Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

BÁO CÁO THỰC TẾ “CON ĐƯỜNG DI SẢN MIỀN TRUNG”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN VÀ XÃ HỘI

BÁO CÁO THỰC TẾ
“CON ĐƯỜNG DI SẢN MIỀN TRUNG”

Sinh viên thực hiện : Hoàng Thị Diệp Linh
Lớp
: ĐH QLVH 14A
Người hướng dẫn : Ths. Trần Thị Phương Thúy
Ths. Nghiêm Xuân Mừng

Hà Nội, tháng 6 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Thực hiện phương châm “ Học đi đôi với hành ” bằng hình thức học trên
giảng đường và đi thực tế. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội – Khoa Văn hóa
Thông tin và Xã hội đã tổ chức chuyến đi thực tế các điểm di tích dọc miền
trung nhằm trang bị cho sinh viên kỹ năng sống và việc quản lý, thực trạng tại
các di tích.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn đến nhà trường đã tạo điều kiện để tôi
khảo sát thực tế để có cơ sở củng cố kiến thức. Tôi xin chân thành cảm ơn cô
Trần Thị Phương Thúy, thầy Nghiêm Xuân Mừng đã nhiệt tình hướng dẫn, giảng
dạy và trau dồi kiến thức chuyên môn cho tôi để phục vụ chuyến đi thực tế này.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn ban quản lý tạo điều kiện giúp đỡ chúng tôi. Qua đợt
kháo sát này, tôi đã thêm phần nào kinh nghiệm học tập trong công việc và bài
tập bổ ích.
Trong quá trình làm báo cáo không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai
xót. Vì vậy, tôi rất mong giáo viên đóng góp ý kiến để bài cáo cáo của tôi được
hoàn chỉnh hơn nữa.




LỜI CAM ĐOAN
Đây là bản báo cáo, công trình nghiên cứu độc lập của tôi trong quá trình
thực hiện đề tài. Vì vậy, mọi nội dung làm báo cáo tôi sẽ đảm bảo, nếu trong quá
trình làm bài có gì sai xót tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN


Phần 1
LỊCH TRÌNH THỰC TẾ
Ngày
Ngày 27 tháng 5
Ngày 28 tháng 5

Ngày 29 tháng 5

Ngày 30 tháng 5

Ngày 31 tháng 5

Ngày 1 tháng 6

Thời gian và lịch trình tham quan Ghi chú
- Rời Hà Nội từ 20h 30p bắt đầu
cuộc hành trình

- 9h ăn sáng tại Huế và tiếp tục
chuyến đi đến Đà nẵng
- 11h đi ăn trưa và di chuyển về
khách sạn Á Đông, Sơn Trà, Đà
Nẵng nghỉ ngơi
- 15h tham quan bảo tàng nghệ thuật
điêu khắc Chăm
- 17h tắm biển tại bán đảo Sơn Trà,
sau đó 19h đi ăn tối, trở về phòng
nghỉ ngơi để tiếp tục chuyến đi ngày
hôm sau.
- 7h ăn sáng tại khách sạn, sau đó
chuẩn bị đến cơ sở Trường Đại học
Nội vụ phân hiệu tại Quảng Nam,
tham gia văn nghệ, giao lưu. Tiếp tục
ăn trưa tại đó và về khách sạn nghỉ
ngơi
- 15h tham quan Làng Đá đến 17h,
rời đến Hội An tham quan khoảng 2h
trở về ăn tối, nghỉ ngơi
- 7h ăn sáng tại khách sạn, sau đó 8h
tham quan chùa Linh Ứng và về ăn
trưa, kết thúc cuộc hành trình tham
quan các điểm tại Đà Nẵng
- Tiếp tục cuộc hành trình ra Huế,
14h điểm đầu tiên tham quan tại Huế
là Lăng Khải Định sau đó về nhận
phòng – Khách sạn Bảo Sơn 1
- 19h ăn tối tại Huế và nghỉ ngơi
- 8h đi Đại Nội – Kinh Thành Huế

- 12h ăn trưa và về phòng nghỉ ngơi
- 16h đến tham quan tại Chùa Thiên
Mụ
- 17h về ăn tối và nghỉ ngơi
- 7h có mặt tại Thành cổ Quảng Trị,
viếng các liệt sĩ
- 11h ăn trưa và di chuyển đến điểm
5


cuối cùng tại nơi an nghỉ của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp lúc 13h
- Sau đó, rời Quảng Bình về Hà Nội
- 19h ăn tối tại Thanh Hóa và về đến
Hà Nội 22h 30p. Kết thúc cuộc hành
trình tham quan dọc miền trung.

Phần 2
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐỊA ĐIỂM THAM QUAN
2.1. Lăng Khải Định
2.1.1. Khái quát về Lăng Khải Định
Lăng Khải Định, còn gọi là Ứng Lăng là lăng mộ của vua Khải Định
(1885-1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, toạ lạc trên triền núi Châu Chữ
(còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế, nay thuộc xã Thủy Bằng, thị xã
Hương Thủy, thành phố Huế. Lăng được khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 do
Tiền quân Đô thống phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy và kéo dài suốt 11 năm
mới hoàn tất. Tham gia xây dựng lăng có nhiều thợ nghề và nghệ nhân nỏi tiếng
khắp cả nước. Để có thể xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ
cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng. So
với lăng của các tiền nhiệm, lăng có diện tích nhỏ hơn với kích thước 117m x

48,5m nhưng lại công phu và tốn thời gian. [ 4, internet ]
Lăng Khải Định là một trong những lăng đẹp nhất nằm trong hệ thống di
tích lịch sử văn hóa cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa
6


thế giới.
2.1.2. Hiện trạng về Lăng Khải Định
Lăng Khải Định là nơi giữ gìn cẩn thận, là sự tổng hòa có kiến trúc đẹp vì
vậy mà người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời
Nguyễn bởi cái độc, lạ, ngông nghênh. Lăng có khối hình chữ nhật cao 127 bậc
có sự đan xen kiến trúc Ấn Độ, phật giáo, roman,... như cổng tháp – kiến trúc
Ấn độ, trụ Stupa – phật giáo, nhà bia với cột bát giác và vòm cửa – Roman.
Bước vào lăng là 1 cổng chào uy nghiêm với 37 bậc thang được đắp
tượng rồng rất lớn. Bước sâu vào thêm 29 bậc cấp nữa là đến sân Bái Đình với
hai bên sân là hai hàng tượng lính bằng đá hiếm và đều có khí sắc đứng hướng
mặt vào giữa sân.Bi Đình hình bát giác xây bằng bê tông cốt thép, hai bên hình
trụ ảnh hưởng kiến trúc phật giáo.Bia đá trong bị đình ghi về cuộc đời và sự
nghiệp của vua Khải Định. Nói về cung Thiên Định là kiến trúc chính của lăng.
Toàn bộ nội thất trong cung đều được trang trí từ những phù điêu ghép bằng
sành sứ và thủy tinh. Đó là bộ tranh tứ quý bát cửu, ngũ phúc, vương miện,
khay trà,...cùng những hiện vật hiện đại như đồng hồ bao thức, đèn dầu hỏa,..
cũng được trang trí. Phía trước là điện Khải Thành nơi có án thờ và chân dung
vua Khải Định, hai bên tả hữu là Trực phòng dành cho lính hộ tăng. Chính giữa
là bửu tán, pho tượng nhà vua ở trên và phần mộ phía dưới, trong cùng là khám
thờ bài vị của vua.
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định đúc tại Pháp năm
1920, thi hài nhà vua được đặt dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30m,
bắt đầu từ sau Bi Đình. Sau ngôi mộ là vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái
chết của vua. Trên trần là bức vẽ “ Cửu long ẩn vân ” được trang trí giữa 3 gian

gian trong cung Thiện Định.
2.1.3. Công tác quản lý Lăng Khải Định
Qua nhiều năm, Lăng Khải Định phần nào giữ được nét hồn riêng có cùng
công trình kiến trúc đẹp đẽ này. Cùng công tác quản lý di tích đã thể hiện sự
nghiêm túc trong vấn đề bảo tồn, bảo quản di tích nơi đây.
Khách tham quan sẽ được hướng dẫn mua vé vào Lăng Khải Định. Khác
7


với các di tích khác có nhiều bảo vệ thì lăng Khải Định chỉ có vài ba người đứng
bảo quản, nhắc nhở mọi người tham quan. Có thể thấy rằng, vấn đề quản lí trật
tự ở đây cũng được xây dựng nghiêm túc thông qua việc bỏ mũ trước khi vào
lăng, nói nhỏ nhẹ làm cho môi trường trong lăng trở lên yên tĩnh, nhẹ nhàng và
bình yên.
Chính vì là nơi chôn cất thi hài của vua nên mọi công tác cũng được bảo
vệ an toàn, từ vấn đề vệ sinh cho đến việc an toàn, an ninh, bảo quản di tích.
Cảnh quan môi trường sạch sẽ thoáng đãng.
Nếu so với năm trước, công tác quản lý vẫn còn chưa làm đúng trách
nhiệm. Điển hình trong dịp mung 2 tháng 9 có nhiều người đến thăm Lăng đã
xâm hại đến di tích. Lợi dụng việc ban quản lý mở cửa tự do tham quan lăng
miễn phí trong dịp lễ Quóc Khánh, nhiều người đã tự ý leo trèo lên hiện vật
trong lăng, để đồ bừa bãi la liệt. Nhiều thợ ảnh đã tiếp tay cho người tham quan
bằng cách hướng dẫn cho khách tháo dây baỏ vệ ghế ngồi lên đó và chụp ảnh.
Thời điểm này, các thợ ảnh được ban quản lý bảo tồn cố Đô Huế cho phép hành
nghề tại Lăng, các thợ này lẽ ra phải bảo tồn nhưng ngược lại, họ cố tình vì lợi
ích cá nhân mà xâm hại di tích. Không chỉ vậy, có nhiều ngời còn leo trèo lên
các pho tựơng, sờ vào hiện vật mà khong có nhân viên bảo vệ nào đến ngăn
chặn hành vi thiếu ý thức này.
Thời gian vừa qua cũng cho thấy, công tác quản lý cũng làm tốt vai trò
của mình, đã có sự nhắc nhở đến du khách trong và ngoài nước. Vì vậy, mà mọi

người có ý thức hơn việc bảo tồn di tích, khiến cho lăng mộ trở nên trang
nghiêm hơn, sạch sẽ hơn.
2.1.4. Một số giải pháp giúp quản lý, bảo tồn phát huy giá trị Lăng Khải
Định
2.1.4.1. Tuyên truyền cho du khách hiểu ý nghĩa của lăng Khải Định
Lăng Khải Định là nơi chốn an nghỉ của vua Khải Định. Đây không chỉ là
nơi chôn cất thi hài của vua mà còn là sự tổng thể di tích kiến trúc đẹp nhất từ
tước tới giờ. Thông qua việc tuyên truyền ý nghĩa của lăng làm cho du khách
hiểu hơn bản chất của việc bảo tồn lăng qua đó, họ ý thức trách nhiệm hơn trong
8


bản thân của mình khi tham quan di tích.
Có thể thấy rằng, là nơi an nghỉ của vua nên đó là nơi bình yên nên việc
quản lý sao cho du khách thực hiện đúng là trách nhiệm của người quản lý.
Giống như câu nói xưa truyền lại “ mồ yên mả đẹp ” thì công tác của người quản
lý phải làm sao cho du khách hiểu hết ý nghĩa câu nói này, cần tôn trọng nơi linh
thiêng của vị vua. Đồng thời, là nơi đẹp nhất về kiến trúc nên vấn đề bảo tồn hết
sức quan trọng.
2.1.4.2. Giáo dục, hướng dẫn du khách giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ
di tích
Bảo vệ di tích là vấn đề then chốt mà mỗi cán bộ quản lý cần nâng cao
trách nhiệm của mình. Cần quản lý chặt chẽ hơn nữa khi du khách vào tham
quan, hướng dẫn họ thực hiện đúng, nghiêm túc bảo vệ di sản tránh tình trạng
leo trèo, phá hoại hiện vật và sờ vào hiện vật gây hư hại. Bảo vệ di sản không
chỉ ngày một ngày hai mà còn bảo vệ, gìn giữ đến tận ngày sau, cho tương lai.
Vấn đề vệ sinh môi trường là điểm chú ý rất quan trong liên quan đến
cảnh quan của môi trường di tích. Môi trường sạch sẽ thì du khách mới quay trở
lại nhưng đây không phải chỉ là trách nhệm vấn đề quản lý của các nhà quản lý,
bảo vệ di tích lăng Khải Định mà còn ngay ở ý thức cả mỗi du khách. Ban quản

lý di tích cần thắt chặt, nhắc nhở du khách để rác đúng nơi quy định.
2.2. Chùa Thiên Mụ
2.2.1. Khái quát về chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm
trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam)
khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu
(1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Chùa Thiên Mụ thuộc loại di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật, di tích cấp
quốc gia và là di sản văn hóa thế giới, được xếp vào 20 thắng cảnh đất Thần
Kinh. Trong đó, Đại hồng chung chùa Thiên Mụ đuợc coi là Bảo vật Quốc gia.
2.2.2. Hiện trạng về chùa Thiên Mụ
Được chính thức khởi lập vào năm Tân Sửu, tức 1601, chùa thiên mụ vào
9


thời Chúa Tiên (Chúa Nguyễn Hoàng), vị chúa đầu tiên của xứ Đàng Trong,
chùa Thiên Mụ trải qua nhiều lần trùng tu, nhiều biến cố, chịu thiên tai đổ nát rồi
lại được xây dựng lại, mở rộng thêm, cho đến nay vẫn sừng sững nét oai
nghiêm, và mang nét đẹp bền vững với thời gian.
Từ bến sông Hương nhìn lên chùa, sẽ thấy ngay Tháp Phước Duyên đứng
ngay giữa sân, trước cổng chùa, oai nghiêm cao vút vươn lên trời. Tháp được
vua Thiệu Trị cho xây dựng vào năm 1844, hình bát giác cao 21 mét bao gồm 7
tầng, mỗi tầng đều có những tượng Phật đặt bên trong. [ 2; internet ]
Tháp Phước Duyên nhìn từ bên ngoài giữa trời xanh nắng vàng, qua khỏi
Tháp Phước Duyên là Điện Đại Hùng, ngôi điện chính trong chùa, một công
trình kiến trúc được bảo tồn khá nguyên vẹn dù trải qua nhiều biến cố của thời
cuộc. Vẻ đẹp của điện Đại Hùng vừa cổ kính thâm nghiêm, vừa nguy nga đồ sộ.
Xung quanh chùa là khuôn viên với vườn hoa cỏ tươi tốt, xanh xanh, được chăm
sóc hàng ngày.
Đại Hồng Chung là chuông đặt trong khuôn viên chùa Thiên Mụ có trọng

lượng 3.285 cân có khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu cầu mưa thuận
gió hòa, quốc gia thái bình, nhân dân an lạc, tất cả chúng dân đều được thành
phật. Chuông là bảo vật của quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay chuông bị nhiều du
khách vẽ bậy lên làm mất mĩ quan của chuông cổ.
Từ sân chùa nhìn xuống là dòng sông Hương lững lờ trôi nhẹ nhàng giữa
vùng trời nước mênh mông thăm thẳm. Những chiếc thuyền neo đậu hiền hòa
dưới bến, chờ đợi những người khách đang viếng thăm chùa. Những hàng thông
ba lá của xứ ôn đới kỳ lạ lại luôn tỏa một màu xanh tươi mát ở đây, xõa bóng
xuống che các khoảng sân chùa mát rượi. Trên những mái chùa là những chi tiết
chạm trổ rất nghệ thuật, điêu luyện.Trên những mái chùa là những chi tiết chạm
trổ rất nghệ thuật, điêu luyện. Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, lịch sử hiếm có, chùa
Thiên Mụ còn là nơi lưu giữ nhiều cổ vật quý giá, những bức hoành phi, những
câu đối cổ, những bức tượng cổ quý hiếm, nhiều bia đá chuông đồng, vừa quý
giá về lịch sử, vừa giá trị về nghệ thuật.
2.2.3. Công tác quản lý chùa Thiên Mụ
10


Nhờ việc quản lý di tích, việc trùng tu chùa Thiên Mụ ngaỳ càng hoàn
thiện. Theo Ô châu cận lục của Dương Văn An in năm 1555, trước đó trên đồi
Hà Khê đã có chùa Thiên Mỗ. Ðến năm 1601 chúa Nguyễn Hoàng cho xây lại
chùa khang trang, sau đó các chúa tiếp tục trùng tu. Năm 1710, chúa Nguyễn
Phúc Chu cho đúc Ðại Hồng Chung đường kính 1,4m, cao 2,50m, nặng 2052kg
và soạn bài minh khắc vào chuông. Trong hai năm 1714 - 1715 chùa Thiên Mụ
xây dựng với quy mô bề thế, hoàn chỉnh. Chùa bị hư hỏng dưới triều Tây Sơn
(1786-1801). Vua Gia Long và Minh Mệnh đều cho trùng tu. Năm 1844 vua
Thiệu Trị lại cho đại trùng tu, xây thêm tháp Từ Nhân, sau đổi là Phước Duyên 7
tầng cao 21,24m, xây đình Hương Nguyện, dựng hai bia đá ghi chép thơ văn của
nhà vua. Năm 1899, vua Thành Thái đã cho đại trùng tu tháp Phước Duyên.
Năm 1904 bão lớn làm hỏng nặng, năm 1907 được trùng tu. Năm 1920 vua Khải

Ðịnh dựng bia đá khắc bài thơ Ngự chế ca ngợi cảnh chùa. Cuối năm 1957 chùa
được tu sửa lớn một lần nữa. Toàn bộ các công trình kiến trúc của chùa đều nằm
trên ngọn đồi có hình chữ nhật (280mx100m) chạy theo hướng Bắc - Nam. Chùa
được bao bọc bởi tường thành xây bằng đá có hình một con rùa thò đầu xuống
bến để uống nước sông Hương. Ðiện Ðại Hùng là công trình kiến trúc chính của
chùa Thiên Mụ. Trong lần trùng tu năm 1957 trừ hệ thống rui và đòn tay còn tất
cả cột, kèo, băng, bệ... đều xây bằng bê tông và phủ bên ngoài một lớp sơn giả
gỗ. [ 3; internet ] Cùng với cảnh quang môi trường chùa Thiên Mụ khang quang,
sạch sẽ và thanh tịnh khiến du khách an tâm khi tới đây.
Hoạt động quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích đó là việc thực
hiện các văn bản của Nhà nước về di sản văn hóa, khảo sát, kiểm kê xếp hạng di
tích để bảo vệ và quản lý. Đồng thời, thực hiện đề án chống xuống cấp cho di
tích lịch sử chùa Thiên Mụ. Không chỉ vậy, chuông Đại Hồng Đức còn bị một số
lớp trẻ viết vẽ bậy lên đó nhằm xấu đi hình ảnh chuông.
2.2.4. Một số giải pháp quản lý di tích chùa Thiên Mụ
2.2.4.1. Tuyền truyền, phổ biến văn bản về di tích
Tổ chức thực hiện các văn bản giữa các ban ngành đoàn thể, kiểm kê,
phân loại di vật của di tích nhằm tạo điều kiện cho người trông nom di tích quản
11


lý, bảo quản phát huy các giá trị của chúng trong đời sống nhân dân.
Đầu tư, cho việc tu bổ di tích, phối hợp với cơ quan, đoàn thể tuyên
truyền cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa, lịch sử. Thông qua đó, thể hệ trẻ
hiểu ý nghĩa của các giá trị, cùng nhau chung tay bảo vệ các di tích trường tồn.
Giáo dục pháp luật cho người dân giúp họ nâng cao ý thức, hiểu và bảo
tồn giá trị di tích lịch sử văn hóa quê hương mình; phát hiện, ngăn chặn kịp thời
những hành vi mê tín dị đoan, lấn chiếm di tích đồng thời giải quyết dứt điểm
những điểm nóng có liên quan, không để phát sinh những vụ việc mới.
2.2.4.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về di tích

Di tích là di sản văn hóa vật thể mang tính tâm linh, chùa Thiên Mụ cũng
cần có sự quản lý của cơ quan ban ngành ở địa phương, ủy ban nhân dân. Tăng
cường công tác quản lý đối với các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa trên địa bàn, gắn trách nhiệm của chính quyền, các tổ chức đoàn thể và
người dân trong việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Cần có quy định di tích không tiếp nhận công đức bằng hiện vật các loại,
chỉ nhận công đức khi di tích còn thiếu nhưng phải phù hợp vớ di tích và với văn
hóa truyền thống Việt Nam, được sự kiểm duyệt của cơ quan chuyên môn có
thẩm định.
Có chính sách đãi ngộ với các sư trụ trì di tích, nên dành một khoản kinh
phí nhất định cho các thầy sư và tiểu nhằm khích lệ động viên, bảo quản di tích
cẩn thận. Có như vậy, sư sẽ bảo quản di tich cẩn thận hơn gắn bó và có trách
nhiệm hơn.
2.3. Thành cổ Quảng Trị
2.3.1. Khái quát về Thành cổ Quảng Trị
Thành cổ Quảng Trị là một di tích quốc gia đặc biệt được xếp hạng đợt 4
được tọa lạc tại trung tâm thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.
Đây là nơi diễn ra trận chiến 81 ngày đem giữa lực lượng của Quân đội
nhân dân Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa có sự yểm trợ tối đa của
quân đội Mỹ. Đây là trận chiến tổn hao về sức người và sức của cho cả hai bên.
Hiện nay, tại bảo tàng Thành cổ Quảng trị vẫn còn có những di vật, cùng những
12


bức thư bộ đội gửi vĩnh biệt gia đình trong thời gian xảy ra trận đánh này.
2.3.2. Hiện trạng về Thành cổ Quảng Trị
Thành cổ Quảng Trị ban đầu được xây bằng đất, đến năm 1827 vua Minh
Mạng cho xây bằng gạch. Thành có dạng hình vuông, chu vi tường gần 2000m
cao 9.4 m, dưới chân dày 12m bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4
pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy

làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Từ năm 1929, Pháp xây dựng thêm
nhà lao ở đây và biến nơi đây thành nơi giam cầm các những người có quan
điểm chính trị đối lập. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với
tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng
vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian. Thành trổ bốn cửa chính
Đông Tây Nam Bắc. Sau chiến dịch Thành Cổ mùa "hè đỏ lửa" 1972 toàn bộ
Thành Cổ gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng Đông tương đối
nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết
bom đạn. Trong thập niên 90 của thế kỷ 20, chính quyền sở tại cho tôn tạo lại
thành để làm di tích. Người ta phục chế vài đoạn tường thành, làm lại bốn cổng
chính, ngay trung tâm thành được xây một đài tưởng niệm ghi dấu ấn 81 ngày
đêm năm 1972. Thành cổ Quảng Trị được xem là biểu tượng sáng ngời của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng với khát vọng tự do, độc lập.
Mặc dù bị bom đạn cày xới, phá hủy, song Thành cổ Quảng Trị vẫn là một
trong những số rất ít thành cổ Việt Nam còn giữ được cấu trúc thành lũy rõ ràng
với hệ thống tường thành, cổng thành, hào nước. Trong Thành cổ bây giờ ngăn
ngắt màu xanh của cỏ cùng hàng ngàn cây dừa. Thành cổ trở thành đất tâm linh,
và dòng Thạch Hãn cũng là dòng sông tâm linh. Nơi đây là không gian thiêng
liêng, là miền ký ức hào hùng và bi tráng của một thời hoa lửa.
Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh
nên từ sau hoà bình lập lại, Thành cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành, lao
xá, cổng tiền, hậu... Từ năm 1993-1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạn
thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong
thành. [ 1; internet ]
13


Ngôi mộ chung của Thành Cổ thiết kế rất công phu mang triết lý âm
dương như siêu độ cho người đã khuất. Ngay phía trên đài tưởng niệm người ta
làm hình bát giác để tượng trưng cho 8 quẻ càn, khôn, ninh, chấn, khảm, tú,

đoài. Tầng dưới là lưỡng nghi âm dương xung quanh có 4 lối cấp bậc dẫn lên
tượng trưng cho 4 mùa xuân hạ thu đông và đông tây nam bắc. Trên có mái đình
Viêt có hình thái cực vận hành sinh ra vạn vật, vũ trụ luôn vận hành. Giữa có
đèn 8m1 biểu thị 81 ngày đêm, đèn có chức năng sưởi ấm linh hồn chiến sĩ,
đồng thời có cả 3 áng mây dưới là 3 bát cơm biểu thị cầu nối trời đất và con
người. Các hiện vật cũng như mô hình, hình ảnh ghi lại được còn lưu giữ trong
bảo tàng ở khu Thành cổ. Đặc biệt là Bức thư của người chiến sĩ quê Thái Bình
đang học đại học năm 4 để lại lấy đi bao nước mắt thế hệ.
Mọi thứ ở đây đang bị rơi vào quên lãng và có nguy cơ trở thành phế tích.
Tượng đài Đại đội giữ chốt Long Hưng bên lề QL1A, phía Nam Thành cổ
Quảng Trị đang xuống cấp nặng. Cùng với tình trạng này là rác, cỏ dại bao trùm
khiến tượng đài như khép nép "thu mình" trước cảnh người ngược xuôi qua lại.
2.3.3. Quản lý Thành cổ Quảng Trị
Thành cổ Quảng Trị là nơi nấm mồ chung của các chiến sĩ 81 ngày đêm
khốc liệt vì thế mà khu được xây dựng khá cẩn thận. Mỗi tấc đất đều là xương
máu của đồng đội, chiến sĩ nên ban quản lý đã làm đất trồng cỏ lên khu đất này
để các chiến sĩ được yên. Một công viên văn hóa, tưởng niệm và tri ân tôn vinh
những người đã vinh viễn ở lại nơi đây.
Hàng năm, ban quản lý di tích đều được nhận tiền ủng hộ để tu bổ, bảo
tồn tư liệu của các anh hùng liệt sĩ, những người không tiêc máu xương bảo vệ
nền độc lập cho tổ quốc. Ý thức được tính linh thiêng trong đài tưởng niệm,
khách tham quan nhẹ nhàng, nói nhỏ, ăn mặc tôn nghiêm. Lễ cầu siêu cũng
được ban quản lý thực hiện đầy đủ.
Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh
nên từ sau khi hòa bình lập lại, Thành cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành,
lao xã, cổng tiền, hậu,… Từ năm 1993 – 1995, hệ thống hào, cầu cống, một số
đoạn thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong
14



thành. Mọi thứ nơi đây dần vào quên lãng và có nguy cơ trở thành phế tích.
Tượng đài Đại đội giữ chốt Long Hưng bên lề QL1A, phía nam Thành Cổ
Quảng Trị đang xuoogs cấp nặng. Cùng với tình trạng này là rác, cỏ dại bao
trùm khiến tượng đài như khép nép thu mình trước cảnh người xuôi ngược qua
lại.
Thông qua việc quản lý, việc tôn tạo di tích đã được xây dựng. Dấu ấn về
cuộc chiến 81 ngày đêm ở góc đông – nam, tái tạo chiến trường năm 1972 với
hầm hào, công sự, hố bom,.. Tại đây đặt 81 khôi đá tự nhiên tạc văn bia mô tả
chiến đấu phi thường của quân và dân ta. Khu phục dựng Thành cổ nguyên sinh:
phía đông bác thu nhỏ kiến trúc các công trình cổ, trồng rừng mai vàng để gợi
biểu tượng Mai sông Hãn. Khu công viên văn hóa ngoài tượng đài và nhà trưng
bày bổ sung thì phía tây và tây nam đã xây dựng công viên với những lối đi, ghế
đá, cây xanh, sân chơi,…
Tuy nhiên, Thành Cổ Quảng trị cả một xã như vậy chỉ có một nhà nghỉ,
không có khu ẩm thực nên du khách muốn ở lại phải chọn hướng ra Huế hoặc
thị xã khác để tá túc.
2.3.4. Một số giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của Thành cổ Quảng Trị
2.3.4.1. Tôn tạo di tích Thành cổ Quảng Trị
Những năm qua, Thành cổ Quảng Trị luôn được tôn tạo từ ngày. Cần triển
khai các biện pháp bảo vệ các di tích chiến tranh, chống xuống cấp, nhất là nguy
cơ bị xâm lấn đất đai, phá vỡ cảnh quan môi trường.
Tích cực chấn chỉnh các hoạt động dịch vụ ở các đài tưởng niệm, vệ sinh
tạo cảnh quan, đảm bảo trang nghiêm và lịch sự. Các đơn vị, đoàn thể, tổ chức
xã hội và doanh nghiệp phát triển du lịch hoài niệm phải hài hoà với không gian
văn hoá, lịch sử và bảo vệ cảnh quan môi trường;
Khẩn trương rà phá bom mìn ở các khu vực còn sót đảm bảo an toàn cho
du khách.
2.3.4.2. Đẩy mạnh phát triển du lịch ở Thành cổ
Thành cổ nằm trên trục hành lang kinh tế Đông tây qua cửa khẩu Lao Bảo
và thông nối đường 9 đã trở thành một điểm đến không thể thiếu với khách du

15


lịch trong và ngòai nước. Vì vậy, cần hướng Thành cổ Quảng Trị như một địa
điểm du lịch, biến nơi đây vừa là khu tưởng niệm lịch sử chiến tranh của dân tộc
ta trong thời kì chiến tranh chống Mĩ cứu nước khiến du khách tram mình trong
không gian trầm mặc hào hùng vừa lãng mạn vừa bi tráng lại vừa đem lại kinh
tế cho Thành cổ.
2.3.4.3. Nghiên cứu, quảng bá nội dung sự kiện, hiện vật di tích thấy được
giá trị lịch sử, ý nghĩa chính trị và nhân văn của di tích
Giá trị của một di tích lịch sử cách mạng phụ thuộc vào ý nghĩa lịch sử.
Để làm được điều này, trước hết phải đặt sự kiện lịch sử vào trong bối cảnh lịch
sử và cần đề cập đến xuất xứ. Có thể hiểu rằng, phải đặt di tích trong bối cảnh
lịch sử là phương pháp tốt nhất để du khách hiểu rõ về giá trị lịch sử, ý nghĩa
chính trị và nhân văn của di tích.
Nghiên cứu, quảng bá các gía trị của di tích phải hiểu và giới thiệu giá trị
bên trong của nó. Đó là việc nghiên cứu, trình bày, thuyết minh tính sáng tạo,
kiên cường của nhân dân ta chống lại vũ khí hiện đạ của Mỹ.
2.3.4.4. Gắn việc tham quan di tích vào chương trình học ngoại khóa của
học sinh, sinh viên
Đây là việc không chỉ làm quảng bá cho du khách mà quang trọng hơn là
qua đó tuyên truyền lòng yêu nước, tinh thần hy sinh vì độc lập của dân tộc,
khơi dậy lòng tự hào, ý chí vượt khó, vươn lên cho thế hệ trẻ ngày hôm nay.
2.4. Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm
2.4.1. Khái quát bảo tàng nghệ thuật Chăm
Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà Nẵng là bảo tàng trưng bày hiện
vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam, trực thuộc Bảo tàng Đà Nẵng. Đây là bảo
tàng do người Pháp xây dựng, chuyên sưu tập, cất giữ và trưng bày các di vật về
nghệ thuật điêu khắc của vương quốc Chăm Pa tìm thấy ở các tháp, thành lũy
Chăm tại các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Hà Tĩnh tới Bình Thuận và các

tỉnh Tây Nguyên.
Tọa lạc tại ngã gần ngã ba 2 tuyến phố đẹp nhất thành phố Đà Nẵng ở số
2, đường 2/9, quận Hải Châu, Đà Nẵng, ngay ngã ba giao lộ Trưng Nữ Vương,
16


Bạch Đằng và 2/9, đối diện với Trung tâm truyền hình Việt Nam tại thành phố
Đà Nẵng, Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng có tổng diện tích 6.673
m², trong đó phần diện tích trưng bày là 2.000 m².
Ngày 1 tháng 1 năm 2012, Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà nẵng
được công nhận là bảo tàng hạng 1. Năm 2011, Bảo tàng Điêu khắc Chăm đã
tiến hành đăng ký các hiện vật đề nghị là Bảo vật Quốc gia. Hội đồng thẩm định
Bảo vật Quốc gia của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xét chọn 03 hiện vật
Đài thờ Trà Kiệu, Đài thờ Mỹ Sơn E1, Bồ tát Tara là Bảo vật Quốc gia trong đợt
đầu tiên.
2.4.2. Hiện trạng của bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm – Đà nẵng
Theo ý tưởng của Henri Parmentier, chuyên gia khảo cổ của Trường Viễn
Đông Bác Cổ Pháp (L' École francais d' Éxtrême - Orient, viết tắt là EFEO), các
hiện vật được phân loại để trưng bày theo nguồn gốc địa điểm nơi chúng được
phát hiện hoặc khai quật. Gần 2.000 hiện vật lớn nhỏ, trong đó có 288 hiện vật
đang trưng bày bên trong bảo tàng, được phân chia thành các phòng trưng bày:
Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Tháp Mẫm và các hành lang Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Kom Tum. 187 hiện vật trưng bày ngoài sân vườn và
hơn 1.200 hiện vật hiện đang lưu giữ trong kho.
Phòng Trà Kiệu: Trà Kiệu thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng 50 km về hướng tây nam. Trà Kiệu được
xác định là kinh đô của vương quốc Champa ở thời sơ kỳ. Theo sử liệu ghi lại,
đây là kinh đô đầu tiên và cổ nhất của Champa, được xây dựng vào cuối thế kỉ
IV dưới triều vua Bhadresvara với tên gọi Sinhapura, nghĩa là Thành phố Sư Tử.
Hiện vật trưng bày tại bảo tàng: Đài thờ Trà Kiệu (thế kỷ VII-VIII) gồm

hai phần, phần bên trên gồm hai thớt tròn, được trang trí với những cánh hoa sen
cách điệu trên và dưới đối xứng nhau. Thớt phía trên thể hiện Yoni, với rãnh và
vòi dẫn nước, ôm lấy một linga; Phần bên dưới là một đế thờ hình vuông gồm
bốn mặt với vô số hình người được chạm khắc tinh xảo. Từ những hình tượng
nhân vật được điêu khắc, chạm trổ rất trau chuốt, đều đặn, đặc biệt là hình ảnh
mười một vũ nữ Apsara nhảy múa vô cùng mềm mại, uyển chuyển, gợi cảm đến
17


những kiểu trang phục, trang sức, kiểu tóc được thể hiện rất tỉ mỉ, tác phẩm hoàn
toàn xứng đáng là một trong những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc Chăm. Đài thờ
được đưa về bảo tàng năm 1901.
Vũ nữ Trà Kiệu (thế kỷ VII-VIII): Hai mặt của đài thờ thể hiện vũ nữ
Apsara trong tư thế múa tribhanga với thân mình uốn cong mềm mại, uyển
chuyển cùng nhạc công với vẻ mặt tươi tắn chơi đàn Vina - một loại nhạc cụ
truyền thống xuất xứ từ Ấn Độ.
Các Apsara mặc một loại váy bằng voan mỏng, bó sát người, có thể nhận
biết được thông qua chiếc nơ lớn được thắt lại ở cạnh hông sau lưng. Cổ, tay,
vòng eo và bên ngoài chiếc sampot là những chuỗi hạt ngọc. Phía sau nhạc công
và vũ nữ là những cánh hoa sen được cách điệu tạo thành những đường kỷ hà
sắc nét làm tôn thêm vẻ quyến rũ của các vũ nữ. Đài thờ còn lại hiện nay chỉ là
1/16 của đài thờ xưa kia. Apsara được xem là những vũ nữ thiên tiên. Họ được
sinh ra từ đại dương khi các thần khuấy biển sữa.
Phù điêu Vishnu (thế kỷ XI-XII): Theo Ấn độ giáo, Vishnu là vị thần bảo
tồn, canh giữ không trung. Trong thần thoại Ấn Độ, vị thần này có rất nhiều kiếp
hóa thân khác nhau. Tấm tympan với viền khung xung quanh hình lá đề, bên
trong thể hiện thần Vishnu ngồi xếp bằng theo kiểu Ấn Độ trên thân mình cuộn
thành chín khúc của rắn Naga. Phía sau lưng thần, rắn Naga mọc lên mười ba
đầu tạo thành một tán che cho thần. Bốn tay của thần cầm bốn vật tượng trưng
gồm: chiếc gậy Kaumodaki, chiếc tù và bằng ốc biển Shankha, chiếc đĩa rỗng

đáy Sudarsana và đoá hoa sen (đã gãy). Đề tài về thần Vishnu xuất hiện không
nhiều trong điêu khắc Champa, vì thế tác phẩm này rất quí hiếm và có giá trị
trong việc tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc và tôn giáo của Champa.
Đài thờ Linga-Yoni (thế kỷ VII-VIII): Đài thờ gồm phần cột hình trụ bên
trên, chia làm ba phần gọi là Linga và phần bệ hình vuông có rãnh dẫn nước
nằm bên dưới gọi là Yoni. Linga theo tiếng Phạn cổ thường được hiểu là một
hòn đá dựng lên tượng trưng cho dương vật. Thần Siva có mười hai biểu tượng,
trong đó Linga là biểu tượng nổi tiếng nhất, tượng trưng cho năng lực sáng tạo
siêu việt của thần.Yoni cũng có nguồn gốc từ tiếng Phạn, nguyên nghĩa là “Bầu
18


vú, nguồn gốc”. Trong những đài thờ kết hợp Linga và Yoni, Linga tượng trưng
cho nguyên lí dương và Yoni tượng trưng cho nguyên lí âm.
Thần hộ pháp (Siva?), (thế kỷ VII-VIII), theo Henri Parmentier, tác phẩm
thể hiện thần Siva; nhưng căn cứ vào đồ trang sức thể hiện trên tóc và dây rắn
Naga quấn quanh mình thần và một số yếu tố khác, Boisselier kết luận cùng với
một bức phù điêu gần giống như bức này tạo thành một cặp thần hộ pháp. Thần
đứng trong tư thế tribhanga, thân mình hơi nghiêng sang phải, vẻ mặt điềm tĩnh,
mái tóc được tết thành nhiều lọn trang trí tạo thành một búi cao như chiếc mũ
miễn Kỉita mukuta. Dù bị hư hại nhiều, tác phẩm vẫn là một trong những hiện
vật đẹp của nghệ thuật điêu khắc Chăm.
Phòng Mỹ Sơn: Mỹ Sơn từng là một trung tâm tín ngưỡng quan trọng của
vương quốc Chămpa, thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam ngày nay, cách di tích Trà
Kiệu (Simhapura - kinh đô của Chămpa cho đến năm 1000) khoảng 30 km về
phía tây. Trong không gian thâm nghiêm của một thung lũng bao bọc bởi những
ngọn núi nhỏ, tại đây có hơn 70 ngôi tháp, phần lớn được xây dựng để thờ thần
Siva.
Tại phòng Mỹ Sơn, Bảo tàng hiện đang trưng bày 18 hiện vật, gồm 3
nhóm hiện vật: hiện vật trong các tháp chính, nhóm hiện vật ở các tháp phụ và

nhóm các hiện vật trang trí trên trán cửa hoặc trên tường tháp nói chung.
Đài thờ Mỹ Sơn: Ở giữa của mặt trước đài thờ là một cấp bậc nhỏ, thành
của cấp bậc là một bức chạm tả cảnh người trong điệu múa khăn. Người ở giữa
trong tư thế uốn mình hai chân xoãi gần sát đất, hai tay dang rộng nâng một dải
lụa với nét mặt ngẩng nhìn lên. Hai bên là hai vũ công, chân trái khép lại, chân
phải xoãi bật ra, hai tay công lên nâng dải lụa, tất cả toát lên vẻ say sưa, thành
kính trong nghi lễ dâng cúng thần linh.
Trên đài thờ là tượng Skanda và tượng Ganesa trong tư thế đứng, ngồi.
Tượng Skanda miêu tả thần Skanda đang đứng trên một con công, các chi
tiết trên thân hình và đuôi con công được chạm trổ tinh tế, hoàn mỹ theo bút
pháp tả thực. Tiếc là đầu con công bị gãy nhưng toàn bộ thân hình và dáng đứng
của con công vẫn toát lên vẻ trang trọng vững chãi, tôn vinh vẻ đẹp của thần
19


Skanda, một vị thần tượng trưng cho sự trẻ trung và nhiều tài năng trong thần
thoại Ấn Độ. Tượng Ganesa được tìm thấy ở tháp E 5. Thần có bốn cánh tay,
một tay cầm chén có cắm cái vòi của thần, một tay cầm chuỗi hạt, hai tay khác
đã gãy mất. Thần mang nhiều đồ trang sức, ở cổ là một chiếc vòng nặng có hình
những cánh hoa kết xoắn xít. Thần mặc một chiếc sampot có thân buông xuống
phía trước, thắt lưng được buộc lại bằng một loại khoá chạm khắc thành hình
hoa trước bụng. Choàng qua vai thần là một sợi dây hình rắn, một dấu hiệu
thường thấy ở các tượng thần Siva.
Với thân hình tròn trĩnh, mập mạp, tượng thần Ganesa đứng trông rất
vững chãi, bệ vệ và thân thiện với mọi người. Thần Ganesha là con trai của thần
Siva. Ganesha là vị thần biểu trưng cho trí tuệ, hạnh phúc và may mắn. Thần
được thờ cúng sớm, rộng rãi và lâu dài tại Ấn Độ cũng như ở các quốc gia Ấn
Độ hóa ở Đông Dương và quần đảo Mã Lai. Tượng Siva đứng được tìm thấy ở
tháp Mỹ Sơn C1. Đây là bức tượng theo bút pháp tả thực với chiều cao gần như
người thật, khuôn mặt bộc lộ những nét nhân chủng của người Chăm. Đôi mắt

hơi xếch, mở lớn, cánh mũi to và đôi môi dày. Đôi vai ngang và dáng đứng
thẳng toát lên một sức mạnh cường tráng.
Vũ nhạc triều đình là phiến đá gác ngang phía trên cửa để xây tiếp phần
vòm cửa (được gọi là mi cửa, dâm cửa hay lanh-tô), được tìm thấy ở tháp Mỹ
Sơn E4. Phiến đá được chạm khắc cảnh múa hát trong triều đình. Nhà vua trên
một chiếc ngai ở giữa bức chạm, tay phải cầm một thanh kiếm dài, tay trái giơ
cao như đang ra lệnh, hai bên là hai người hầu cầm lọng, cạnh hai người hầu bên
phải là một người đứng cầm phất trần và bên trái là một người ngồi gập hai
chân, tay dâng một vật có miệng cong, rộng có đế cao, được phỏng đoán là một
chiếc cơi đựng trầu. Tiếp theo hai bên là hai nhóm nhạc công gồm năm người,
đánh trống ginăng, xập xõa và thổi kèn. Những nhạc cụ này vẫn còn phổ biến
trong dàn nhạc của người Chăm hiện nay.
Ngoài ra, tại phòng Mỹ Sơn còn trưng bày một tấm bia chữ Sanskrit và
chữ Chăm cổ cùng các vị thần phương hướng.
Phòng Đồng Dương: Đồng Dương là một di tích Chăm tại làng Đông
20


Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, cách trung tâm
thành phố Đà Nẵng khoang 60km về phía Tây Nam.
Tượng Phật lớn nhất của điêu khắc Chăm: Đây là tượng Phật lớn nhất của
điêu khắc Chăm. Tượng được phát hiện trong cuộc khai quật khảo cổ tại di tích
Đồng Dương năm 1902, phần chân tượng bị vùi lấp dưới đống đổ nát tại vòng
thành III, nơi được cho là hội trường chính của Phật viện, phần thân tượng được
phát hiện ở tòa tháp trung tâm thuộc vòng thành I. Đồng thời tại khu vực này đã
tìm thấy 2 đầu tượng có kích thước tương xứng với thân tượng và công việc lắp
ghép các bộ phận của tượng Phật đã được thực hiện tại hiện trường khảo cổ. Đầu
tượng thứ nhất không phù hợp với thân tượng, đầu tượng thứ 2 lắp ghép trùng
khớp hơn. Mặc dù vẫn có thể có một chiếc đầu khác chưa được tìm thấy. Chiếc
đầu thứ 2 đã được chuyển về Hà Nội trước năm 1936 và được bảo quản tại Bảo

tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. Đầu tượng đang trưng bày là đầu được phục
chế lại.
Tượng Dvarapala: Vị thần hộ pháp này đứng trên lưng con trâu, miệng
trâu ngậm một vật, tay cầm vũ khí xoay người nhìn lên hộ pháp. Khuôn mặt thần
hộ pháp dữ tợn, đầy vẻ hăm dọa, đầu đội kirita ba tầng, tay phải thần cầm đoản
kiếm vung lên ngang tai, mũi kiếm hướng vào trong. Tay trái thần cong gập vào
trước ngực, bàn tay cũng ở thế Vitarka mudra, đặt ngay dưới ngực.
Tượng Bồ tát Tara (cuối thế kỷ IX-đầu thế kỷ X) là tượng bằng đồng lớn
nhất của nghệ thuật Chăm, thể hiện hoá thân nữ của Bồ tát Avalokitesvara dưới
tên gọi Tara. Bồ tát được thể hiện đứng thẳng, hai tay đưa ra phía trước, tay trái
cầm tù và ốc, tay phải cầm hoa sen nở, bên trong có gương sen. Tượng khoác
sarong hai lớp, từ thắt lưng dài đến mắt cá chân. Lớp trong của sarong đơn giản,
có những kẻ sọc, bó sát thân mình, buông dài bằng lớp ngoài. Chính giữa sarong
bên trong trang trí một băng nổi trơn. Chiếc sarong ngoài khá đặc biệt, là một
loại váy quấn nhiều vòng từ sau ra trước, đầu mối giắt trước bụng. Nó được thể
hiện như một loại vải mềm mại bởi những đường xếp tự nhiên khi vải được vắt
lên trên. Ngoài nét độc đáo của chiếc váy thì nét đẹp ngoại hình của nhân vật
khiến cho tác phẩm này đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình. Đó là vẻ đẹp
21


của người phụ nữ có ngoại hình cân đối. Tượng mình trần, cổ cao có ba ngấn
đẹp, đôi vai rộng càng làm nổi bật chiếc eo thon nhỏ nâng cặp vú tròn căng đầy
sức sống. Khuôn mặt và đồ trang sức của tượng càng được dày công tô điểm và
hội tụ tất cả những đặc điểm của phong cách Đồng Dương. Bồ tát có miệng
rộng, môi dày có vành môi sắc nét, mũi cao, hai cánh mũi rộng, đôi mắt lớn hình
hạnh nhân bên trong có đồng tử được khảm bằng một loại đá quý. Đầu tóc tượng
Tara được tết làm nhiều tết tóc nhỏ búi cao trên đỉnh đầu, được chia làm hai tầng
bằng một tết tóc. Ở trước tầng trên là hình ảnh tượng phật A di đà ngồi xếp bàn,
là chi tiết để nhận biết những tác phẩm thể hiện Bồ tát.

Phòng Tháp Mẫm: Nằm cách Đà Nẵng 300km về hướng Nam, Bình Định
ngày nay còn khá nhiều di tích Chăm, tiêu biểu là hệ thống đền tháp đồ sộ được
xây dựng liên tục trong thời gian từ thế kỉ XI đến XV khi trung tâm chính trị của
Champa đặt tại đây. Trong đợt khai quật năm 1934 và 1935 tại gò đồi Tháp
Mẫm - Bình Định, J.Y Clayes đã phát hiện được rất nhiều hiện vật đẹp như rồng,
voi-sư tử, chim thần Garuda, tượng và phù điêu các nam thần, nữ thần, vũ nữ...
tiêu biểu cho phong cách Tháp Mẫm.
Thần Shiva, trong số các vị thần Ấn Độ giáo, Shiva là vị thần phức tạp
nhất và có nhiều quyền năng nhất. Thông thường người ta biết đến Shiva như là
vị thần hủy diệt, đồng thời cũng là thần sáng tạo. Ngoài ra, theo thần thoại Ấn
Độ, Shiva còn là vị thần của những vũ điệu, thần sơn cước, thần chết. Shiva
được thờ cúng rộng rãi dưới hình dạng một Linga. Trong nghệ thuật điêu khắc
Chăm, tượng và phù điêu Shiva chiếm số lượng tương đối lớn, được thể hiện ở
nhiều phong cách nghệ thuật, nhiều tư thế khác nhau. Trong tập tục của người
Chăm xưa, các vị vua có công trạng sau chết thường được phong thần, thờ thần
Shiva cũng chính là thờ vua. Các vua Chăm tự nhận mình là các hoá thân của
thần Shiva, được tái sinh trên cõi đời này để cứu giúp thần dân của họ, vì vậy
các vua thường kết hợp tên mình với tên gọi của thần Shiva. Tác phẩm thể hiện
Shiva trong tư thế ngồi xếp bằng, trên mình có sợi dây rắn Naga quấn qua vai.
Mặc dù phần đầu, hai cánh tay phụ, một phần tay phải trước và những vật cầm
tay đã bị gãy vỡ, tác phẩm vẫn còn rõ những chi tiết chạm trổ cầu kỳ, tinh xảo
22


thể hiện qua các đồ trang sức trên cổ, tay và trang phục. Hai bên là thủy quái
Makara (thế kỷ XIII), là một tượng tròn, ở tư thế nằm, được cách điệu với sự
pha trộn nhiều chi tiết của nhiều con vật khác nhau, hai chân trươc cùng đầu
vươn cao, lòng bàn chân mở ra phía trước tạo nên tư thế vừa ngộ nghĩnh vừa
hung dữ.
Hiện vật ở giữa là Rồng (thế kỷ XIII), được thể hiện ở tư thế nằm, hai

chân trước đặt hướng về trước, hai chân sau đưa ngược lên về sau, tạo nên dáng
vẻ rất ngộ nghĩnh, chiếc vòng lục lạc đeo ở cổ khắc họa thêm nét sinh động, vui
tươi. Các chi tiết tinh xảo trên mình, đầu và đuôi rồng là sự kết hợp của nhiều
con vật khác nhau, thể hiện sự khéo léo, óc sáng tạo và tính hài hước của các
nghệ sĩ Chăm. Rồng thường được thể hiện thành một cặp đôi, đặt song song
trước lối ra vào của tháp Chăm, hiện vật còn lại cùng cặp với hiện vật này đang
được trưng bày tại bảo tàng Guimet ở Paris.
Thần Brahma là thần sáng tạo, một trong ba vị thần quan trọng nhất của
Ấn Độ giáo. Đôi khi Brahma còn được xem là thần của sự thông thái. Có nhiều
giai thoại thú vị về sự ra đời của Brahma.
Đài thờ (thế kỷ XII) là một thớt tròn, xung quanh được trang trí với 23
bầu vú phụ nữ đầy đặn, căng tròn, đường kính mỗi bầu là 11cm. Phía trên và
dưới của vòng tròn vú là các đường xoắn chập hai đầu dây rất tỉ mỉ, theo phương
thẳng đứng. Đây là những kiểu thức trang trí rất phổ biến trong điêu khắc Chăm
vào thế kỷ XII-XIV. Đài thờ xứng đáng là một kiệt tác của điêu khắc Chăm, thể
hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực và xã hội mẫu hệ.
Hành lang Quảng Nam: Hành lang Quảng Nam trưng bày 32 hiện vật niên
đại thế kỷ VII-VIII và IX-X, được khai quật từ nhiều địa phương ở tỉnh Quảng
Nam.
Shiva múa (thế kỷ X) thể hiện thần Shiva đang múa trong tư thế hình chữ
S mềm mại, uyển chuyển. Từ hai cánh tay chính của thần mọc ra 14 cánh tay
phụ, hai bên dưới thần là các nhạc công chơi đàn và những vị thần khác đang
chiêm bái điệu múa của thần. Shiva còn được xem là thần của những vũ điệu.
Vũ điệu Tandava của thần ghi dấu sự vận động vĩnh cửu của vũ trụ. Tác phẩm
23


được tìm thấy tại làng Phong Lệ, tỉnh Quảng Nam năm 1890, được chuyển về
Bảo tàng năm 1901.
Phù điêu Yaksa: thể hiện thần Yaksa ngồi xếp bàn, hai chân dang rộngm

hai cổ chân xếp lên nhau, bàn chân phải đặt lên bàn chân trái, hai bên đầu thần
được trang trí bởi hai đồ án hoa văn mềm mạo, uốn lượn mang nét tương đồng
với các tác phẩm điêu khắc Ấn Độ và Khmer thời kỳ sớm. Là vị thần rừng trong
thần thoại Ấn Độ, người canh giữ các kho báu ẩn sâu trong lòng đất hay dưới
các rễ cây.
Phù điêu Krishna (thế kỷ VII-VIII) là vị thần đồng cỏ, hóa thân tứ tám của
Vishnu. Đề tài Krishna ít xuất hiện trong điêu khắc Chăm, tác phẩm duy nhất
được trưng bày tại hành lang Quảng Nam của bảo tàng thể hiện cảnh thần đang
nâng ngọn núi Govarrdhana chống lại cơn mưa kéo dài bảy ngày bảy đêm của
thần Indra, một đề tài trong thần thoại Ấn Độ.
Hành lang Quảng Ngãi: hiện trưng bày 14 hiện vật niên đại từ cuối thế kỉ
X đến giữa thế kỉ XI, hầu hết được khai quật và mang về từ Chánh Lộ và một số
địa danh khác ở tỉnh Quảng Ngãi. Chánh Lộ cũng là tên gọi mà Boisselier đã
chọn để đặt tên cho phong cách nghệ thuật chuyển tiếp giữa Mỹ Sơn A1 và Tháp
Mẫm.
Phù điêu Sarasvati (thế kỷ XII), nữ thần của kiến thức, âm nhạc và nghệ
thuật, là vợ của thần Brahma. Sarasvati thường hay xuất hiện trong nghệ thuật
tranh, tượng và thần thoại như một vị nữ thần duyên dáng, cưỡi trên lưng ngỗng
Hamsa hay ngồi trên một đài sen, có bốn vật cầm tay gồm quyển sách - biểu
tượng của học thuật, viết lách, đàn vina - sự am hiểu về nghệ thuật, chuỗi tràng
hạt pha lê - sức mạnh tinh thần và lọ nước thiêng - năng lực của sáng tạo và
thanh tẩy.
Tượng Laksmi (thế kỷ XI) là thần của vận may và hạnh phúc, người tha
thờ cúng thần để mong có nhiều của cải và giàu có. Laksmi đôi khi được gọi là
Sri và là vợ của Vishnu trong tất cả các kiếp hóa thân của nàng. Trong nghệ
thuật Ấn Độ, Laksmi được thể hiện như một phụ nữ xinh đẹp, có hai hoặc bốn
tay, đứng hoặc ngồi trên một đóa sen, tuy nhiên trong nghệ thuật Chăm, nữ thần
24



đôi khi được thể hiện rất đơn giản, không có những vật cầm tay hay những chi
tiết kể trên.
Ngoài những phòng trưng bày kể trên, Bảo tàng còn trưng bày nhiều bức
phù điêu trang trí với những họa tiết, hoa văn tinh xảo và có phòng trưng bày
mở rộng với nhiều hiện vật phong phú. [ 5; internet ]
2.4.3. Quản lý bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm
Những người quản lý bảo tàng đã tăng cường công tác quảng bá, giới
thiệu nhiều chuyên mục trên các báo, tạp chí, niên giám điện thoại của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, các hội chợ, triển lãm, đặc biệt là trên kênh VTV4;
thường xuyên cập nhật tin, bài lên Website để giới thiệu bảo tàng đến với du
khách. Tại đây đã tổ chức nhiều đợt trưng bày, giới thiệu các hiện vật văn hóa
Chămpa - Khảo cổ học Mỹ Sơn, từ truyền thống Đông Sơn đến văn minh Đại
Việt... Bên cạnh đó, bảo tàng còn tổ chức phục vụ tốt khách tham quan và các
đoàn khách ngoại giao của thành phố...
Hiện nay bảo tàng Chăm Đà Nẵng lưu giữ một kho tàng vô giá gồm hơn
2000 cổ vật nền văn hóa Chăm, trong số đó có khoảng 500 cổ vật được trưng
bày, số còn lại được ban quản lý lưu giữ cẩn thận trong kho. Ba trong số 2000 cổ
vật là bảo vật quốc gia thuộc nền văn hóa Chăm, đó là Tượng Bồ Tát Tara, Đài
thờ Mỹ Sơn E1 và Đài thờ Trà Kiệu. Các hiện vật khi được đưa về sẽ được ghi
chép lại cẩn thận, nhiều hiện vật được bảo quản trong kho lưu trữ. Đồng thời, có
một số hình thức chống mối mọt ẩm mốc,…
Có thể thấy, hiện nay khách Việt rất ít người đến bảo tàng, có chăng họ
chỉ đến chụp ảnh chứ không con nghe hướng dẫn viên thuyết trình là các hiện
vật của bảo tàng về thời kì lịch sử,… dù được đầu tư rất lớn, song không thu hút
được sự quan tâm của du khách.
2.4.4. Một số giải pháp phát huy giá trị của bảo tàng nghệ thuật điêu khắc
Chăm
2.4.4.1. Tuyên truyền để thu hút khách trong bảo tàng
Bảo tàng thông tin thì ít, hiện vật thì không có tính đặc trưng, đơn điệu và
mang tính tuyên truyền, bài trí chưa tốt. Vì vậy, muốn tạo nên sự khác biệt để

25


×