Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học TRIẾT học mác, bước NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG LỊCH sử TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.03 KB, 19 trang )

2

MỞ ĐẦU
Triết học Mác xuất hiện vào những năm giữa và cuối thế kỉ XIX. Sự xuất
hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp qui luật biện
chứng, khách quan và qui luật phát triển tư duy với sự sáng tạo thiên tài của các
nhà sáng lập - Mác và Ăngghen. Sự ra đời là do những đòi hỏi bức thiết của điều
kiện về kinh tế - xã hội, lý luận và khoa học trong xã hội tư bản lúc bấy giờ chứ
hoàn toàn không phải là một điều gì đặc biệt hay một sự độc thoại và tự dành cho
mình quyền được áp đặt sự phát ngôn chân lý cuối cùng như các học giả tư sản
thường tuyên truyền. Chúng ta thấy rằng đã có sự hiện diện của các tiền đề về mặt
kinh tế - xã hội, lý luận và khoa học tự nhiên tạo điều kiện thuận lợi và cấp thiết
cho sù ra đời của triết học Mác. Triết học Mác thực sự đã là sự kết tinh tất cả
những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn học và các khoa học khác của lịch
sử nhân loại vào thời điểm ra đời đó. Đặc biệt triết học Mác - khác với các triết
học trước hết - là sự tiếp thụ và kế thừa một cách có chọn lọc, có tính phê phán
những tư tưởng triết học của nhân loại nói chung và của nền triết học cổ điển Đức
nói riêng, đồng thời tiếp thu kế thừa cả các di sản của các khoa học khác một ách
hết sức sáng tạo. Hơn thế nữa sự ra đời của triết học Mác còn là một bước ngoặt
cách mạng, là đỉnh cao trong sù phát triển lý luận triết học. Chính triết học Mác đã
mở ra một thế giới quan và phương pháp luận hoàn toàn mới mẻ, tiến bộ và khoa
học cho toàn nhân loại nói chung và cho giai cấp vô sản nói riêng. Và tiếp theo
đến lượt nó triết học Mác lại tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển toàn diện
của các lĩnh vực khoa học và đời sống xã hội, đưa nhân loại bước vào một kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên phát triển “sau triết học Mác”. Vì vậy tác giả nghiên cứu
vấn đề “ Triết học Mác - bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết
học.” cho bài tiểu luận của mình.


3


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRIẾT HỌC MÁC
1. Khái lược về lịch sử triết học
Triết học Triết học là hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những
nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là
khoa học về những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học
xuất hiện từ khi chế độ chiếm hữu nô lệ thay thế cho chế độ xã hội nguyên thủy.
Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trường phái và hệ
thống khác nhau. Những hệ thống và trường phái này phản ánh trình độ phát triển
về kinh tế – xã hội, chính trị và tri thức khoa học tự nhiên của các nước ở các thời
kỳ. Sự phản ánh đó tuỳ thuộc vào lập trường của các giai cấp nhất định, giai cấp
tạo nên các trường phái triết học.
Việc phân kỳ lịch sử triết học dựa vào: Học thuyết hình thái kinh tế xã hội
là cơ sở quan trọng cho phân kỳ lịch sử triết học; Đặc điểm của các vùng, các dân
tộc sản sinh ra Triết học; Tính độc lập tương đối của Triết học; Bản chất của các
học thuyết triết học tạo ra được những cột mốc lớn lao trong sự phát triển của triết
học. Dựa trên những định hướng trên, việc phân kỳ được chia ra các giai đoạn sau: Triết học cổ đại - Triết học trung đại - Triết học phục hưng - Triết học cận đại - Triết
học cổ điển Đức - Triết học Mác – Lênin - Những trào lưu triết học tư sản hiện đại
Lịch sử triết học còn có thể được phân kỳ theo lãnh thổ, thời kỳ như sau: - Triết học
phương Đông cổ - trung đại - Triết học phương Tây cổ , trung - cận và hiện đại
Vấn đề cơ bản của triết học: Khi nghiên cứu các hệ thống, các trường phái
triết học, chủ nghĩa Mác cho rằng “vấn đề cơ bản” hay “vấn đề tối cao” của triết
học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và thế giới tự nhiên.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Mặt thứ nhất, vật chất hay ý thức, tự nhiên
hay tinh thần cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào? - Đây
là vấn đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết. Các học
thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều đó
tuỳ thuộc vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này. Các hệ thống triết học thừa nhận
tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có trước; ý thức, tinh thần, tư duy là cái có sau, đó
là chủ nghĩa duy vật. Còn các hệ thống triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại
là cái có sau là trào lưu duy tâm. - Các nhà duy vật với tư cách là các nhà tư tưởng



4

của các lực lượng xã hội tiến bộ thường lấy những thành tựu, kết quả của khoa học
thực tiễn tiến tiến làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà duy tâm
luôn gắn với tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những luận cứ triết học duy
tâm. Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không? Hay nói một
cách khác, ý thức chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan không?
2. Những tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác
Triết học Mác ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX, duy trì và phát triển cho đến
ngày nay. Hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã
hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
Điều kiện kinh tế - xã hội Triết học Mác ra đời vào thời kỳ chủ nghĩa
phong kiến sụp đổ và chủ nghĩa tư bản lớn mạnh ở một số nước châu Âu và Bắc
Mỹ. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển đạt đến trình
độ khác về chất so với lịch sử trước đó. Sự củng cố và phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp Vào những năm
40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp làm cho lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước
Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công
nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng
cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã
hội gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã
hội tăng. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử Giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp
tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn

mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Trong thời
kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển chuyển biến từ tự phát
sang tự giác một cách mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã
trở thành cuộc khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng đã thu hút sự chú ý
của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, và dẫn dắt C.Mác


5

và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp –
xã hội và những triển vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp. Trong hoàn cảnh lịch
sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp
giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như
trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến quá non
trẻ, đi thỏa hiệp với tầng lớp quý tộc chống lại giai cấp vô sản, phong trào công
nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ
xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân
chủ, tiến bộ xã hội thì cần phải có thế giới quan duy vật khoa học. Rõ ràng những
cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu những
năm 30 - 40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có những tiền
đề xã hội - giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi
đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới – triết học Mác. Sự xuất hiện của giai
cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo ra nguồn tư
liệu quý báu về thực tiễn xã hội để C.Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng
những quan điểm triết học.
Nguồn gốc lí luận Để xây dựng học thuyết của mình C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học
Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của

triết học Mác. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học
Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học
thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa
đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học
Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần
quan điểm duy vật. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của
Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện
chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu
hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ
nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học


6

mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Smít
và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là
tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học. Chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và S.Phuriê là một trong ba
nguồn gốc lí luận của triết học Mác. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những quan
điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (quan điểm về vai trò của
nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v...) và khắc phục tính không
tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật
lịch sử. Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu
không chỉ trong triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và
kinh tế chính trị học Anh.
Tiền đề khoa học tự nhiên, Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học
tự nhiên nói riêng có mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải
dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học
có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.

Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế bào, thuyết
tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế
giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ
rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện
chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong
tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học.
Với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để C.Mác và
Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng phép biện chứng duy vật. Chủ nghĩa Mác ra đời
trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật của khoa học và triết học mà
nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là kết quả của các phát hiện của C.Mác
và Ph.Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự phát triển thế giới.
Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác. Triết học Mác xuất
hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát triển tất yếu từ các nhân tố có


7

tính chất tiền đề khách quan về phương diện kinh tế - xã hội, lý luận và khoa học tự
nhiên như đã dẫn ở trên mà còn là kết quả của sự vận động và phát triển của nhân tố
chủ quan. Đó là thiên tài của Mác và Ăng ghen, lập trường giai cấp vô sản và tình
bạn vĩ đại của hai ông. Lê nin chỉ rõ rằng: “Thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã
giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra”. C. Mác
ngoài với tư cách là một nhà khoa học vĩ đại còn là một nhà cách mạng nồng
nhiệt. Ông coi khoa học trước hết là một động lực cách mạng, triết học phải góp
phần thúc đẩy sự nghiệp tổ chức phong trào công nhân và cuộc đấu tranh cách
mạng nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, dành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Ông có
một trí tuệ uyên bác đặc biệt, có sự nhạy cảm chính trị và tầm nhìn rộng lớn bao
quát mọi lĩnh vực và ở nhiều lĩnh vực ông đã đưa ra được những kết luận thiên tài.

C. Mác đã tìm được ở Ăngghen một người cùng tư tưởng, một người bạn, người
đồng chí trung thành, người trợ lực gắn bó mật thiết trong sự nghiệp khoa học và
đấu tranh cách mạng. Nói về tình bạn vĩ đại này Lênin viết: " Giai cấp vô sản châu
âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà bác học
kiêm chiến sĩ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì làcảm động nhất trong những
truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”.
Tóm lại: Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác đã ra đời như một
tất yếu lịch sử, không những vì nó là là sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực
tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà còn là sự phát triển hợp lôgíc của lịch
sử tư tưởng nhân loại.
3. Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác
Sự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua một quá trình. Quá
trình trải qua các giai đoạn sau: Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng
ghen từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản
chủ nghĩa; giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lí luận triết học; giai
đoạn Lênin bảo vệ hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác.
Chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm, dân
chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật, cộng sản chủ nghĩa


8

Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác C.Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh
trưởng trong một gia đình trí thức ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, vùng có nhiều
ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp. Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia
đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã giúp C.Mác hình thành tinh thần
nhân đạo và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất đó không ngừng được bồi dưỡng và
đã trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa C.Mác tới chủ nghĩa dân
chủ cách mạng. Trong thời gian học ở khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Béc lin

(1836 - 1841) ông say mê nghiên cứu triết học, nhằm giải đáp vấn đề giải phóng
con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 C.Mác tập trung nghiên
cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”. Sau khi việc xuất bản một
tạp chí với tên gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần” không được thực hiện vì nhà
nước phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ cách
mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động
chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân
chủ; đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này,
trong tư tưởng của C.Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh
thần dân chủ cách mạng và vô thần. Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi
C.Mác làm việc ở báo Sông Ranh (1942). Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho
tư tưởng dân chủ cách mạng ở C.Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho
lợi ích của quần chúng lao động. Lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa hình
thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân
đạo. Với tinh thần đó, ông tập trung phê phán các chính sách của nhà nước Phổ, đó
chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê
phán C.Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của tinh
thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh. Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng
muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế đã giúp C.Mác hình
thành khuynh hướng duy vật, nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc
này tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm
tư biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843), C.Mác đặt cho mình nhiệm
vụ duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết về xã
hội và nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong khi thực hiện phê


9

phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học Phoi Ơ Bắc. Song

với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những
vấn đề chính trị nóng hổi của Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen,
việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân
văn của triết học Phoi Ơ Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong
quan điểm triết học của C.Mác. Cuối tháng 10 - 1843, C.Mác sang Pari. Ở đây,
không khí chính trị sôi sục và tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn
đến bước chuyển biến dứt khoát quan điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa cộng sản. Trong bài báo “lời nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác đã phân tích một cách sâu sắc theo quan
điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản chỉ là “cuộc cách
mạng bộ phận”; đồng thời ông khẳng định, chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp vô
sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. C.Mác nêu rõ: “Giống như triết
học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy
triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Với bài báo này và một số bài báo khác
đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành
quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Các Mác.
Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen Ph.Ăngghen sinh ngày 28-111820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh Ranh. Việc nghiên cứu triết học
trong thời gian ở Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã hướng ông đi vào con
đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchestơ (Anh) từ mùa
thu 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực
tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế
giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Năm 1844 trên
tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài báo: "Bản thảo góp
phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh". Các
tác phẩm đó cho thấy ở Ph.Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản đã
hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc lập với C.Mác. Trong các bài báo này, ông
đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản
để phê phán kinh tế chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.



10

Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa
C.Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển
một thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản. Năm 1844 qua tác phẩm "Bản
thảo kinh tế - triết học" C.Mác tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Hêghen,
đồng thời cũng vạch ra mặt tích cực của nó là phép biện chứng. C.Mác thông qua
phân tích sự tha hóa của lao động đã cắt nghĩa: Sở hữu tư nhân trong xã hội tư bản
trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và của con người, biến sức lao
động trở thành hàng hóa. C.Mác chỉ rõ: Muốn khắc phục sự tha hóa ấy phải xóa bỏ
chế độ chiếm hữu tư nhân. Việc giải phóng người công nhân khỏi sự tha hóa là sự
giải phóng con người nói chung. Trong tác phẩm này C.Mác đã luận chứng cho
tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận
chứng này chưa chín muồi về mặt lý luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm
của C.Mác về chủ nghĩa cộng sản với những quan niệm của chủ nghĩa bình quân
vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản không tưởng. Theo C.Mác, chủ nghĩa
cộng sản dựa trên sự phát triển cao của nền sản xuất xã hội là nấc thang lịch sử cao
hơn chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" do C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung năm 1845 đã nêu rõ phê phán của hai ông đối với "phái
Hêghen trẻ" đứng đầu là anh em nhà Bauơ về quan điểm lịch sử. Hai ông đã trình
bày một số nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
như: Quan điểm về vai trò của sản xuất vật chất đối với xã hội, v.v. Năm 1845 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức". Thông qua
việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai ông đã trình bày
quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung của tác phẩm đã trình bày
rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên của
toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống,
đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên
của họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã hội phải

xuất phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ hệ thống quy
luật vận động và phát triển của xã hội loài người. Trong thời gian này C.Mác viết
tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc" (8/1845) nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là:
vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội. Đồng thời cũng đưa ra


11

quan điểm về bản chất của con người: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa của các quan hệ xã hội". Với tác phẩm "Luận cương về
Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã
hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển
tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ
nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là một hệ quả trực tiếp của quan niệm
duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản chưa được diễn đạt thành luận điểm
cụ thể. Song, một điều quan trọng là C.Mác và Ăngghen đã xây dựng phương
pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản. Năm 1847, C.Mác viết
tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học". Ở đây ông trình bày tiếp các nguyên lý
của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và trình bày các luận điểm để viết tác
phẩm tư bản. Năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng
sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của phong
trào cộng sản thế giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới quan mới, chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với tác phẩm Tuyên ngôn
cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành và sẽ được
C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển trong thời gian sau.
Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung - phát triển lý luận triết học. Từ
sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được phát triển trong
sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai ông là lãnh tụ. Bằng
hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản từ
tự phát thành phong trào tự giác; chính qua đó, học thuyết triết học của hai ông

không ngừng được phát triển. C.Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong
trào đấu tranh cách mạng để khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và
phát triển lý luận. Điều đó được biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như:
"Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gôta".
Đặc biệt qua bộ Tư bản, ông đã trình bày những tất yếu phát triển của nền sản xuất
xã hội, lịch sử thay thế các hình thái kinh tế xã hội v.v. Trong khi đó, Ph.Ăngghen
đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác phẩm như: “Chống Đuyrinh”, “
Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”v.v.. Trong các tác phẩm đó, ngoài việc phê phán các quan điểm triết học duy


12

tâm, siêu hình và duy vật tầm thường, ông đã trình bày học thuyết triết học Mác dưới
dạng hệ thống lý luận hoàn thiện hơn.
Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác. Chủ nghĩa Mác và triết
học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh nó đã trực tiếp đi vào đời
sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Vì thế, nội dung của nó
được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc châu Âu, trong đó có nước
Nga. Nhưng sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế giới có
nguy cơ bị những người của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những người
này tuyên truyền những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác nói
chung và triết học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời
cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX. Những năm cuối thế kỷ
XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên có những phát minh mới, nhất
là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử làm đảo lộn căn bản quan niệm vật
lý học cổ điển, dẫn tới "cuộc khủng khoảng vật lý". Lợi dụng tình hình đó, chủ
nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan) công kích chủ
nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907 thất bại,
những người theo chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ "bảo

vệ chủ nghĩa Mác" để xuyên tạc triết học Mác. Do vậy, Lênin đã viết hàng loạt các
tác phẩm như: "Những người bạn dân là thế nào" và "Nội dung kinh tế của chủ
nghĩa dân túy", "Sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruve", để vạch trần bản
chất phản cách mạng của bọn dân tuý Nga và phê phán những luận điểm duy tâm
chủ quan về lịch sử của họ. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin đã bảo vệ chủ nghĩa
Mác và còn làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình
thái kinh tế xã hội. Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những
người theo chủ nghĩa Ma Khơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở
Nga. Trong tác phẩm, Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa
học mới nhất. Lênin xây dựng định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết
học, đồng thời còn làm rõ thêm nhiều vấn đề về lý luận nhận thức mác xít. Năm
1914 - 1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt quan tâm nghiên


13

cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy
vật, nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Thông qua
đó, Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng 1917. Tinh thần sáng tạo của tư
duy biện chứng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà nước nước, bạo lực cách
mạng, chuyên chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới. Lênin đã là tấm gương mẫu
mực trong việc bảo vệ và phát triển triết học Mác. Với tinh thần biện chứng duy
vật, xem chân lý là cụ thể, có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với
một quan điểm nào đó của mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ
biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát
triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi
của Lênin và từ đó triết học Mác mang tên triết học Mác - Lênin.

II. BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
TRIẾT HỌC
1. Cuộc cách mạng trong lĩnh vực Triết học
Trước C.Mác, tất cả các học thuyết triết học chỉ nhằm giải thích thế giới
chứ không thể cải tạo thế giới. Học thuyết Mác ra đời đã trở thành công cụ cải tạo
thế giới, đã giải thích thế giới theo tính duy vật triệt để, phát hiện được các nguyên
lý vận động cơ bản của xã hội (mà về sau những người không hiểu nổi học thuyết
này cho rằng nó là do các nhà khoa học tư sản phát hiện ra). Đó là nguyên lý điều
chỉnh về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (là do quan hệ lợi ích), nguyên lý về
sự phát triển, nguyên lý về mối quan hệ phổ biến, 3 qui luật, 6 cặp phạm trù trong
phép biện chứng duy vật... Học thuyết Mác đã làm thay đổi nhận thức con người
về thế giới. Ví dụ: Các vấn đề nguồn gốc bản chất nhà nước là gì? Vật chất và ý
thức có quan hệ như thế nào, con người có nhận thức được thế giới hay ko? ... triết
học Mác đều đã giải quyết triệt để theo tinh thần duy vật biện chứng. Triết học
Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện chứng là phép biện chứng
duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự tách rời thế giới quan duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong chủ
nghĩa duy vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể


14

hiện tinh thần biện chứng; song, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và trình độ
phát triển của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của nó.
Do vậy, quan điểm duy vật của những học thuyết đó thường thiếu triệt để. Đây là
điểm yếu để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn phép
biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu trong triết
học của Hêghen. Cho nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh đúng thế
giới hiện thực. C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục

hạn chế siêu hình; cải tạo phép biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy tâm. Từ đó
khái quát xây dựng một học thuyết triết học mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã hội; song,
do hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học thuyết đó mới chỉ
nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc lĩnh vực kia mà chưa nghiên cứu toàn diện mọi
mặt của xã hội. Do vậy không thể nào tìm ra được quy luật phát triển chung của xã
hội loài người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng những lý luận của duy vật biện
chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã
hội loài người và tiến trình phát triển tất yếu tự nhiên của nó. Từ đó xây dựng,
sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là bộ phận của triết học Mác.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Đó là
một cuộc cách mạng thực sự trong triết học. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra
đời đã loại bỏ được cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm. Những học
thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc giải thích thế giới,
cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý luận, lý luận
thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình trạng rơi vào quan
điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con
người là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật,
chưa phải con người với tính cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Còn triết
học Mác đã xác định rõ: Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở giải thích thế
giới mà chủ yếu là tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng
cách mạng. Triết học Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế
giới của con người là điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để
hoàn thiện hệ thống lý luận của mình. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
triết học Mác đã tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý luận


15

xuất phát từ thực tiễn, chịu sự quyết định của thực tiễn; khi ra đời, lý luận định

hướng hoạt động thực tiễn. Vì thế, so với các học thuyết triết học khác thì triết học
Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện.
2. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do C.Mác –
Ph.Ăngghen thực hiện.
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển của nhân loại.
Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư
duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với
chủ nghĩa duy tâm siêu hình.
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong các học thuyết triết
học duy vật trước Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện
tinh thần biện chứng, song do sù hạn chế của điều kiện xã hội và trình độ phát triển
của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của chủ nghĩa duy
vật triết học trước Mác. Trong khi đó, phép biện chứng lại được phát triển trong
cái vỏ duy tâm thần bí của mét sè đại biểu triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong
triết học của Hêghen. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là sự
“lắp ghép” giữa phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật của Phơbach,
mà để xây dựng nên triết học duy vật biên chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa
duy vật cũ lẫn phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đúng như Mác nói: “Phương
pháp biện chứng của tôi không những khác với phương pháp của Hêghen về cơ
bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp Êy nữa...”. Giải thoát chủ nghĩa duy vật
khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và
mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội
loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học”. Đó là một cuộc cách mạng thực sự trong triết học về xã hội, yếu tố chủ
yếu của bước ngoặt cách mạng do Mác vàĂngghen thực hiện trong lĩnh vực triết
học.



16

Với sự ra đời của triết học Mác, Vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí
của triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi. Lần đầu tiên trong
lịch sử triết học của nhân loại, triết học Mác đã khai phá ra bản chất của thực tiễn,
đặc biệt là thực tiễn cách mạng. Chỉ ra vai trò của thực tiễn đối với lý luận nhận
thức, đối với sự phát triển của tất cả các khoa học, đối với tiến trình lịch sử nói
chung. Cho nên sự khác nhau cơ bản giữa triết học Mác với tất cả những học
thuyết triết học trước kia là ở chỗ “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng
nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Luận điểm này của Mác đã
nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết học
trước đó, kế cả những học thuyết triết học duy vật trước Mác. Tuy nhiên, Mác
không hề phủ nhận, mà trái lại Mác đánh giá cao vai trò của các nhà triết học và
các học thuyết triết học tiến bộ trong sù phát triển của xã hội. Chẳng hạn, Mác rất
khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa vụ thần chiến đấu của cácnhà duy vật
Pháp thế kỷ XVII-XVIII. Song, khuyết điểm chủ yếu của mọi học thuyết duy vật
trước Mác là chưa có qua điểm đúng đắn về thực tiễn và chưa thoát khỏi quan
điểm duy tâm về lịch sử xã hội nên các học thuyết đó chưa trở thành công cụ nhận
thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Triết học Mác đã khắc phục
được những hạn chế đó, đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm cho chủ nghĩa duy
vật trở thành triệt để.
Từ việc thấy rõ vai trò của thực tiễn mà triết học Mác có đặc tính sáng tạo.
Nó khẳng định thực tiễn luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng, do đó tư
duy của con người phản ánh chóng còng phải mềm dẻo, năng động và luôn luôn
không ngừng đổi mới. Ngưng đọng trì trệ, bảo thủ, giáo điều đều trái với tính phê
phán có tính chất cách mạng của triết học Mác.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến
bộ và cách mạng nhất, mét giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân
dân lao động và sự phát triển của xã hội. Sự kết hợp lý luận chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào: đi tự tự

phát lên tự giác. Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì
sự thống nhất tính khoa học với tính cách mạng trong bản thân tính lý luận của nó.
Sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết


17

học Mác xít mang tính cách mạng sâu sắc nhất, “vì trong quan niệm tích cực về
cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời còng bao hàm luôn cả quan niệm
về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình
thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sù vận động, tức là xét cả
mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái
gì cả, và về thực chất thì nó có tính phê phán và cách mạng”. Sức mạnh “cải tạo
thế giới” của triết học Mác xít chính là sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản cách mạng và quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý
luận “trở thành lực lượng vật chất”.
3. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện.
Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí
của triết học trong hệ thống trị thức khoa học có thay đổi căn bản. “Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau song vấn đề là cải tạo thế
giới”, luận điểm đó của C.Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học Mác với
các học thuyết triết học trước kia, kể cả những học thuyết triết học tiến bộ. Tuy
vậy, C.Mác không hề phủ nhận, trái lại C.Mác đã đánh giá cao vai trò to lớn trong
sự phát triển xã hội. Chẳng hạn, C.Mác khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa
vô thần triết học của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII. Song, mặt hạn chế về tính
thực tiễn là “khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước C.Mác nên
nó chưa trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng.
Nay nó đã được C.Mác khắc phục, vượt qua và đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để. Khi ra đời, triết học Mác đã trở thành

thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, và là cơ sở lý luận khoa học để nhận
thức thực tiễn xã hội; từ đó định ra được đường lối chiến lược và đề ra những biện
pháp đấu tranh cải biến xã hội có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác
với phong trào vô sản đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình
độ tự phát lên tự giác. Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại
hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan
trọng tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Triết học
Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp tiến bộ và


18

cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân
lao động và với sự phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển về chất của phong trào, từ trình độ
tự phát lên tự giác. Phép biện chứng mác xít mang tính cách mạng sâu sắc nhất “vì
trong quan niệm tích cực về cái hiện tồn, phép biện chứng đồng thời bao hàm cả
quan niệm về sự phủ định cái hiện tồn đó, sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình
thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả
mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái
gì cả về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mangj”. Sức mạnh “cải tạo
thế giới” của triết học mác xít chính là sự gắn bó mật thiết cuộc đấu tranh cách
mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận “sẽ trở thành lực lượng
vật chất” Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy
tâm coi triết học là “khoa học của các khoa học” đứng trên mọi khoa học. C.Mác
và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành
tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Theo Ăngghen, mỗi lẫn có một phát
minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy
vật không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của nó. Ngược lai, Triết học Mác lại
trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát

triển của các khoa học. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng
tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại phải phát triển lý
luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại.
Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa học
khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối
tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển.

KẾT LUẬN
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là
cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện


19

chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm
nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó
lại hết sức phức tạp. Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách
mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học
của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã
kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người
nhân thức đúng và cải tạo thế giới. Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý
nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại,
sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy
tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo cả
chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc
cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của
bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình triết học Mác – Lenin (Dùng trong
các trường đại học và cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.


20

2. Giáo trình triết học Mác - Lênin (Chương trình cao cấp), Nxb Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. 5. 6.
4. Giáo trình triết học ( dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb Lý Luận Chính trị.2006
5. Lịch sử triết học, GS,TS. Nguyễn Hữu Vui, Nxb CTQG, H.2004
6. Triết học hỏi và đáp, Trường Đại học quốc gia Lômônôxốp, GS. E.E
Nexmeyanov, Nxb Đà Nẵng.2002
6. Lịch sử triết học, PGS.Vũ Ngọc Pha, Nxb Thống kê.2004
7. Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
H.1987



×