Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

“Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại việt nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.35 KB, 66 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối
với các thầy cô của trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô
trong khoa Pháp luật quốc tế đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm
em học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là
nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để
em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Và, em cũng xin tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến cô Nguyễn Vương Thùy Dương, đã tận tình hướng dẫn trong suốt
quá trình viết Khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, cũng như là trong quá trình làm bài khóa
luận tốt nghiệp, khó tránh khỏi sai sót, rất mong các thầy, cô bỏ qua. Đồng thời
do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài viết
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp
thầy, cô để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn
Khóa luận tốt nghiệp sắp tới.
Cuối cùng em kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp cao quý.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


BẢNG KÍ HIỆU, CHỮ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự 2015 - Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XIII,
kì họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.
Công ước Viên 1980 - Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
Công ước Lahaye - Công ước Lahaye 1955 về Luật áp dụng đối với các
1955
động sản hữu hình


Công ước Rome - Công ước Rome 1980 về Luật áp dụng đối với các
1980
nghĩa vụ theo hợp đồng
Incorterms
- Quy tắc về các điều kiện thương mại quốc tế
Incorterms ( international commerical terms)
PICC
- Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của
UNIDROIT (PICC) do Viện thống nhất về tư pháp
quốc tế UNIDROIT ban hành đưa ra những quy phạm
chung nhằm điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế
Quy tắc Rome I
- Nghị định (Regulation) số 593/2008 của Liên minh
châu Âu ngày 17/6/2008 về luật áp dụng đối với nghĩa
vụ của hợp đồng (Rome I)
Hiệp định tương trợ - Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề
tư pháp Việt Nam và
dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Liên Bang Nga
Nam và Liên bang Nga
Hiệp định tương trợ - Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa
tư pháp Việt Nam và
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước
Lào
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
Hiệp định tương trợ - Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và
tư pháp Việt Nam và
hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Trung Quốc
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa


2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
BẢNG KÍ HIỆU, CHỮ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu..................................................... 5
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài. .......................................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. ...................................... 8
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. .................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu. ..................................................................... 8
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp. ........................................................ 9
Chương 1.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ................................. 10
1.1. Khái quát chung về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. ......................... 10
1.1.1. Khái niệm hợp đồng và hợp đồng có yếu tố nước ngoài. ............ 10
1.1.2. Nguồn pháp luật điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài. ..... 17
1.2. Khái quát chung về giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng. ....... 22
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về hợp đồng. ................................ 22
1.2.2. Đặc điểm của giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng. .......... 23
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng............ 25
Chương 2.GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 30
2.1. Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể khi giao kết hợp đồng
có yếu tố nước ngoài. ................................................................................... 30

3



2.1.1 Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể khi giao kết hợp
đồng theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. ............................ 31
2.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể khi giao kết hợp
đồng trong một số điều ước quốc tế.......................................................... 33
2.1.3. Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể khi giao kết hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam. ................................................................. 34
2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của hợp đồng có yếu tố nước
ngoài. ............................................................................................................ 38
2.2.1. Giải quyết xung đột pháp luật về mặt nội dung của hợp đồng theo
pháp luật của một số quốc gia. .................................................................. 39
2.2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về mặt nội dung của hợp đồng theo
một số điều ước quốc tế. ........................................................................... 40
2.2.3. Giải quyết xung đột pháp luật về mặt nội dung của hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam. .................................................................................. 43
2.3. Giải quyết xung đột pháp luật về mặt hình thức của hợp đồng có yếu tố
nước ngoài. ................................................................................................... 51
2.3.1. Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng của một số
quốc gia trên thế giới. ............................................................................... 51
2.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng theo một số
điều ước quốc tế. ....................................................................................... 53
2.2.3. Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam. ........................................................................................... 56
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 62

4



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Hiện nay, Việt Nam của chúng ta đang hội nhập quốc tế sâu rộng trong
tất cả các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Khi tiến hành hội nhập sẽ có rất
nhiều các quốc gia tham gia. Thực tế hiện nay, mỗi một quốc gia đều có một
hệ thống quy phạm pháp luật riêng và các quy phạm pháp luật này khác với
quy phạm pháp luật của các quốc gia khác thậm chí là hoàn toàn trái ngược với
nhau. Nguyên nhân của sự khác nhau về pháp luật của mỗi quốc gia do xuất
phát từ các đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội và điều kiện lịch sử hình thành của
mỗi quốc gia đó là rất khác nhau.
Vì vậy, khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài
sẽ xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật khi pháp luật của các bên tham gia
cùng điều chỉnh một vấn đề.
Để giải quyết tốt về hiện tượng xung đột pháp luật khi điều chỉnh các
quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài đặc biệt về lĩnh vực hợp đồng có yếu
tố nước ngoài thì các quy phạm pháp luật cần phải có sự thống nhất và phù hợp
theo thông lệ của thế giới để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các chủ
thể trong và ngoài nước. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải hoàn thiện các quy
định của pháp luật của mình khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Gần đây, tại kì họp thứ 10 Khóa XIII diễn ra vào ngày 24 tháng 11 năm
2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự 2015 và chính thức có
hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2017. Bộ luật Dân sự 2015 đã có những
tiến bộ đáng kể so với Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005 về những
quy định liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Việc ra đời của
Bộ luật Dân sự 2015 đã tháo gỡ một số những bất cấp và khó khăn nhất định
so với các Bộ luật Dân sự ban hành trước đó. Điều này đã góp phần rất lớn
trong việc hội nhập kinh tế của Việt Nam và đồng thời cũng tương thích hơn
với xu thế phát triển của pháp luật của các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Do đó, nghiên cứu, tìm hiểu về việc giải quyết xung đột pháp luật về hợp
đồng tại Việt Nam mà chủ yếu là theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 là vô

cùng cần thiết và có ý nghĩa. Bằng việc nghiên cứu và thực hiện đề tài “Giải

5


quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”
để đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực
xung đột hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định
pháp luật khác có liên quan và hướng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh
vực hợp đồng theo các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Đồng thời
nêu lên cách mà một số quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng trong việc giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài; từ đó đưa ra một số đề
xuất cho Việt Nam nhằm khắc phục một số vướng mắc khi thi hành.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công
bố liên quan đến đề tài vấn đề xung đột pháp luật và xung đột pháp luật trong
lĩnh vực hợp đồng tại Việt Nam, trong đó có thể kể đến như:
Nhóm tài liệu là luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luật tốt nghiệp, đề
tài khoa học các cấp:
- Nguyễn Công Khanh (2003),“Cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật
điều chỉnh một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay”,
Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Bá Chiến (2008), “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện hệ
thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thuận (2005), “Giải quyết xung đột về hiệu lực và áp dụng
giữa các điều ước quốc tế”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
- Đặng Thái Hưng (2014), “Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng”,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

- Nguyễn Thị Thoa (2009),“Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại
quốc tế bằng tòa án”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
- ...
Nhóm tài liệu là bài viết trên các tạp chí khoa học luật:

6


- Nguyễn Tiến Vinh, “Bàn về việc hoàn thiện các quy định trong Phần VII
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
5/2003, tr.45-52.
- Đỗ Văn Đại, “Tư pháp Quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh
vực hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 10/2003, tr. 64-71.
- ...
Nhóm các tài liệu là giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo gồm
có:
- PGS.TS Nguyễn Bá Diến (2013), “Giáo trình Tư pháp quốc tế”, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- PGS. TS Nguyễn Bá Diến (2010), “Giáo trình Luật Thương mại quốc
tế”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Hoàng Thế Liên (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm
2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), “Giáo trình Tư pháp quốc tế”,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), “Giáo trình Tư pháp quốc tế”,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), “Giáo trình Luật Thương mại quốc

tế”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình Tư pháp Quốc
tế - Phần riêng, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
- ...
Tóm lại, đã có rất nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về xung đột pháp
luật, một số vấn đề về quy phạm xung đột và việc áp dụng quy phạm xung đột
trong thực tiễn nhất là trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên,
trong tất cả các công trình nêu trên và theo tác giả được biết thì chưa có một
công trình nào chỉ tập trung nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, đánh giá một
cách có hệ thống và tổng thể đối với quy phạm xung đột về hợp đồng tại Việt
Nam dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Và tất cả các công trình nguyên cứu và

7


bài viết trên mới chỉ nghiên cứu những quy định về giải quyết xung đột pháp
luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005
mà chưa có một đề tài và bài viết nào viết theo các quy định theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2015.
Do đó, đề tài “Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam” nhằm mục đích nghiên cứu một cách tổng hợp, khái
quát, đánh giá một cách có hệ thống các quy định giải quyết xung đột pháp luật
về hợp đồng có yếu tố nước ngoài của Bộ luật Dân sự 2015. Cũng như nêu lên
cách mà một số quốc gia sử dụng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng có yếu tố nước ngoài của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới từ đó rút ra một số bài học kình nghiệm cho Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu: Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về
giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định pháp luật và đánh

giá việc áp dụng các quy định của pháp luật khi giải quyết xung đột pháp luật
về hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời, nêu
lên bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới khi giải quyết xung
đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Từ đó, đưa ra một số đề xuất
cho Việt Nam nhằm khắc phục một số vướng mắc khi thi hành
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng được nghiên cứu của đề tài là các quy phạm pháp luật xung
đột về hợp đồng có yếu tố nước ngoài chủ yếu trong Bộ luật Dân sự 2015 và
các quy định pháp luật khác có liên quan của pháp luật Việt Nam. Cũng như
các quy phạm pháp luật của một số nước khi giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào phân tích chủ yếu các quy
định về giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.

8


Khóa luận đã sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp luật học so sánh và phương pháp thu thập thông tin để giải quyết những
vấn đề mà đề tài đặt ra. Các phương pháp này được sử dụng linh hoạt trong các
phần khác nhau của khóa luận.
Ngoài ra, khóa luận còn được nghiên cứu trên cơ sở xem xét, so sánh
của pháp luật quốc tế và pháp luật các nước trong lĩnh vực giải quyết xung đột
pháp luật về hợp đồng. Khóa luận cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực
tiễn trong quá trình nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận tốt nghiệp bao gồm hai
chương:

Chương 1: Khái quát chung về giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng
có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật Việt Nam và một số kiến nghị.

9


Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái quát chung về hợp đồng có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm hợp đồng và hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Khái niệm hợp đồng
Hợp đồng là một thuật ngữ được sử sụng rất lâu đời và được sử dụng một
cách rộng rãi hiện nay trong rất nhiều các lĩnh vực của đời sống xã hội như mua
bán hàng hóa, thuê nhà, chuyển nhượng quyền sủ dụng đất... Ngay từ thời La
Mã, các luật gia đã đặt đã đặt ra những điều kiện cơ bản để hợp đồng có hiệu
lực đó là: phải có ý chí và sự thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch; xác
định rõ ràng nội dung của hợp đồng; hành vi, công việc trong hợp đồng phải
được thực hiện; đáp ứng những điều kiện về mặt hình thức nhất định [3, tr. 48].
Mặc dù những quy định này đã có từ rất lâu nhưng cho đến nay, những điều
kiện này vẫn là những điều kiện chính và cơ bản trong pháp luật hiện hành của
nhiều quốc gia trên thế giới.
Ví dụ: Điều 1011 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều
người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc
nào đó”. Hay tại Điều 1378 Bộ luật Dân sự 1994 của Bang Québec (Canada)
quy định: “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể
phải thực hiện những cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác” [24, tr. 11].

Như vậy có thể thấy trong Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ luật Dân sự 1994
của Bang Québec (Canada) đều đưa ra khái niệm về hợp đồng khá giống nhau
và cả hai mới chỉ ra một phần bản chất của hợp đồng đó là sự thỏa thuận và
thống nhất ý chí của các bên mà chưa chỉ ra được hết các dấu hiệu đặc trưng về
hợp đồng [25, tr. 17].
Các quốc gia thuộc hệ thống thông luật (Common law) như Anh, Hoa
Kỳ, Úc, Ấn Độ, định nghĩa về hợp đồng là một thỏa thuận có tính ràng buộc về
mặt pháp lý. Hợp đồng theo hệ thống common law được hình thành khi đáp
ứng những điều kiện: có đề nghị giao kết hợp đồng, có sự chấp thuận đối với

10


đề nghị giao kết hợp đồng, sự bù trừ nghĩa vụ và ý định thiết lập nghĩa vụ pháp
lý. Sự khác biệt của hệ thống luật Common law là sự bù trừ nghĩa vụ được hiểu
là một giá trị nào đó (có thể là tiền, dịch vụ hoặc một công việc) mà theo đó
mỗi bên nhận được hoặc trao đi hoặc từ bỏ theo thỏa thuận. Do đó, nếu thiếu
sự bù trừ nghĩa vụ nghĩa là một trong các bên không có nghĩa vụ theo thỏa
thuận thì hợp đồng sẽ không thực hiện được [3, tr. 51].
Ví dụ: Điều 1 -201 Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform
Commercial Code of United State of America) quy định: “Hợp đồng là tổng
hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên mà nếu một
trong các bên vi phạm những nghĩa vụ này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự
cưỡng chế của pháp luật”. Và trong Bách Khoa toàn thư về pháp luật của Hoa
Kỳ cũng có định nghĩa hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực
thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để
không làm một việc, giao một vật xác định”. Từ đó có thể thấy định nghĩa về
hợp đồng của pháp luật Hoa Kỳ đã thể hiện rõ được bản chất và mục đích cơ
bản hợp đồng [24, tr. 11].
Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) quy định: “hợp đồng là

sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa
các chủ thể bình đẳng, thể nhân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác. Các thỏa
thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… phải phù hợp
với quy định của các luật khác”. Từ quy định này cho thấy, Định nghĩa về hợp
đồng của Trung Quốc có nhiều điểm giống với khái niệm hợp đồng của luật La
Mã nhấn mạnh tới sự tự do thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên khi giao
kết hợp và khi thỏa thuận các chủ bên bình đẳng trước pháp luật [24, tr. 29].
Hay tại Khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự Nga (1994) quy định “Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Từ quy định này có thể thấy, định định nghĩa về
hợp đồng của Nga tương tự như định nghĩa hợp đồng của Trung Quốc nhưng
có tính khái quát và ngắn gọn hơn [25, tr. 19].
Thuật ngữ “hợp đồng” được sử dụng chủ yếu tại Việt Nam vào giữa thế
kỷ 19 trở đi. Trong đời sống thực tế, Việt Nam thương sử dụng các thuật ngữ

11


thay thế cho thuật ngữ hợp đồng: giao kèo, cam kết, giao ước, khế ước, văn tự,
văn khế, tờ ưng thuận, …
Tại Việt Nam, khái niệm về hợp đồng lần đầu tiên được xuất hiện tại
Pháp lệnh về Hợp đồng Dân sự năm 1991. Điều 1 Pháp lệnh về Hợp đồng Dân
sự năm 1991quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán,
thuê, vay, mượn, tặng cho tài sản; làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc
các thoả thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng”. Định nghĩa này đã thể hiện được bản chất của hợp đồng là sự
thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng và kết quả
của sự thỏa thuận này được coi là căn cứ để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, định nghĩa này lại sử dụng phương

pháp liệt kê về các loại hợp đồng nên dễ đến thiếu sót và có khả năng không
điều chỉnh được tất cả các mối quan hệ xã hội có thể xuất hiện trong tương lai.
Để khắc phục điều những thiếu sót của Pháp lệnh về Hợp đồng Dân sự
năm 1991 thì Bộ luật Dân sự 1995 ra đời và đưa ra một định nghĩa khác về hợp
đồng tại Điều 394 như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa
này sự khái quát hóa cao hơn so với Pháp lệnh về Hợp đồng Dân sự năm 1991
đã bao quát được tất cả các loại hợp đồng trên thực tế và vẫn được giữ nguyên
trong Bộ luật Dân sự 2005. Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy định nghĩa về
hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005 hoàn toàn giống
với định nghĩa về hợp đồng quy định tại Khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự Nga
(1994). Đến Bộ luật Dân sự 2015 thay vì sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự”
như Bộ luật Dân sự 2005 thì chỉ dùng thuật ngữ “hợp đồng”. Từ đó thể hiện
tính khái quát hóa cao hơn so với Bộ luật Dân sự 2005 như việc thay đổi này
cũng không thay đổi bản chất và ý nghĩa của hợp đồng. Cụ thể, theo Điều 385
quy định: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Tóm lại, từ các định nghĩa trên ta có thể kết luận hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự. Nội dung của hợp đồng là sự thể hiện kết quả của quá trình thương thảo,

12


đàm phán và thống nhất ý chí giữa các bên với nhau. Tuy nhiên, những điều
khoản thỏa thuận của hợp đồng không được vi phạm những điều cấm của pháp
luật và phải có ít nhất hai bên chủ thể tham gia trở lên.
Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Hợp đồng có yếu tố nước ngoài là hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngoài. Vì vậy, để hiểu được khái niệm hợp đồng có yếu tố nước

ngoài cần phải làm rõ hai khái niệm đó là “hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng”
và “yếu tố nước ngoài” [52, tr. 135].
Thứ nhất, hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng. Theo quy định tại Điều 385
Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Trong pháp luật
dân sự, hợp đồng là một chế định quan trọng bởi vì hợp đồng là cơ sở pháp lý
cơ bản và phổ biến trong xác lập các quan hệ dân sự. Trên thực tế, trong lĩnh
vực dân sự có rất nhiều loại hợp đồng khác nhau như: Hợp đồng mua bán hàng
hóa, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp thuê nhà, hợp đồng
chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng hợp tác, hợp
đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng lao động... Các hợp
đồng này được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Bộ luật
Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Thương mại .... và nhiều văn bản hướng dẫn
khác. Tất cả những hợp đồng này đều được gọi là hợp đồng dân sự theo nghĩa
rộng [53, tr. 408].
Thứ hai, hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Trong tư pháp quốc tế, quan
hệ hợp đồng được xem là đối tượng điều chỉnh của ngành luật này khi quan hệ
đó xuất hiện dấu hiệu nước ngoài – dấu hiệu này còn được gọi là “yếu tố nước
ngoài” hoặc “nhân tố nước ngoài” hoặc “yếu tố quốc tế” hoặc “nhân tố quốc
tế”. Các thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau [21, tr. 234]. Tuy nhiên, trên
thực tế khi sử dụng các thuật ngữ này đôi khi có sự khác nhau. Khi sử dụng
thuật ngữ yếu tố nước ngoài hay nhân tố nước ngoài thì hàm ý quan hệ pháp
luật được đặt trong hệ quy chiếu với một quốc gia cụ thể, quốc gia sở tại. Còn
khi sử dụng thuật ngữ yếu tố quốc tế hoặc nhân tố quốc tế, thì lúc này quan hệ
pháp luật được đề cập với một bối cảnh là sự liên quan tới hơn một quốc gia.

13


Như vậy, mặc dù việc sử dụng các thuật ngữ có đôi chút khác nhau nhưng việc

dùng thuật ngữ nào cũng thể hiện bản chất của mối quan hệ hợp đồng trong tư
pháp quốc tế. Theo đó, về xung đột pháp luật hoặc áp dụng pháp luật nước
ngoài được co là những đặc trưng của quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế
[53, tr. 409].
Hiện nay, chưa có một cách hiểu thống nhất chung giữa các quốc gia về
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Bởi mỗi quốc gia đều xây dựng hệ thống
pháp luật về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong đó có hợp đồng để điều
chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài và dẫn đến sự không giống nhau giữa các
quốc gia. Điều này có thể bắt nguồn từ việc mỗi quốc gia hệ thống pháp luật
khác nhau do điều kiện, hoàn cảnh kinh tế khác nhau. Vậy ta có thể xem xét
yếu tố nước ngoài thông qua một số điều nước quốc tế và pháp luật của một số
quốc gia [53, tr. 410].
Điều 1 Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc tế hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế quy định:
“1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,
b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của
nước thành viên Công ước này.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không
tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã
hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao
đổi thông tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính
chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định
phạm vi áp dụng của Công ước này”.
Theo quy định của Điều 1 Công ước Viên 1980 thì yếu tố quốc tế có thể
được hiểu là các yếu tố về trụ sở thương mại của các bên chủ thể liên quan tới

14



hơn một quốc gia hoặc theo nguyên tắc của tư pháp quốc tế mà luật áp dụng là
luật của các nước thuộc thành viên Công ước.
Theo Công ước La Haye 1955 về thống nhất việc mua bán hàng hóa quốc
tế thì hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ mang yếu tố nước ngoài nếu các bên tham
gia hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, khi “hàng hóa trong
hợp đồng được chuyển chở từ lãnh thổ quốc gia này sang lãnh thổ quốc gia
khác, hành vi chào hàng và chấp nhận chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ
của các quốc gia khác nhau và việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của
một quốc gia khác với quốc gia nơi tiến hành chào hàng hoặc hành vi chấp
nhận chào hàng” [13]. Từ nội dung quy định tại Điều 1 của Công ước La Haye
1964 có thể thấy dấu hiệu các bên chủ thể gia hợp đồng có trụ sở thương mại ở
các quốc gia khác nhau sẽ là dấu hiệu quốc tế nếu các điều kiện về vận chuyển
hàng hóa, xác lập chào hàng và chấp nhận chào hàng được đáp ứng theo quy
định tại Điều 1 của Công ước này. Nếu một trong các bên không có trụ sở, thì
sẽ áp dụng luật cư trú của họ. Việc áp dụng Công ước không phụ thuộc vào
quốc tịch của các bên [53, tr. 409-410].
Trong Bộ nguyên tắc của Viện Thống nhất tư pháp quốc tế về hợp đồng
thương mại quốc tế (phiên bản 2004) về trụ sở thương mại của các bên chủ thể
của hợp đồng được đặt tại các quốc gia khác nhau cũng được xem là yếu tố
quốc tế của hợp đồng. Nội dung quy định này khá phù hợp với quy định của
Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế quy định [53, tr. 411].
Điều 1 Quy tắc Roma I quy định “Quy tắc áp dụng cho nghĩa vụ hợp
đồng dân sự và thương mại trong những hoàn cảnh có xung đột pháp luật”.
Theo đó, phạm vi điều chỉnh của Quy tắc này là xác định pháp luật điều chỉnh
hợp đồng, dân sự thương mại quốc tế hay có yếu tố nước ngoài nhưng lại không
cho biết hợp đồng có yếu tố nước ngoài cần được hiểu như thế nào [25, tr. 2526].
Pháp luật của Pháp cũng không đưa ra một khái niệm thống nhất về hợp

đồng có yếu tố nước ngoài. Hợp đồng có yếu tố nước ngoài được xác định dựa
vào yếu tố kinh tế thì hợp đồng này phải liên quan đến lợi ích thương mại quốc

15


tế. Ví dụ như hợp đồng mua bán giữa một công ty thực phẩm đông lạnh của
Pháp và công ty Anh được coi là hợp đồng có yếu tố nước ngoài nếu có sự
chuyển dịch tài sản ra khỏi phạm vi lãnh thổ của Pháp [25, tr. 26].
Hệ thống pháp luật Nga cũng không có định nghĩa cụ thể về hợp đồng
có yếu tố nước ngoài. Theo pháp luật Nga, hợp đồng có yếu tố nước ngoài là
hợp đồng căn cứ vào các bên tham gia hợp đồng là người nước ngoài hoặc pháp
nhân nước ngoài, căn cứ vào trụ sở kinh doanh của các bên và căn cứ vào yếu
tố điều chỉnh công đối với các giao dịch ngoại thương [55, tr. 73-74].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, yếu tố “quốc tế” trong một hợp
đồng đã được xác định và ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lí khác nhau. Tuy
nhiên các quy định về dấu hiệu nước ngoài trong quan hệ tư pháp quốc tế làm
cơ sở để xác định quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế nói chung và trong
quan hệ hợp đồng nói riêng, cần xem xét một số quy định trong Bộ luật Dân sự
2015.
Quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được ghi nhận tại Khoản
2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại
nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”

Từ quy định này có thể thấy việc xác định các yếu tố nước ngoài theo Bộ
luật Dân sự 2015 dựa trên ba dấu hiệu cơ bản: Một là, có ít nhất một bên chủ
thể là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; Hai là, các bên tham gia hợp đồng đều
là công dân, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập , thay đổi, thực hiện hoặc
chấm dứt quan hệ hợp đồng đó xảy ra ở nước ngoài; Ba là, các bên tham gia
hợp đồng đều là công dân, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ
hợp đồng đó ở nước ngoài.

16


Từ những nội dung trên đây có thể thấy một trong các tiêu chí để xác
định yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam hiện hành là dấu hiệu chủ thể
tham gia quan hệ tư pháp quốc tế. Về mặt lí luận, chủ thể trong tư pháp quốc tế
không chỉ bao gồm cá nhân, pháp nhân mà còn là quốc gia nước ngoài. Trong
quan hệ hợp đồng này, quốc gia là chủ thể đặc biệt. Quốc gia có thể tham gia
các quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài liên quan đến việc mua sắm công,
mua sắm cho Chính phủ. Quốc gia được coi là một chủ thể đặc biệt trong quan
hệ tư pháp quốc tế và trong đó có quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói
riêng do được phát sinh từ yếu tố chủ quyền của quốc gia mà không một chủ
thể nào khác của tư pháp quốc tế có được. Theo đó quốc gia được hưởng quyền
miễn trừ tư pháp và điều này được ghi nhận trong hầu hết các điều ước quốc tế
và quyền miễn trừ này cũng được xác định khi quốc gia là chủ thể trong quan
hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế [53, tr. 414].
Từ những quy định quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam cũng
như lí luận được đề cập trên đây, có thể khái quát các dấu hiệu nước ngoài trong
mối quan hệ hợp đồng của tư pháp quốc tế được thể hiện ở một số trường hợp
sau:
- Có ít nhất một bên chủ thể của quan hệ hợp đồng là người nước ngoài
hoặc pháp nhân nước ngoài, trong trường hợp đặc biệt có thể là quốc gia nước

ngoài;
- Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có nơi cư trú ở các nước khác nhau,
nếu là cá nhân, hoặc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau nếu là pháp
nhân;
- Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hợp đồng theo pháp
luật nước ngoài;
- Đối tượng của hợp đồng là tài sản đang tồn tại ở nước ngoài.
Tóm lại, hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngoài [53, tr. 415].
1.1.2. Nguồn pháp luật điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Hiện nay, pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới và các điều ước
quốc tế thừa nhận trong quan hệ pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng

17


có yếu tố nước ngoài nói riêng thì các bên đều có quyền tự do thỏa thuận và
thống nhất ý chí tất cả các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của bên. Các thỏa thuận
trong hợp đồng có hiệu lực ràng buộc các bên trong quan hệ hợp đồng nếu các
bên vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng sẽ có chế tài pháp luật để bảo đảm
thi hành. Tuy nhiên, nội dung của thỏa thuận không được trái với các quy định
của pháp luật. Để được pháp luật công nhận và bảo đảm thi hành cũng như bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên thì hợp đồng phải được sự điều chỉnh
của một hệ thống pháp luật nhất định. Vì thế, việc xác định pháp luật áp dụng
đối với hợp đồng là vô cùng cần thiết. Bởi ngoài mục đích để xác định giá trị
pháp lý của hợp đồng còn có ý nghĩa điều chỉnh những tranh chấp có thể phát
sinh trong quá trình xác lập, giao kết và thực hiện hợp đồng mà các bên không
thể dự tính hết được khi ký kết hợp đồng. Hơn nữa, điều này rất quan trọng vì
các chủ thể trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường đến từ các quốc gia
khác nhau và được sự điều chỉnh hệ thống pháp luật khác nhau.

Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài bao gồm: pháp
luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, án lệ quốc tế và các nguồn bổ
trợ khác trong lĩnh vực hợp đồng.
Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là nguồn phổ biến và chủ yếu của quan hệ pháp luật
về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Loại nguồn này còn được biết đến với tên
gọi khác là luật quốc nội bao gồm hệ thông các văn bản pháp luật do quốc gia
ban hành và các án lệ của quốc gia được hình thành trong quá trình xét xử của
Tòa án. Pháp luật quốc gia được coi là nguồn chủ yếu của quan hệ pháp luật
hợp đồng có yếu tố nước ngoài bởi hai lí do chính. Thứ nhất, quan hệ hợp đồng
có yếu tố nước ngoài thuần túy là các quan hệ dân sự vì vậy các quốc gia trước
tiên sẽ xây dựng những quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của quốc
gia mình để điều chỉnh các quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài. Thứ hai,
mặc dù điều ước quốc tế cũng có thể là nguồn điều chỉnh của quan hệ hợp đồng
có yếu tố nước ngoài nhưng việc xây dụng điều ước quốc tế để điều chỉnh mọi
nội dung trong quan hệ pháp luật hợp đồng có yếu tố nước ngoài là rất khó khăn
và không khả thì thì mỗi một quốc gia sẽ có những điều kiện kinh tế, xã hội rất
khác nhau.

18


Mặc dù các bên trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài có thể tự do thỏa
thuận lựa chọn hệ thống luật quốc gia của mình để làm luật điều chỉnh. Nhưng
sự thỏa thuận này phải nằm trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Việc các
bên lựa chọn một hệ thống pháp luật quốc gia để điều chỉnh hợp đồng nhằm
đảm bảo hợp đồng được các bên phù hợp với quy định của pháp luật và được
được pháp luật bảo vệ trong quá trình thực hiện hợp đồng. Một trong những
văn bản pháp luật quốc gia điều chỉnh về quan hệ hợp đồng có yếu tố nước
ngoài phải kể đến: Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005, Bộ luật Hàng

Hải 2005, Luật Đầu tư 2010... và hàng loạt các văn bản dưới luật khác.
Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hợp đồng
Theo công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế thì: Điều ước
quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và
các chủ thể của luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận
đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hay nhiều văn kiện có
quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn
kiện đó. Như vậy, điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế, do các quốc gia
và chủ thể khác của luật quốc tế thoả thuận xây dựng nên, nhằm xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau, thông qua các quy
phạm gọi là quy phạm điều ước. Điều ước quốc tế có thể là phổ cập hoặc không
phổ cập, toàn cầu hoặc khu vực, đa phương hoặc song phương.
Bên cạnh pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế cũng là nguồn quan trọng
để điều chỉnh quan hệ pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Sự xuất
hiện ngày càng nhiều các điều ước quốc tế để điều chỉnh các quan hệ từ hợp
đồng có yếu tố nước ngoài thể hiện sự nỗ lực to lớn của các quốc gia trong việc
thống nhất hóa các quan hệ pháp luật nhằm đơn giản hóa và hài hòa hóa các
quan hệ pháp luật điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Từ
đó góp phần thức đậy giao lưu dân sự, thương mại quốc tế phát triển.
Điều ước quốc tế thường chia thành hai loại đó là các điều ước quốc tế
song phương và các điều ước quốc tế đa phương.
Điều ước quốc tế đa phương: Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hợp
đồng thường chứa các quy phạm thực chất thống nhất (trong những điều ước

19


quốc tế loại này thì một vấn đề phát sinh từ hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì
sẽ có quy định trực tiếp điều chỉnh) và các quy phạm xung đột (trong đó quy
định các nguyên tắc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng). Hiện nay có tất nhiều

các điều ước quốc tế đa phương để điều chỉnh các quan hệ pháp luật về hợp
đồng có yếu tố nước ngoài, trong có thể kể đến như:
- Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế;
- Công ước Lahaye 1955 về Luật áp dụng đối với các động sản hữu hình;
- Công ước Rome 1980 về Luật áp dụng đối với các nghĩa vụ theo hợp
đồng;
- Nghị định (Regulation) số 864/2007 của Liên minh châu Âu ngày
11/7/2007 về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ ngoài hợp đồng (Rome II);
- Nghị định (Regulation) số 593/2008 của Liên minh châu Âu ngày
17/6/2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ của hợp đồng (Rome I);...
Điều ước quốc tế song phương: Điều ước quốc tế song phương mà trong
đó bao gồm hiệp định tương trợ tư pháp, bản cam kết thỏa thuận giữa các quốc
gia kí kết ... cũng là một trong những nguồn luật quan trọng trong việc điều
chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Việt Nam hiện nay đã ký kết
nhiều hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với nhiều quốc gia khác trên thế
giới để chiều chỉnh các quan hệ pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Trong đó có thể kể đến như:
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân
Hunggari;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Pháp;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa;

20



- Hiệp định về tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự
giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Mông Cổ;....
Tập quán quốc tế trong lĩnh vực hợp đồng
Bên cạnh pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế thì tập quán quốc
tế cùng là một trong các nguồn quan trong trọng để điều chỉnh đối với hợp đồng
có yếu tố nước ngoài. Tập quán quốc tế là những quy tắc ứng xử sự được hình
thành từ lâu đời, được sử dụng thường xuyên, liên tực và được các quốc gia
trên thế giới thừa nhận rông rãi. Tập quán quốc tế xuất hiện chủ yếu trong lĩnh
vực thương mại và hàng hải [53, tr. 43].
Các quy phạm tập quán phổ biến được áp dụng trong lĩnh vực thương
mại quốc tế và lĩnh vực hợp đồng nói riêng như: Ví dụ: Bộ nguyên tắc hợp
đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT (PICC) do Viện thống nhất về tư
pháp quốc tế UNIDROIT ban hành đưa ra những quy phạm chung nhằm điều
chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế; Quy tắc về các điều kiện thương mại quốc
tế Incorterms ( international commerical terms) - Incorterms quy định những
điều kiện thương mại thông dụng nhất trong mua bán hàng hóa quốc tế như
FOB, CIF, EXW, DAP, DAT… nhằm giúp các bên trong mua bán hàng hóa
quốc tế có cách hiểu thống nhất về tập quán mua bán hàng hóa quốc tế; hay
các tập quán và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP – The uniform
customs and practice for documentary credits) của Phòng Thương mại Quốc tế
(ICC)...
Án lệ quốc tế và các nguồn bổ trợ khác trong lĩnh vực hợp đồng
Bên cạnh các văn bản pháp luật, án lệ quốc tế cũng được xem là nguồn
quan trọng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ tư pháp
quốc tế về hợp đồng nói riêng. Đặc biệt ở các quốc gia theo hệ thống pháp luật
Common Law như Hoa Kì, Anh ... mặc dù cũng có hệ thống pháp luật thành
văn để điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng nhưng án lệ cũng giữ một vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh pháp luật và coi là nguồn chủ yếu của pháp

luật. Nguyên tắc chung của án lệ là mọi quy tắc đã được đưa ra trong một phán
quyết của Tòa án trước đó, đều có hiệu lực ràng buộc đối với các Tòa án cũng
cấp và cấp dưới khi xét xử một vụ việc tương tự. Còn ở các nước theo hệ thống

21


pháp luật Civil Law như Pháp, Đức, án lệ cũng đang dần được Tòa án sử dụng
thường xuyên hơn cho dù mức độ ảnh hưởng của mỗi quốc gia là khác nhau.
Ngoài ra, các học thuyết pháp lý, các lý thuyết về tư pháp quốc tế, sách,
tư thưởng, quan điểm của các học giả nổi tiếng trong lĩnh vực tư pháp quốc tế
cũng có sự ảnh hưởng nhất định đến nền tư pháp quốc tế. Đây được coi là nguồn
bổ trợ của tư pháp quốc tế. Tuy nhiên nguồn này chỉ mang tính chất tham khảo
mà không có tình ràng buộc nhất định.
1.2. Khái quát chung về giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về hợp đồng
Hiện nay, Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập về kinh tế quốc
tế ngày một sâu rộng. Điều đó được thể hiện bằng việc Việt Nam đã chính thức
gia nhập vào một số tổ chức, diễn đàn và hiệp định thương mại lớn trên thế giới
như ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á); ASEM (Diễn đàn hợp tác
kinh tế Á - Âu); APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương);
WTO (Tổ chức thương mại thế giới)...; và gần đây nhất Hiệp định đối tác kinh
tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã cơ bản được ký kết (đầu tháng 10/2015)
giữa Việt Nam và 11 quốc gia. Việc này sẽ làm cho việc thúc đẩy giao thương
hàng hóa và phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến các quan hệ pháp luật ngày càng
phát triển và không còn bị giới hạn trong phạm vi Việt Nam mà còn liên quan
đến nhiều hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau và các quan hệ pháp
luật phát sinh không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam mà còn
chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều quốc gia khác nhau. Do đó, dẫn đến hiện

tượng xung đột pháp luật giữa các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng.
“Xung đột pháp luật” (conflict of laws) là một thuật ngữ thuộc chuyên
ngành tư pháp quốc tế được sử dụng ở một số quốc gia với mục đích dùng để
giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Theo PGS.TS. Nguyễn Bá Diến thì “Xung đột pháp luật là hiện tượng
có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh một quan hệ Tư
pháp Quốc tế cụ thể và giữa các hệ thống pháp luật này có sự khác biệt về các
quy định khi giải quyết vấn đề” [21, tr. 93].

22


Còn theo TS. Vũ Thị Phương Lan thì “Xung đột pháp luật là hiện tượng
hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp
dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoàiquan hệ tư pháp quốc tế pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác” [53, tr.
50].
Tóm lại, từ các định nghĩa trên ta có thể nhận thấy xung đột là hiện tượng
xảy ra khi có từ hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh một quan hệ
pháp luật mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật có sự khác nhau
và quan hệ pháp luật này là quan hệ có yếu tố nước ngoài. Và cũng từ cách hiểu
về xung đột pháp luật này mà có thể định nghĩa xung đột pháp luật về hợp đồng
trong tư pháp quốc tế là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các
quốc gia khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
1.2.2. Đặc điểm của giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng
Xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế được hiểu là hiện
tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau cùng có
thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Vấn đề đặt ra là khi có hai
hay nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau cùng điều chỉnh về
quan hệ hợp đồng thì pháp luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng để xác định
tính hợp pháp của hợp đồng đó.

Khi xem xét tính hợp pháp của hợp đồng phải dựa trên nhiều yếu tố.
Nhưng đầu tiên cần phải dựa trên những tiêu chí được coi là bản chất của hợp
đồng mà buộc các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng phải tuân theo trong quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng, đó là một số nguyên tắc như: Tự do giao
kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực trong giao kết và thực hiện
hợp đồng. Những nguyên tắc này được ghi nhận trong pháp luật của hầu hết
các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Mà cụ thể là được quy định
tại Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện
cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được

23


chủ thể khác tôn trọng”... Cùng với sự tuân thủ các nguyên tắc chung của hợp
đồng như đã nêu trên, khi giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố
nước ngoài thường được xem xét dưới ba khía cạnh đó là: năng lực giao kết
hợp đồng của các bên chủ thể, nội dung của hợp đồng và hình thức của hợp
đồng [53, tr. 415].
Thứ nhất, về năng lực giao kết hợp đồng của các bên chủ thể. Điều đầu
tiên để xem xét tính hợp pháp của một hợp đồng không phải là xem xét căn cứ
vào hình thức và nội dung hợp đồng mà phải xem xét đến đến năng lực giao
kết hợp đồng của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Bởi theo pháp luật của
hầu hết các quốc gia trên thế giới sẽ bị coi hợp đồng vô hiệu nếu hợp đồng đó
được giao kết bởi một hoặc cả hai bên chủ thể không đủ điều kiện giao kết theo
quy định của pháp luật. Như vậy, chỉ có những chủ thể có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật mới được có thể tham gia quan hệ hợp đồng nhất định.
Trong tư pháp quốc tế, hiện tượng xung đột pháp luật trong việc xác định năng

lực của các chủ thể đối với giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường xảy
ra vì mỗi một quốc gia khác nhau sẽ có những quy định khác nhau về xác định
năng lực chủ thể khi giao kết hợp đồng [53, tr. 416 - 417].
Thứ hai, về nội dung hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Nội dung hợp đồng
là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa
thuận. Theo quy định của hầu hết các quốc gia trên thế giới thì các bên trong
quan hệ hợp đồng có thế tự do lựa chọn luật áp đối với hợp đồng. Tuy nhiên
trên thực tế, các bên thường có xu hướng lựa chọn hệ thống pháp luật quen
thuộc với mình đó chính là pháp luật của quốc gia mình hoặc lựa chọn các điều
ước, công ước quốc tế phổ biến trên thế giới, vì các quy định của những công
ước, điều ước này rõ ràng đã được thừa nhận chung để làm luật áp dụng đối với
hợp đồng. Việc lựa chọn luật áp dụng này có thể dẫn đến xung đột pháp luật vì
pháp luật quốc gia của các chủ thể có những quy định khác nhau.
Trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài do bị sự điều chỉnh của nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau nên hiện tượng xung đột pháp luật về nội dung của
hợp đồng xảy ra là điều khá thường xuyên. Cho nên khi xem xét tính hợp pháp
về nội dung của hợp đồng cần phải xác định luật của nước nào sẽ được áp dụng
sẽ được đặt ra. Về mặt lí luận, sẽ có nhiều hệ thống pháp luật có thể được áp

24


dụng như: luật nhân thân của các bên giao kết hợp đồng (Lex personalis), luật
nơi giao kết hợp đồng (lex loci contractus), luật nơi có tài sản (Lex rei sitae),
luật tòa án (Lex fori)… và việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào được áp dụng
để giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng sẽ phụ thuộc và quy
định của pháp luật của mỗi quốc gia [53, tr. 416].
Thứ ba, về hình thức hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Hình thức của hợp
đồng là cách thức thể hiện sự thỏa thuận của các bên. Nó ghi nhận, lưu trữ,
truyền tải nội dung hợp đồng. Trên thực tế, hình thức của hợp đồng rất đa dạng

và tồn tại ở một số dạng như văn bản, ghi âm, ghi hình, lời nói, hành vi… Để
xem xét tính hợp pháp của hợp đồng thì hình thức của hợp đồng hợp pháp cũng
là một yêu cầu bắt buộc [53, tr. 415-416].
Hiện nay, hình thức của hợp đồng có yếu tố nước ngoài được các nước
quy định khá khác nhau và có nhiều nước quy định hợp đồng có yếu tố nước
ngoài buộc phải được thể hiện dưới hình thức văn bản mới có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, xu thế chung trên thế giới thì hình thức của hợp đồng có yếu tố nước
ngoài được công nhận dưới mọi hình thức kể cả lời khai của nhân chứng. Diều
này đã được ghi nhận ở một số điều ước quốc tế như Công ước Viên năm 1980
và Công ước Rome 1980 và pháp luật của nhiều nước là thành viên của các
Công ước.
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng
Phương pháp điều chỉnh là tổng hợp các biện pháp cách thức mà nhà
nước sử dụng để tác động lên các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố
nước ngoài làm cho các quan hệ này phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp
thống trị trong xã hội. Để giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng hiện nay
có hai phương pháp đó là phương pháp điều chỉnh trực tiếp (hay còn được gọi
là phương pháp thực chất) và phương pháp điều chỉnh gián tiếp (hay còn được
gọi là phương pháp xung đột).
Phương pháp điều chỉnh trực tiếp (hay còn được gọi là phương pháp
thực chất).
Phương pháp thực chất là phương pháp trực tiếp giải quyết ngay các quan
hệ pháp lý phát sinh bằng cách xác định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của các

25


×