, người Hà Lan.
Trung tâm triết học của ông là học thuyết về giới tự nhiên như một thực thể duy nhất.
Xuất phát từ học thuyết về thực thể, xpinôda đi đến xây dựng quan niệm
con người. Theo ông, con người chỉ là sự vật giữa những sự vật khác, là một
dạng thức của thực thể, là sản phẩm của tự nhiên. Vì vậy nó cũng có các thuộc

tính tư duy quảng tính được thể hiện dưới dạng linh hồn và thể xác.
Dưới con mắt của Xpinôda, thể xác con người mà không có khả năng suy
nghĩ thì không còn là nó nữa, mà chỉ là một vật vô dụng, ngược lại linh hồn chỉ
là chức năng hoạt động của thể xác con người. Mối quan hệ giữa thể xác và linh
hồn là mối quan hệ hữu cơ giữa khả năng và cấu trúc, không tách rời nhau. Vì
vậy, không phải một thế lực siêu nhân nào khác, mà chính con người làm chủ
quá trình tư duy của mình. xpinôda quả quyết “cơ thể không thể bắt linh hồn


9

phải suy nghĩ, cũng như tư duy không thể buộc thể xác vận động hay đứng yên,
hoặc làm một việc gì khác”, vì chúng là một thể thống nhất trong con người.
Rútxô (1712 – 1778) Rútxô là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng lỗi lạc của
triết học khai sáng Pháp. Các tư tưởng của ông đã trở thành khẩu hiệu và phương
châm hoạt động của giai cấp tư sản Pháp trong cách mạng (1789 – 1794).
Thế giới quan của rútxô chủ yếu đề cập đến những vấn đề xã hội. Mặc dù
cũng đứng trên lập trường tự nhiên thần luận như nhiều nhà khai sáng khác,
nhưng rútxô coi lịch sử của nhân loại là kết quả của hoạt động con người, chứ
không phải do “bàn tay” xếp đặt của thượng đế. Nghiên cứu con người và quá
trình phát triển của xã hội từ trước tới giờ, ông khẳng định bản chất của con
người là tự do, nhưng trong sự phát triển của các xã hội từ trước tới giờ, khát
vọng tự do của con người luôn luôn bị kìm hãm. “con người sinh ra vốn được tự
do, thế nhưng chỗ nào anh ta cũng bị gông cùm”. Như vậy, tư tưởng của ông là
muốn đề cao tự do cá nhân, giải phóng con người.
Điđrô (1713 – 1784) Điđrô là nhà duy vật điển hình của triết học khai sáng
Pháp, người chủ biên của bộ Bách khoa toàn thư – một trong những duy sản văn
hoá vĩ đại không chỉ của nước Pháp, mà cả Tây Âu thế kỷ XVIII nói chung.
Điđrô là người phê phán mạnh mẽ những điểm không triệt để của chủ
nghĩa duy vật Anh, đặc biệt là của lốccơ trong việc thừa nhận lý tính như dạng

kinh nghiệm bên trong độc lập với mọi cảm giác. Theo ông, trên thực tế “trong
vũ trụ chỉ có một thực thể – cả trong con người lẫn động vật” cũng như các sự
vật khác.
Về con người, theo ông được từ linh hồn và thể xác trong sự thống nhất
hữu cơ với nhau. Linh hồn một tổng thể các hiện tượng tâm lý. Bản thân nó
cũng là đặc tính của vật chất. Do đó, “không có cơ thể con người thì nó (tức linh
hồn) không là cái gì cả. Tôi khẳng định rằng, không có cơ thể con người thì
không thể giải thích được cái gì cả”. Mặt khác, ông còn nhấn mạnh cơ thể con
người là một khí quan vật chất của tư duy, ý thức cũng như mọi quá trình tâm lý
của anh ta. Nhân cách của con người là sản phẩm của hoàn cảnh và môi trường


10

xung quanh. Tuy nhiên, ông vẫn chưa hiểu được rằng bản thân môi trường và
hoàn cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt6j động con người, và vì vậy mang tính
lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung của các nhà triết học trước Mác.
Lametri (1709 – 1751) Lametri là một trong những nhà duy vật điển hình
của triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Cũng như điđrô, thế giới quan của
ông xuất phát chủ yếu từ vật lý học duy vật của đềcáctơ.
Dựa trên thành tựu của sinh lý học, lametri coi con người tựa như một cái
máy, trong đó mọi tư tưởng, suy nghĩ của con người đều bị quy định bởi cấu trúc
cơ thể của anh ta, cũng như sự tác động của nó đối với môi trường và các điều
kiện sống. Mặc dù là cái máy nhưng theo Lametri, con người không phải là cái
máy cơ học đơn thuần, mà có khả năng suy nghĩ, hoạt động đạo đức. Vì thế,
“con người là một cái máy phức tạp tới mức hoàn toàn không thể có một ý
tưởng rõ ràng, và do vậy, không thể đưa ra một định nghĩa chính xác về nó”.
Cũng như nhiều nhà khai sáng khác, lametri đề cao vai trò của môi
trường và hoàn cảnh mà con người sống và sự giáo dục đối với sự phát triển linh
hồn con người, nhưng cái quyết định theo ông vẫn là thể trạng cơ thể của anh ta,

tức là yếu tố vật chất đóng vai trò quyết định.
3. Giá trị và hạn chế về vấn đề con người trong triết học Tây Âu thời
kỳ phục hưng và cận đại.
Qua nghiên cứu chúng ta có thể khái quát một số cống hiến và hạn chế
như sau:
Cống hiến: Đây là thời kỳ đầu tiên phát hiện ra con người trong thế giới và
cả thế giới trong con người. Nét nổi bật trong Triết học thời Phục Hưng và Cận đại
là sự phủ nhận quyền lực của Đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề
cao vai trò của lý trí, đề cao các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người.
Hạn chế : Quan điểm về con người trong triết học Tây âu thời kỳ cận đại
mang nặng tính duy vật siêu hình, máy móc. Triết học trong thời kỳ này xem xét con
người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt
đối hoá mặt sinh học mà không thấy mặt xã hội của con người. Chủ nghĩa cá nhân,


11

được hình thành với sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và việc phân
chia xã hội thành giai cấp. Chủ nghĩa cá nhân hay còn gọi là cá nhân chủ nghĩa là một
thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn nhận trên phương diện xã hội, chính
trị hoặc đạo đức trong đó nhấn mạnh đến sự độc lập của con người và tầm quan trọng
của tự do và tự lực của mỗi cá nhân. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương
không hạn chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài
lên sự lựa chọn của cá nhân cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất
kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Trong thời kỳ Phục Hưng và Cận đại,chủ
nghĩa cá nhân có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các cuộc đấu tranh giải phóng
con người khỏi xiềng xích của chế độ phong kiến. Tuy nhiên, chủ nghĩa toàn luận, chủ
nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ
thuyết nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc
gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng

đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm nào cho
rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, để hạn
chế sự lựa chọn hành động của cá nhân. Chủ nghĩa duy lý, được hình thành trong thời
kỳ Cận đại, với nội dung chính là nhấn mạnh vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa
duy lý cực đoan tìm mọi cách để gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng độc nhất
là lý trí. Đêcáctơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý của Đêcáctơ
ở một mức độ khá lớn có liên hệ với chủ nghĩa duy tâm, vì ông cho rằng trong lý trí
của c người có “những tư tưởng bẩm sinh”, độc lâp với kinh nghiệm. Ông đã thừa
nhận một cách sai lầm rằng, những nguyên tắc cơ bản của logic học và toán học là
những cái “bẩm sinh”, không phụ thuộc vào kinh nghiệm.
II. Ý NGHĨA XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Quan điểm của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề xây dựng con
người mới.
Mặc dù tồn tại cách chúng ta nhiều thế kỷ, nhưng những vấn đề triết học
Tây Âu thời kỳ phục hưng và cận đại vẫn chưa mất tính thời sự của nó. C. Mác
nhận xét, “một dân tộc chỉ đứng ngang tầm thời đại khi có một nền tảng triết


12

học vững chắc”. Vì vậy, nghiên cứu các di sản của triết học thời kỳ phục hưng
và cận đại giúp ta hiểu được tiến trình phát triển của tư tưởng nhân loại nói
chung, vấn đề con người trong triết học nói riêng, có thêm cơ sở để hiểu sâu sắc
hơn, đúng đắn hơn vấn đề con người trong triết học Mác, đồng thời giúp chúng
ta có được những cơ sở lịch sử cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ trình
độ năng lực và đạo đức phẩm chất, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Từ những nội dung nêu trên cho chúng ta thấy rằng, vấn đề con người là
một trong những vấn đề cơ bản của triết học nói chung và triết học Mác nói
riêng. Phát huy vai trò nhân tố con người không chỉ là quan niệm của một hoặc

một số chính Đảng cầm quyền nào cả mà nó đã trở thành vấn đề manh tính thời
đại. Tuy nhiên, quan niệm về con người và phát huy vai trò nhân tố con người
như thế nào thì không phải các đảng phái, các dân tộc đều như nhau.
Trong quá trình sáng tạo nên học thuyết của mình, các nhà triết học Tây
Âu thời kỳ phục hưng và cận đại, mặc dù còn những hạn chế nhất định về thế
giới quan, nhưng nhìn chung họ đều chú ý quan tâm đến vấn đề con người và
giải phóng con người khỏi xiềng xích phong kiến, hướng con người đến cuộc
sống tự do, bình đẳng, bác ái.
Vận dụng các tư tưởng và quan điểm của các nhà triết học Tây Âu trước
Mác nói riêng và triết học Mác nói chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất
cao vai trò của nhân tố con người đối với sự nghiệp cách mạng “vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, còn cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng thì cho rằng “Cuộc chiến đấu và chiến thắng của con người
Việt Nam trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cũng như trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chung quy lại là thắng lợi của con người”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc
hơn vai trò nhân tố con người đối với sự phát triển của xã hội. Ngay từ Đại hội
III, Đảng ta xác định “con người là vốn quý nhất”, đến Đại hội IV, Đảng ta đưa


13

ra luận điểm “con người mới – con người làm chủ tập thể”. Đại hội V tiếp tục
phát triển luận điểm con người mới, đồng thời nhấn mạnh lòng nhân ái là truyền
thống đặc trưng của nhân dân ta. Đến Đại hội VI, VII, nhất là từ Hội nghị lần
thứ tư (khoá VII), nhận thức về vai trò nhân tố con người của Đảng ta được nâng
lên một tầm cao mới. Tại hội nghị này, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nói:
“chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân
tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá,

mọi nền văn minh của quốc gia”. Đặc biệt, trong cương lĩnh xây dựng đất
(1991) Đảng ta xác định: “nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là
tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí tuệ” và “đặt con người
vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội”. Tại Đại hội VIII,
Đảng ta khẳng định: “phát triển đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”. Trên nền tảng tư duy đó, Đại hội xác định: “Nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Quan điểm
của đại hội là “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội IX Đảng ta tiếp tục khẳng định những
quan điểm cơ bản về con người và phát huy vai trò nhân tố con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội xác định, con người vừa
là động lực, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội.
Xác định con người là động lực phát triển kinh tế – xã hội, Đại hội chỉ rõ:
“nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững”, “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của xã hội”, “Phát huy
nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.


14

Xác định con người là mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội, trên cơ sở
nhất quán những nội dung cụ thể được trình bày trong Nghị quyết Trung ương 5
khoá VIII, Đại hội IX xác định: “Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể

chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn
trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng
đồng và xã hội, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, Đại hội IX bổ sung, làm rõ thêm về con người phát triển toàn
diện, có yếu tố mới như: trí tuệ, thể chất, năng lực sáng tạo, quan hệ hài hoà
trong gia đình, cộng đồng và xã hội, ý chí tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Nhất quán với quan điểm của các kỳ đại hội, nhất là quan điểm của Đại
hội IX, Đại hội X Đảng ta tiếp tục kế thừa và phát triển các quan điểm lý luận về
con người, Đại hội chỉ rõ: “đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân
dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân…”, “Phải gắn tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện
dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo”, “Đổi mới
toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”.
Đại hội XI Đảng ta tiếp tục kế thừa và phát triển các quan điểm lý luận
về con người. Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã
ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW, ngày 09-6-2014 về “Xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; về
xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới, quan điểm thứ 3 của
Nghị quyết 33-NQ/TW ( khóa XI) chỉ rõ “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây
dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống
tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn


15

kết, cần cù, sáng tạo”. Nhiệm vụ đầu tiên Nghị quyết đặt ra là “Chăm lo xây

dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần
yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu
biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”. Theo đó, vấn đề xây
dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay phải hội tụ đầy đủ các đức tính
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đó là: cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân; có tình thương yêu, đoàn kết, sống có nghĩa, có tình, trung thực, thẳng
thắn, khiêm tốn, nếp sống trong sạch, lành mạnh, cầu thị tiến bộ và tinh thần
trách nhiệm cao trong đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa; có
tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; quyết đoán, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trong lời nói, việc làm của mình.
2. Một số đánh giá chung về con người Việt Nam hiện nay.
Điểm mạnh của con người Việt Nam hiện nay: Thứ nhất, trong công
cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện mới của khu vực và thế giới, con người
Việt Nam vẫn luôn gắn bó mật thiết với những giá trị văn hoá truyền thông, với
những phẩm giá của dân tộc mà điểm nổi bật là tinh thần yêu nước, ý thức độc
lập dân tộc, tự lực, tự cường, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Biểu hiện của điểm
mạnh này là thái độ tích cực của mỗi công dân trước vận mệnh của Tổ quốc,
trước các chuyển đổi về kinh tế, xã hội hiện nay. Thứ hai, con người Việt Nam
vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù, sáng tạo trong mọi hoạt động. Đức tính này là
một giá trị đặc trưng, chiếm vị trí xứng đáng trong bảng giá trị về nhân cách của
con người Việt Nam. Thái độ tích cực của con người Việt Nam trong định hướng
và lựa chọn giá trị này là điều kiện hết sức thuận lợi cho công tác giáo dục, từ
giáo dục truyền thống, lối sống đến giáo dục đạo đức, nhân cách con người hiện
đại... nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thứ ba,
nét đặc trưng của đời sống tinh thần, của phẩm giá của con người Việt Nam là



16

truyền thông cộng đồng, lòng nhân ái, nhũng tình cảm vị tha và khoan dung...
vẫn được giữ vừng, phát huy trong điều kiện mới của đất nước. Những giá trị
mang tính nền tảng cốt lõi ấy là cơ sở để phát triển tính nhân văn và xây dựng
văn hoá Việt Nam hiện đại, tiên tiến, mang bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định
rằng, đây là một thuận lợi căn bản để chúng ta thực hiện chương trình văn hoá
trong toàn xã hội đối với các thế hệ con người Việt Nam hiện nay và mai sau.
Thứ tư, con người Việt Nam vẫn giữ được truyền thông hiếu học, tôn sư trọng
đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hoá và con người đã
chứng minh sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại trong thời kỳ đổi mới và
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ năm, trong công cuộc
đổi mới, mô hình gia đình truyền thống đang có những biến đổi lớn, phức tạp do
sự tác động của kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, do những biến đổi của xã
hội đang quá độ lên CHXH... Tuy vậy, những giá trị tinh thần, đạo lý của gia
đình truyền thông vẫn được giữ vững, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống gia
đình Việt Nam, vẫn là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định và phát triển bền
vững của xã hội.
Một số hạn chế trong con người Việt Nam hiện nay. Đất nước chúng ta
chịu ảnh hưởng nặng nề tính phong kiến của Trung Quốc do qua gần một thế kỷ
chịu ách đô hộ của Trung Quốc đã hình thành con người Việt Nam mang tính gia
trưởng nặng nề, chính điều này làm cho sự phát triển về giới chưa được toàn
diện, vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong gia đình và xã hội. Điều này đã
bóp chết sự giải phóng phụ nữ khỏi những công việc nội trợ gia đình, thoát khỏi
tư tưởng nề hà phong kiến để đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Phong cách sản xuất nhỏ biểu hiện trong thói
quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử, nếp suy nghĩ, lề thói làm ăn... của
người Việt Nam vẫn đang là những cản trở không nhỏ đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Những mặt trái của kinh tế thị trường đang
tác động tiêu cực tới sự phát triển con người Việt Nam. Một trong những biểu

hiện rõ nét của xu hướng này là sự suy giảm về mặt đạo đức của không ít người,


17

nhất là lớp trẻ, thậm chí của cả một số cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất.
Cùng với đó là sự xuất hiện các yêu tố tiêu cực khác, như chủ nghĩa cục bộ, địa
phương, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật
chất, xa hoa, lãng phí, sự phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ biểu hiện trong lối
sống, trong cách ứng xử giữa người với người. Những tiêu cực này đang ảnh
hưởng đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta. Vấn đề đặt ra ở
đây chính là vấn đề quan hệ con người trong nền kinh tế thị trường, là ý thức về
trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với những người thân trong gia
đình, đối với cộng đồng và toàn xã hội. Nếu không đặt vấn đề giáo dục truyền
thống, nếu không chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống... một cách đúng mức cả
trong gia đình, nhà trường lẫn xã hội thì tình trạng suy thoái đạo đức chẳng
những không sớm được ngăn chặn, mà còn đứng trước nguy cơ tiếp tục gia tăng.
Ý thức pháp luật còn kém, hiện tượng biết sai vẫn còn, lách luật, chống luật, phá
luật, mù luật. Con người Việt Nam làm việc theo cảm tính không theo một quy
cũ nào, không nhất quán trong công việc, tính độc lập tác chiến cao tuy nhiên
tính làm việc nhóm tổ không tốt. Dẫn đến công việc cứ bị ù nề không nhanh và
giải quyết công việc, vấn đề không tốt. Phương pháp tư duy yếu, điều này bắt
nguồn từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước do công việc phó mặc vào điều kiện
tự nhiên, thời tiết tốt thì được mùa, thời tiết xấu thì mất mùa. Ngoài ra chính nền
nông nghiệp lúa nước đã ảnh hưởng đến con người Việt Nam có năng lực tổ
chức thực tiễn kém. Con người Việt Nam cần cù lao động tuy nhiên tư tưởng dễ
thỏa mãn đã hạn chế khả năng phát huy năng lực của người Việt Nam. Người
Việt Nam thông minh sáng tạo tuy nhiên chỉ giỏi đối phó tình cảnh thiếu tầm
nhìn dài hạn không chủ động. Trong công việc thì khéo léo tuy nhiên không chịu
làm tới cùng chỉ làm cho xong việc không quan tâm kết quả như thế nào. Điều

này cũng ảnh hưởng đến việc học tập nghiên cứu, ít khi học tới nơi tới chốn mặc
dù người Việt Nam rất ham học hỏi và có khả năng tiếp thu nhanh. Dẫn đến kiến
thức không có hệ thống, mất căn bản. Có tinh thần tương thân tương ái song
trong trường hợp khó khăn thì bần hàn. Người Việt Nam có tính hiếu khách tuy


18

nhiên nhiều khi dẫn đến việc hoang phí. Yêu hòa bình nhẫn nhịn song nhiều khi
hiếu chiến hiếu thắng vì những lí do tự ái lặt vặt dễ đánh mất đại cuộc.
3. Phương hướng xây dựng con người Việt nam hiện nay.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã
hội mới. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo lối "vượt trước, đi tắt, đón đầu"
nhất thiết gắn liền với phát triển con người và coi con người là nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta khẳng định lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững..
Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế
thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, nó tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước. Thực chất của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức vừa dựa
trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc
và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn chứng minh, những chính sách kinh tế
của Đảng và Nhà nước ta trong gần 30 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên động lực
kinh tế giải phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xây dựng con người Việt Nam mới.
Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ. Bất kỳ một quốc gia dân

tộc nào, dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định chính trị - xã hội. Bởi
vì, đó là tiền đề để phát triển và tiến bộ xã hội. ổn định chính trị, trước hết thể
hiện sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị hoàn chỉnh.
ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng được đặt ra
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp ngay từ đầu, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới chính trị, nhằm làm cho hệ
thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã


19

hội chủ nghĩa. Đó cũng là quá trình củng cố và phát triển hệ thống chính trị từ
nền tảng kinh tế của nó. Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện
tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Ba là, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục. Ngày nay, cùng với việc
đổi mới công nghệ, phải chú ý đổi mới công tác giáo dục, với phương châm:
"Giáo dục cái mà đất nước cần, chứ không phải giáo dục cái mà ta có". Mặc
khác, giáo dục toàn diện: giáo dục chính trị, giáo dục lao động nghề nghiệp, giáo
dục đạo đức, phải sử dụng nhiều hình thức giáo dục đào tạo đa dạng phong phú,
tạo điều kiện cho con người tự giác, tự giáo dục, chủ động sáng tạo. Đầu tư cho
giáo dục được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản xuất sức lao động, đầu tư
cho tương lai Không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều nước trên thế giới, trong kế
hoạch phát triển đất nước, các quốc gia này đều đặt giáo vào hệ thống ba chiến
lược: giáo dục khoa học và mở cửa.
Có thể nói, ngày nay, sự lạc hậu về giáo dục sẽ phải trả giá đắt trong
cuộc chạy đua ở thế kỷ XXI mà thực chất là chạy đua về trí tuệ và phát triển
giáo dục trong cách mạng khoa học và công nghệ.
Bốn là, mở rộng giao lực quốc tế, Để tạo điều kiện cho con người Việt Nam
sáng tạo tránh được những sai lầm quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến kịp trên con
đường tiến hoá của nhân loại đòi hỏi phải kết hợp việc tổng kết kinh nghiệm trong

nước và kinh nghiệm của thế giới. Không chỉ tìm phương thức, hình thức xây dựng
chủ nghĩa xã hội nội bộ nước mình, dân tộc mình, các nước xã hội chủ nghĩa mà còn
tìm ngay trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tiếp thu có phê phán chọn lọc những giá
trị phong phú của loài người sẽ tạo thành một động lực mạnh mẽ để hình thành từng
bước một chủ thể mới của lịch sử - con người Việt Nam mới vừa mang bản chất giai
cấp công nhân, vừa đại biểu cho sự phát triển của dân tộc. Và chắc chắn rằng "Thế
kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng với
các nước phát triển trên thế giới".


20

KẾT LUẬN
Triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng và hiện đại đã đưa vấn đề con người
thành vấn đề quan trọng trong triết học. Nó là phát đại bác tiếp tục khẳng định vị
trí, vai trò của con người trong triết học. Đồng thời nó là cơ sở cho triết học Mác
–Lênin đi sâu nghiên cứu vấn đề con người sau này.
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần
đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi
liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là
nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn
nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn
thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ
một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi
của chính con người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày nay.
Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí tuệ và

phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


21

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử triết học, GS,TS. Nguyễn Hữu Vui, Nxb CTQG, H.2004
2. Triết học hỏi và đáp, Trường Đại học quốc gia Lômônôxốp, GS. E.E
Nexmeyanov, Nxb Đà Nẵng.2002
3. Lịch sử triết học, PGS.Vũ Ngọc Pha, Nxb Thống kê.2004
4. Giáo trình triết học ( dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb Lý Luận Chính trị.2006
5. Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
H.1987
6. Đại cương lịch sử triết học, Nxb Thống kê. 1997
7. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI,VI,VII, IX, X, XI Nxb CTQG, HN, 2001



×