Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.91 KB, 110 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ nền
kinh tế. Nhiều quốc gia mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của hình thức kinh
tế này và tích cực phát triển nó như một công cụ hiệu quả để phát triển kinh
tế. Đến nay, kinh tế tư nhân đã trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa
chính trị toàn cầu. Phát triển k inh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính
đa dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi
sự phát triển.
Ở Việt Nam, cùng với quyết định đúng đắn và kịp thời chuyển nền kinh
tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến
khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.
Phát triển kinh tế tư nhân và áp dụng các nguyên tắc thị trường là một chủ
trương phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, do vậy nó nhanh chóng
khơi dậy được tiềm năng của thành phần kinh tế này và đạt được những thành
quả to lớn sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, dù không còn rơi vào cảnh bị lên án và phủ nhận như một
thời, kinh tế tư nhân vẫn chưa phát triển đẩy đủ và hiệu quả so với yêu cầu đặt
ra, nhất là khi Luật doanh nghiệp năm 2000 (và sau đó là Luật doanh nghiệp
năm 2005) ra đời với nhiều chủ trương mang tính đột phá nhằm cởi trói sức
sản xuất cho khối doanh nghiệp kinh tế tư nhân. Điều này thể hiện qua khảo
sát, đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân của nhiều địa phương ở Việt Nam,
trong số đó có tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam là một tỉnh miền T rung có nhiều lợi thế về tự nhiên cũng
như văn hóa xã hội để phát triển mạnh mẽ, đa dạng các thành phần kinh tế,

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer


Full version can be ordered from />

2

đặc biệt là kinh tế tư nhân. Tuy vậy, những năm vừa qua, theo đánh giá, khảo
sát về mặt kinh tế thì mặc dù đã có những thành tựu nhất định nhưng sức
đóng góp của thành phần kinh tế tư nhân vẫn còn một số mặt hạn chế và cản
trở. Có thể nói, tìm hiểu, nghiên cứu các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy
kinh tế toàn tỉnh Quảng Nam thông qua hoạt động của các doanh nghiệp khu
vực kinh tế tư nhân là một vấn đề quan trọng, đáng quan tâm trong thời điểm
hiện nay.
Chính vì vậy, dù không có điều kiện đi hết bức tranh toàn cảnh của
kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời kỳ mới, chúng tôi thiết nghĩ lựa chọn
một địa phương đang có sự đi lên trong hoạt động của thành phần kinh tế tư
nhân, đồng thời là nơi có nhiều biểu hiện đa dạng trong sự phát triển của
thành phần này để tìm hiểu, nghiên cứu cũng là một phương thức thích hợp để
nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc
dân. Đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Quảng Nam” cũng là một nỗ lực
của chúng tôi với hy vọng đóng góp công sức cho sự phát triển của một vùng
đất vốn “địa linh nhân kiệt” đang nỗ lực hết mình để bắt kịp với sự đi lên của
toàn đất nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tổng hợp cơ sở lý luận chung về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam;
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tư nhân, cụ thể là
các doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại tỉnh Quảng Nam;
- Đề xuất một số giả i pháp phát triển nhằm phát triển kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu vào các
doanh nghiệp kinh tế tư nhân và các chính sách liên quan đến sự phát triển

doanh nghiệp kinh tế tư nhân.
- Phạm vi nghiên cứu:

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

3

+ Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự
phát triển doanh nghiệp kinh tế tư nhân ở tỉnh Quảng Nam.
+ Về mặt thời gian: Từ khi có Luật doanh nghiệp năm 2005 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài chú trọng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích thống kê toán: Được sử dụng để phân tích
đánh giá cảm nhận của doanh nghiệp kinh tế tư nhân về các yếu tố tác động
đến sự phát triển của doanh nghiệp;
- Phương pháp mô hình hóa;
- Phương pháp tổng hợp và hệ thống hóa các văn bản về các chính sách
điều hành của chính quyền tỉnh Quảng Nam liên quan trực tiếp đến phát triển
kinh tế tư nhân;
- Một số phương pháp khác.
Nguồn dữ liệu thu thập chủ yếu bao gồm các tư liệu thống kê, điều tra
kinh tế - xã hội của Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, niên giám thống kê tỉnh
Quảng Nam, văn bản và tư liệu của các ngành, các cấp chính quyền trong tỉnh.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu (3 trang), phần kết luận (2 trang) và tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn được chia thành 3 chương như sau:

Chương 1 - Cơ sở lý luận chung về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Chương 2 - Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Quảng Nam
Chương 3 - Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân tỉnh
Quảng Nam.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Ở VIỆT NAM
1.1. Kinh tế tư nhân – Khái niệm, đặc trưng và vai trò
1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân (KTTN)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 12/1986) đã đánh dấu một mốc quan trọng trong công cuộc đổi mới đất
nước, trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách kinh tế mới của
đất nước, KTTN được hồi sinh và phát triển trong một nền kinh tế hoạt động
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà
nước. Đến nay, từ thực tiễn hơn 20 năm đổi mới cơ chế kinh tế nói trên,
KTTN đã có chỗ đứng vững chắc và thực sự trở thành một bộ phận quan
trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, xung quanh khái niệm KTTN vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau và có những cách phân loại khác nhau về các
hình thức KTTN.
Kinh tế tư nhân (KTTN) là một khái niệm dùng để chỉ loại hình kinh tế
tồn tại trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Sở hữu là một phạm trù lịch sử, bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con
người với quá trình chinh phục thiên nhiên. Sở hữu nguyên thủy là hình thức

sở hữu đầu tiên của loài người, dựa trên nền sở hữu tập thể. Cùng với quá
trình vận động của lịch sử, sở hữu tư nhân và KTTN xuất hiện vào cuối
phương thức sản xuất công xã nguyên thủy, gắn liền với sự phân công lao
động và sự hình thành kinh tế hàng hóa. Trải qua quá trình vận động và phát
triển của lịch sử, KTTN không ngừng phát triển và tồn tại dưới nhiều hình
thức khác nhau tùy thuộc vào hình thái, quy mô và tính chất của sở hữu tư
nhân. Vì vậy, KTTN có thể được hiểu là một loại hình kinh tế gồm nhiều hình
thức kinh tế khác nhau dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

5

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của kinh tế tư nhân
Thứ nhất: KTTN là các đơn vị kinh doanh, hoạt động vì mục đích hàng
đầu là lợi nhuận.
Trong một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hay kinh
tế tập thể, mục tiêu lợi nhuận với họ không phải là hàng đầu và có một số
doanh nghiệp trong lĩnh vực công cộng hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận.
Trong khi đó KTTN luôn coi mục tiêu sinh lời đặt lên vị trí hàng đầu, nếu
không sinh lời thì đồng nghĩa với việc phá sản. Chính vì vậy, thước đo về
mức độ sinh lời cũng phản ánh được sự phát triển lớn mạnh của khu vực kinh
tế này. Đương nhiên để sinh lời thì KTTN phải nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, phải luôn đổi mới công nghệ và quản lý…và đây chính là điều
khiến cho KTTN luôn năng động, linh hoạt và là động lực phát triển cho nền
kinh tế.
Như vậy, KTTN hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận là
hàng đầu, đó cũng chính là đặc điểm khác biệt so với một số doanh nghiệp

thuộc khu vực kinh tế Nhà nước.
Thứ hai: KTTN có quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hóa tổ chức
sản xuất.
Với đặc điểm hoạt động đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
nên KTTN luôn phải lựa chọn các quy mô phù hợp để tối ưu hóa tổ chức sản
xuất, cũng chính vì lẽ đó mà KTTN tồn tại với quy mô rất đa dạng, từ các
công ty xuyên quốc gia khổng lồ cho tới doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng
là điểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước thường có quy mô khá lớn, rất ít các doanh
nghiệp quy mô nhỏ. Lý do tồn tại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn
ở một số nước bởi lẽ, một số doanh nghiệp cung cấp hàng hóa công cộng hoặc
vì một lý do nào đó mà doanh nghiệp đó được tồn tại độc quyền nên quy mô
lớn mới hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp quy mô lớn thuộc

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

6

sở hữu nhà nước thường mở rộng quy mô không vì sự tối ưu hoá sản xuất mà
vì động cơ muốn mở rộng doanh nghiệp để có thêm các đặc quyền và uy lực
của người lãnh đạo. Điều này khác với KTTN, quy mô sản xuất có thể mở
rộng hoặc thu hẹp để đạt mục tiêu tối ưu hoá sản xuất. Cũng chính vì khả
năng lựa chọn quy mô sản xuất hợp lý mà các doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân sử dụng lao động một cách hiệu quả. Các chủ doanh nghiệp tư nhân
thường căn cứ vào yêu cầu thực sự của công việc để tuyển chọn người và căn
cứ vào năng lực đóng góp của người lao động để có cơ chế trả công hợp lý,
khuyến khích được người lao động và đào tạo được một đội ngũ doanh nhân
và công nhân kỹ thuật lành nghề cho nền kinh tế. Đồng thời chủ doanh nghiệp

cũng có thể sa thải ngay tức thì những lao động yếu kém, không hiệu quả.
Đây cũng là điểm khác biệt với cơ chế trả công một cách bình quân chủ nghĩa
trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước.
Thứ ba: KTTN là các đơn vị kinh tế có tính năng động và linh hoạt cao
trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
KTTN ra đời cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa, nó phát
triển một cách tự nhiên và đây là điểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nước hay sở hữu tập thể, các doanh nghiệp này thường được ra
đời với sự nỗ lực nhân tạo của Nhà nước và tập thể, tiếp theo là hàng loạt các
ưu đãi để chúng tồn tại và phát triển.
Sức sống của nền KTTN thể hiện ở tính năng động và linh hoạt. Với
một ý tưởng kinh doanh khả thi sẽ có thể tức thì được hiện thực hóa bởi các
đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Quá trình ra quyết định
nhanh chóng và gọn nhẹ đó chỉ có được ở các tổ chức kinh doanh thuộc khu
vực tư nhân. Cũng vì sự ra đời là khách quan và tính năng động, linh hoạt cao
nên KTTN có khả năng tồn tại và thích ứng với mọi hoàn cảnh khắc nghiệt
nhất của nền kinh tế. Thực tế cho thấy trong thời gian dài, ở các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây KTTN vẫn tồn tại ở những loại hình và mức độ khác

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

7

nhau trong một số lĩnh vực cho dù nó bị Nhà nước cấm đoán và phong toả ở
mọi phương diện. Thực tế cũng cho thấy khi các chính sách cấm đoán ở các
quốc gia này được nới lỏng đôi chút thì KTTN hồi sinh và phát triển mạnh mẽ
như “nấm sau mưa”. Trong thời kỳ trước đổi mới, khu vực tư nhân ở Việt
Nam vẫn tồn tại xét ở góc độ khu vực tư nhân phi chính thức. Sau đổi mới

kinh tế, khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ mà không nhận được sự ưu ái
của Nhà nước. Các chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ yêu cầu được đối xử công
bằng và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác chứ họ không yêu cầu sự
ưu ái của Nhà nước đối với họ. Điều này minh chứng rõ tính năng động và
linh hoạt của KTTN trong bất kỳ hoàn cảnh kinh tế nào.
Thứ tư: KTTN hoạt động dựa trên sự thống nhất giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng tài sản.
Vì KTTN dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cho
nên sự tồn tại dưới hình thức là các loại hình doanh nghiệp hay hộ gia đình,
người sản xuất nhỏ thì về bản chất nó vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Người chủ sở
hữu có quyền quyết định hoàn toàn mọi quá trình sản xuất kinh doanh và
đương nhiên các quyết định đó đi liền với quyền lợi và trách nhiệm của chính
họ. Nguyên tắc hoạt động của KTTN là “bốn tự”: i) tự bỏ vốn, ii) tự tổ chức,
iii) tự chủ trong kinh doanh và iv) tự bù lỗ. Đây là cơ chế để gắn kết kết quả
hoạt động (lợi ích) với năng lực hoạt động của chính các chủ doanh nghiệp tư
nhân. KTTN hoạt động bởi chính vốn liếng của mình (cho dù là vốn vay) nên
mọi quyết định phải được cân nhắc kỹ lưỡng và mang lại hiệu quả, tức phải
sinh lời, phải làm cho hoạt động kinh doanh luôn phát triển, đồng vốn phải
không ngừng lớn lên. Điều này khác biệt với các giám đốc doanh nghiệp Nhà
nước hay nhà quản lý trong kinh tế tập thể, họ hoạt động không dựa trên vốn
hay không hoàn toàn trên đồng vốn của chính mình mà đó là vốn liếng của
Nhà nước, của tập thể. Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản trong các đơn
vị kinh tế này không có sự thống nhất, chính vì vậy mà trách nhiệm và quyền

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

8


lợi thường không đi liền với nhau, do đó các quyết định của họ sẽ có thể
không phản ánh sự thận trọng, kỹ lưỡng và tính hiệu quả. Mục đích lãnh đạo
của họ có thể không chỉ là làm cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận mà
là các mục đích khác như thăng tiến ở một chức vụ quản lý khác cao hơn.
Trên đây là các đặc điểm rõ nét nhất về khu vực KTTN ở các nước khi
so sánh với khu vực kinh tế công cộng và đây cũng là những ưu thế của
KTTN so với kinh tế công cộng trong tính hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên KTTN cũng có mặt trái của nó mà chính vì lẽ đó, sự
tồn tại khu vực kinh tế công cộng ở mọi quốc gia là khách quan và cần thiết
bởi vai trò của chúng trong việc cung cấp hàng hoá công cộng và một số hàng
hoá - dịch vụ khác mà khu vực tư nhân cung cấp không hiệu quả xét về khía
cạnh hiệu quả xã hội.
Đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi, khu vực KTTN
có thêm một số đặc điểm sau:
+ KTTN ở các nước chuyển đổi được hình thành từ nhiều con đường
khác nhau, ngoài hình thức tự phát triển, thành lập mới các doanh nghiệp tư
nhân thì còn một con đường khác là chuyển đổi sở hữu, tư nhân hoá các xí
nghiệp do Nhà nước sở hữu.
+ Quy mô của khu vực KTTN ở các nước đang phát triển còn nhỏ bé,
chiếm tỷ trọng không nhiều trong GDP, trình độ công nghệ lạc hậu và thiếu
kỹ năng quản trị và kinh nghiệm kinh doanh…
+ Đa phần các doanh nghiệp tư nhân ở các nước đang phát triển có quy
mô vừa và nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp và năng lực cạnh tranh
yếu kém. Đây cũng là đặc điểm chung của nền kinh tế các nước đang phát
triển, số các doanh nghiệp tư nhân ở các nước này có quy mô lớn là rất ít.
1.1.3. Các hình thức kinh tế tư nhân ở Việt Nam
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version

GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

9

nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ
vốn ra thành lập làm chủ. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử
dụng tài sản, đồng thời cũng là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Thông thường chủ doanh nghiệp là giám đốc, trực tiếp tiến hành hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp có không quá 50 thành
viên góp vốn thành lập công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng tài sản của mình. Công ty TNHH có thể chỉ có một thành viên.
Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của công ty bằng tài sản của mình (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên
công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp vào công ty. Như vậy, trong công ty TNHH có sự phân tách tài
sản: tài sản của công ty và tài sản của thành viên. Nguyên tắc phân tách được
áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm của công ty.
- Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của
công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu
cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho
đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
Trong suốt quá trình hoạt động của công ty CP ít nhất phải có 3 thành
viên tham gia công ty cổ phần. Là loại công ty đặc trưng cho công ty đối vốn
cho nên có sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy việc quy định số thành
viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn tại

của công ty cổ phần. Ở hầu hết các nước đều có quy định số thành viên tối
thiểu của công ty cổ phần.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

10

- Công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một hình thức của công
ty đối nhân, trong đó có ít nhất 2 thành viên (đều là cá nhân và là thương
nhân) cung tiến hành hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) dưới một hãng
chung (hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản
nợ của công ty.
Ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Thành
viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp
và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
1.1.4. Vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán của
Đảng ta.
Điều này thể hiện ở chỗ, thứ nhất, với trình độ phát triển như hiện nay
của lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của KTTN vẫn là nhu cầu khách
quan, thứ hai, KTTN đã và đang tiếp tục chứng tỏ vai trò động lực của nó đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thứ ba, sự phát triển của KTTN
trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đóng góp không nhỏ vào việc giải
quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của đất nước.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền sản xuất xã hội nào muốn đạt

hiệu quả tăng trưởng cao đều phải thực hiện nền kinh tế thị trường. Công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự phát triển của nền kinh
tế nước ta là đã khơi dậy được tiềm năng của các thành phần kinh tế thông
qua chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó KTTN có vai trò
quan trọng và tiếp tục được khuyến khích phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

11

Sự phát triển của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là sản phẩm gắn liền với chủ trương đúng đắn của Đảng về phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Những thành tựu kinh tế quan trọng đạt
được qua 20 năm đổi mới đất nước là bằng chứng sinh động, xác nhận một
cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói chung và triển vọng tiềm
tàng của KTTN nói riêng. Bởi vậy, có thể nói, đối với nước ta, phát triển
KTTN là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến trình xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể coi
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới của đất nước
trong những năm sắp tới.
Sự phát triển của KTTN đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển
chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội, như huy động được nhiều nguồn vốn
đầu tư với số lượng lớn vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao sức sản
xuất của xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới vừa làm tăng của cải vật chất
cho xã hội, vừa làm giảm áp lực giả i quyết việc làm cho người lao động, thúc
đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường, làm tăng sức cạnh tranh

của hàng hoá sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, vừa góp phần tạo
nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết nhiều vấn đề xã
hội... Sự biến đổi của quan hệ sở hữu khiến quan hệ quản lý và phân phối
cũng thay đổi, do vậy, quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt và phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất vốn còn thấp và phát triển không đều
giữa các vùng, ngành trong cả nước. Nhờ vậy, đã khơi dậy và phát huy được
tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp
nhân dân vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì
những lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng, sự phát triển của KTTN đã
đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

12

Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc
KTTN trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh đã đẩy lùi
dần tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị trường
được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng đẩy lùi
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm thức xã
hội. Thông qua việc phát triển KTTN mà quyền làm chủ của nhân dân, trước
hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy. Ở nước ta hiện nay, trong mối
quan hệ giữa kinh tế nhà nước và KTTN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, quyết định bản chất và định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế, còn KTTN là “chỗ dựa thiết yếu”, “có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế”. Sở dĩ KTTN có vai trò như vậy là vì những

lý do sau đây:
Thứ nhất, KTTN tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn, đóng
góp đáng kể vào giá trị thu nhập của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cũng cần
nói thêm rằng, hiện nay, không một quốc gia nào trên thế giới lại coi nhẹ vai
trò, vị trí của KTTN.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ở các nước có nền kinh
tế phát triển cao và hiệu quả, tỷ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân của
khu vực KTTN bao giờ cũng cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước.
Thứ ba, KTTN tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày
càng lớn vào ngân sách Nhà nước, tham gia tích cực và hiệu quả trong việc
thực hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ tư, ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, KTTN đã
và đang từng bước khẳng định vị trí “chỗ dựa thiết yếu” của nó theo đúng quy
luật của nền kinh tế thị trường. Nó đã thực sự trở thành một bộ phận của kinh tế
dân doanh, thể hiện định hướng phát triển theo nguyên tắc “lấy dân làm gốc”
với mục tiêu thực hiện dân giàu, nước mạnh. KTTN đang có cơ hội phát triển
mạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu, cả về quy mô số lượng lẫn chất lượng.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

13

Thứ năm, phát triển KTTN là một tất yếu xuất phát từ quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu chúng ta chỉ coi kinh
tế Nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng mà không đặt KTTN vào đúng vị
trí của nó, thì về thực chất, chúng ta vẫn coi sở hữu là mục đích của mọi chính
sách. Chúng ta không thể để quan hệ sản xuất vượt quá xa so với trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất như trước đây, cũng như không thể “ép” kinh tế
Nhà nước và kinh tế tập thể phải có tiềm lực lớn hơn KTTN trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi chúng chưa đủ khả năng làm
điều đó một cách hiệu quả.
Ngoài ra KTTN còn có một vai trò quan trọng mà không thể không
nói đến, đó là giá trị nhân văn của KTTN. Thực tế cho thấy KTTN có vai trò
đắc lực tạo ra sự phát triển của xã hội, tạo cho mỗi cá nhân vô số cơ hội có
việc làm để khẳng định mình, để mưu cầu cuộc sống và hạnh phúc, tức là
góp phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp hơn. Phát triển kinh
tế, suy cho cùng không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện. Mục tiêu cao
nhất của nhân loại là xã hộ i phát triển, con người phát triển. Có thể nói rằng
KTTN là một phương tiện quan trọng để con người có cơ hội hoàn thiện
mình trong quá trình phát triển hướng thiện của nhân loại. Con người đã
sáng tạo ra và quyết định lựa chọn KTTN để phát triển, nhưng đồng thời
KTTN lại là môi trường tốt để con người tự thân phát triển, con người có cơ
hội tự hoàn thiện vì sự phát triển của chính nó và thông qua đó phát triển
toàn xã hội. Như vậy, cho dù còn những cách nhìn nhận khác nhau về vai trò
của KTTN nhưng rõ ràng là KTTN đang từng bước trở thành động lực chính
cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tạo sự ổn định xã hội, là công
cụ quan trọng để tạo công ăn việc làm cho người lao động, tiếp nhận những
tri thức, công nghệ, phương pháp quản lý mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn nhàn rỗi, tạo nguồn thu

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

14

cho ngân sách Nhà nước và tạo động lực cạnh tranh và phát triển kinh tế.

Hay nói một cách khác phát triển KTTN cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa
dạng và phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi
sự phát triển.
1.2. Nội dung và tiêu chí phát triển kinh tế tư nhân
1.2.1. Nội dung phát triển kinh tế tư nhân
1.2.1.1. Về mặt lượng
- Phát triển số lượng, mở rộng qui mô các doanh nghiệp
Phát triển số lượng và qui mô các doanh nghiệp là những tiêu chí quan
trọng thể hiện sự lớn mạnh của doanh nghiệp KTTN. Số lượng doanh nghiệp
gia tăng hằng năm chứng tỏ doanh nghiệp KTTN ngày càng phát triển. Tuy
nhiên, gia tăng số lượng doanh nghiệp không chỉ tăng về số lượng doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh mà phải được thể hiện bằng sự tăng lên về số
lượng doanh nghiệp hoạt động thực tế trên thị trường, có như vậy mới đánh
giá đúng tình hình phát triển số lượng doanh nghiệp KTTN.
Mở rộng quy mô của doanh nghiệp có thể hiểu là làm cho các yếu tố về
vốn, lao động, mặt bằng sản xuất kinh doanh tăng lên. Vốn, lao động, mặt
bằng sản xuất kinh doanh là những yếu tố đầu vào cơ bản đối với sự tồn tại và
phát triển của các doanh nghiệp KTTN. Việc gia tăng về vốn, lao động và mở
rộng mặt bằng sản xuất kinh doanh thể hiện được sự phát triển của doanh
nghiệp. Trong các yếu tố về vốn, lao động, mặt bằng sản xuất kinh doanh thì
yếu tố vốn có vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Nếu vốn đầu tư dài hạn bình quân của doanh nghiệp KTTN cao sẽ thúc đẩy sự
tăng trưởng của khu vực này trong tương lai.
Phát triển số lượng và qui mô doanh nghiệp phải được tiến hành cùng
với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì các doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh mới đứng vững được trong điều kiện
cạnh tranh và hội nhập với nhiều yếu tố môi trường thường xuyên biến động

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer

Full version can be ordered from />

15

như hiện nay. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp KTTN ngày càng
được nâng cao mới đánh giá đúng thực chất sự phát triển doanh nghiệp KTTN
của một địa phương, một quốc gia.
- Sự tăng lên về vốn
Vốn là một trong những yếu tố đầu vào quyết định đối với sự tăng
trưởng phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào và các doanh nghiệp
KTTN không phải là ngoại lệ. Nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường trong điều kiện hết sức khó khăn, đặc
biệt là KTTN, sau một thời gian dài bị xã hội kỳ thị và phân biệt đối xử thì
đến nay mặc dù đã có những bước phát triển vượt bậc về số lượng lẫn chất
lượng nhưng đa phần đều là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và rất nhỏ. Hơn nữa,
khi mà nước ta đang đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì trong
tương lai không xa các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh
nghiệp KTTN nói riêng sẽ phải đối mặt, cạnh tranh với những doanh nghiệp
nước ngoài với nguồn vốn khổng lồ. Chính vì vậy, một trong những nội dung
cơ bản nhất của quá trình phát triển KTTN chính là quá trình tăng lên về vốn.
Vốn cho phát triển KTTN có thể huy động từ nhiều nguồn như quỹ hỗ trợ của
chính phủ hoặc vay vốn ngân hàng, vốn huy động thông qua thị trường chứng
khoán, vốn huy động thông qua các nguồn phi chính thức khác như vay của
bạn bè, người thân...
- Thu hút lực lượng lao động
Việc phát triển KTTN trong cơ cấu nền kinh tế gắn liền với việc thu hút
đông đảo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này. Hiện nay, tâm lý xã
hội Việt Nam nói chung đã vượt qua thái độ coi thường việc làm ăn kinh
doanh theo tư tưởng “trọng nông, khinh thương” ngày xưa. Số lượng thí sinh
thi đại học, cao đẳng vào những ngành kinh tế đang ngày càng tăng đột biến,

hứa hẹn một nguồn lao động dồi dào cho các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên,
nhìn chung người Việt Nam vẫn có xu hướng ưa chuộng vào làm việc tại khu

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

16

vực Nhà nước do tin tưởng sự ổn định trong công việc và khả năng thăng tiến
nghề nghiệp. Do vậy, nguồn nhân lực cho KTTN hiện nay còn mỏng và yếu
kém về lượng và chất. Cần thiết phải có sự đầu tư, quan tâm để phát triển lực
lượng lao động cả về số lượng lẫn trình độ để lĩnh vực KTTN mở rộng, chiếm
lĩnh thị trường, cạnh tranh được với các khu vực kinh tế khác và bắt kịp sự
tiến bộ của thị trường trong nước và thế giới.
1.2.1.2. Về mặt chất
- Trang bị công nghệ hiện đại cho các doanh nghiệp kinh tế tư nhân
Ở đây nội dung của quá trình phát triển KTTN chính là quá trình đổi
mới không ngừng công nghệ - kỹ thuật và thiết bị ngày một tiên tiến, hiện đại
trong các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, trong chu kỳ tái sản
xuất của sản phẩm. Thực hiện quá trình phát triển KTTN trong điều kiện cách
mạng khoa học - kỹ thuật ngày nay phải gắn với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân về phương tiện công nghệ, ở cả phần cứng
và phần mềm.
Hiện đại hoá trang thiết bị máy móc dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật là
mục tiêu vươn tới của bất kỳ một doanh nghiệp nào, nhưng không phải là với
bất kỳ giá nào mà phải căn cứ vào tình hình thực tế, vào điều kiện cụ thể của
từng nước cũng như của từng doanh nghiệp. Trong điều kiện nước có nguồn
nhân lực dồi dào, trình độ quản lý có hạn, các doanh nghiệp thuộc KTTN
phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thiếu vốn đầu tư thì việc hiện đại

hoá trang thiết bị máy móc trước hết có thể giải quyết dần dần, chỉ nên tập
trung vào lĩnh vực chủ chốt, làm chỗ tựa cho các doanh nghiệp cùng phát
triển. Do vậy, quá trình trang bị và trang bị lại máy móc thiết bị phải đảm bảo
tạo cho doanh nghiệp có đủ tiềm lực để có thể cạnh tranh không chỉ ở thị
trường trong nước mà còn ở thị trường thế giới.
Trong điều kiện ngày nay, quá trình trang bị và trạng bị lại công nghệ của
doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt, gắn liền với tình hình thực tiễn của quá trình

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

17

hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, tích cực mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
- Nâng cao trình độ quản lý, tay nghề và tác phong lao động cho đội
ngũ lao động
Để có thể tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách
nhanh chóng và hiệu quả, các doanh nghiệp KTTN phải liên tục cải tổ chính
mình để nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường sức cạnh tranh. Để làm
được điều này các doanh nghiệp KTTN phải dựa vào các nguồn nội lực của
mình là chính, trong đó có nguồn nhân lực, một trong những nguồn lực được
xem là có giá trị và có vai trò quan trọng nhất trong việc tạo ra lợi thế cạnh
tranh của các doanh nghiệp KTTN ở nước ta hiện nay. Đội ngũ lao động
chính là những người sẽ nắm bắt khoa học kỹ thuật và là những người trực
tiếp hoặc gián tiếp tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Để tạo ra một sản phẩm
đẹp, có chất lượng, có tính cạnh tranh cao trên thị trường thì trình độ quản lý
của chủ doanh nghiệp cũng như kỹ năng của người lao động là vô cùng quan
trọng. Chính vì vậy, quá trình đào tạo, nâng cao trình độ quản lý, tay nghề cho

người lao động là một quá trình có tính quy luật trong tiến trình phát triển
kinh tế nước ta nói chung và phát triển KTTN nói riêng. Vấn đề là làm thế
nào để có thể tạo ra được một nguồn nhân lực ổn định, có trình độ, tay nghề
cao phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp và đáp ứng được tác
phong làm việc thời công nghiệp hoá và hội nhập.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ
Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp là sự nâng
cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thông qua mức độ hài lòng và thỏa mãn của
khách hàng, cũng như sự trung thành của khách hàng với sản phẩm, dịch vụ
và sự tiến bộ về hành vi, thái độ phục vụ của các doanh nghiệp.
Trước nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp với những tiện ích cao và tính năng hiện đại. Đòi hỏi doanh nghiệp

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

18

không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hoàn thiện hệ thống
công nghệ và hệ thống phân phối, nâng cao phong cách phục vụ và trình độ
giao tiếp của đội ngũ nhân viên đối với khách hàng.
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng
nhất để thu hút được khách hàng đến với doanh nghiệp. Do đó, nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp trước hết phải được phản ánh qua các
chỉ tiêu là độ thỏa mãn của khách hàng và độ an toàn.
- Tăng cường liên kết doanh nghiệp
Thực tế thì trong thời gian qua, các doanh nghiệp KTTN chưa quan tâm
nhiều đến việc liên kết và tồn tại quan niệm việc liên kết chỉ diễn ra giữa các
doanh nghiệp lớn với nhau, hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết với

nhau hay chỉ ít các doanh nghiệp lớn phải đóng vai trò chủ chốt trong các mối
liên kết giữa các doang nghiệp. Nhưng các thương gia cho rằng, sự liên kết
phải là sự bình đẳng và dựa trên nguyên tắc tự nguyện mới có thể khai thác
hết tiềm năng của mỗi doanh nghiệp, đối với các doanh nghiệp lớn là khả
năng về tài chính, công nghệ, quản lý còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng
vai trò là chuyên gia cộng với giá cả hợp lý. Hay nói cách khác, thế mạnh của
tất cả các doanh nghiệp sẽ được khai thác tốt. Hơn thế nữa, sự liên kết đa
dạng giữa các doanh nghiệp mạnh và yếu vì mục tiêu cùng phát triển chứ
không phải riêng cho doanh nghiệp nào.
Phát triển KTTN cũng chính là mở rộng mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp KTTN, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc phát triển các hiệp hội giúp doanh nghiệp
giải quyết các tranh chấp, khiếu mại, các quyết định cấm, dừng nhập khẩu của
phía nhập khẩu, do doanh nghiệp thiếu cán bộ thông thạo ngoại ngữ, am hiểu
pháp luật thương mại quốc tế để kiểm soát các giao dịch, tránh bị thua thiệt áp
thuế chống phá giá, theo đuổi các vụ kiện… Đặc biệt trong quá trình toàn cầu

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

19

hóa kinh tế, các quy định pháp lý của WTO lên đến hàng trăm ngàn trang với
nội dung phức tạp thì việc các doanh nghiệp đơn độc trong thương trường
quốc tế là bất lợi lớn cần khắc phục.
- Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
Phát triển KTTN trong điều kiện hiện nay phải gắn liền với quá trình
toàn cầu hoá thị trường và quốc tế hoá đời sống kinh tế. Ngày nay, mở rộng

phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá đời sống kinh tế đã và đang trở
thành xu thế phát triển mạnh của thời đại. Các doanh nghiệp thuộc KTTN
trong quá trình phát triển, tham gia vào thị trường thế giới đều trở thành một
bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, chịu tác động tương hỗ và ảnh hưởng
của những biến động kinh tế - xã hội nói chung của thế giới. Về nguyên tắc,
quá trình phát triển KTTN phải dựa trên nội lực của từng doanh nghiệp, tuy
nhiên trong điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế như hiện nay thì những
ngoại lực cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhất là giai đoạn đầu khi nội
lực của các doanh nghiệp còn yếu. T rên cơ sở các mối quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế, các doanh nghiệp thuộc KTTN có thể tiếp cận học hỏi được khoa học
kỹ thuật, trình độ quản lý từ bên ngoài và cả các nguồn vốn thông qua quá
trình liên doanh, hợp tác, đôi bên cùng có lợi. Như vậy, phát triển KTTN phải
gắn liền với quá trình phát triển và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra
được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn
đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển
bền vững. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh, khi các sản
phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn
các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc
tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn các đối thủ cạnh tranh.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

20

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu sau: sản lượng, doanh thu, thị phần, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Trong

đó, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá sự phát
triển về chất của doanh nghiệp KTTN. Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên,
năng lực cạnh tranh còn được đánh giá qua các chỉ tiêu định tính như: chất
lượng hàng hóa – dịch vụ của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh; khả
năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh; thương
hiệu, uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một đòi hỏi bức thiết
nếu doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài. Việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp gồm nhiều nội dung, nhiều khía cạnh khác nhau.
1.2.2. Tiêu chí phát triển kinh tế tư nhân
1.2.2.1. Các tiêu chí về sự phát triển về lượng của các doanh nghiệp KTTN
- Tỷ lệ doanh nghiệp khu vực KTTN đang hoạt động trong khu vực trên
tổng dân số của địa phương đó
Tiêu chí này thể hiện mức độ hoạt động của các doanh nghiệp KTTN,
thể hiện một cách trực tiếp sự phát triển về lượng của doanh nghiệp KTTN.
- Vốn đầu tư dài hạn của KTTN trên đầu người
Tiêu chí này thể hiện mức độ sẵn lòng chấp nhận đầu tư dài hạn của các
doanh nghiệp tư nhân cũng như mức độ tin tưởng vào sự phát triển của địa
phương.
- Lợi nhuận bình quân của mỗi doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp phản ánh mức độ hoạt động hiệu quả của
doanh nghiệp, khả năng khai thác tiềm lực tại chỗ của mỗi địa phương.
1.2.2.2. Các tiêu chí đánh giá về sự phát triển bền vững nội tại của
doanh nghiệp tư nhân
- Vị trí hoạt động

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />


21

Lợi thế về bố trí địa lý là tiền đề giúp cho các doanh nghiệp đạt được
hiệu quả kinh tế theo vị trí. Các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
gần các trục đường giao thông, bến cảng, nhà ga, sân bay, sự hấp dẫn về thị
trường các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu, nguồn nhân lực) và thị trường tiêu
thụ sản phẩm,... có ảnh hưởng quan trọng đến sự lựa chọn đầu tư của các
doanh nghiệp.
- Tổng số vốn đăng ký, số vốn đầu tư thực hiện
Tổng số vốn đăng ký và tỉ lệ vốn đầu tư thực hiện trong tổng số vốn
đăng ký của các doanh nghiệp FDI và trong nước vào nền kinh tế; vốn đầu tư
bình quân của một dự án và vốn đầu tư bình quân trên một ha đất.
- Hiệu quả hoạt động
Các chỉ tiêu cụ thể: tổng doanh thu; tổng giá trị gia tăng; tỷ lệ giá trị gia
tăng so với tổng doanh thu; kim ngạch xuất khẩu và tỉ trọng trong tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước; thu nhập bình quân tính trên 1 đơn vị lao động, trên
1 ha.
- Trình độ ứng dụng KHCN
+ Kỹ năng, năng lực sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp
+ Thông tin về công nghệ (tài liệu hướng dẫn sử dụng, các bí quyết
công nghệ)
+ Năng lực quản lý điều hành, tổ chức trong hoạt động công nghệ.
+ Xuất xứ của công nghệ (năm và nước sản xuất).
- Liên kết kinh tế
+ Tỉ lệ liên kết của các doanh nghiệp tư nhân trong cùng địa phương và
các doanh nghiệp tư nhân trong địa phương này với địa phương khác trong
nước và nước ngoài.
1.2.2.3. Các tiêu chí đánh giá tác động lan tỏa của doanh nghiệp
- Tác động lan tỏa về mặt kinh tế


This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

22

+ Tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đóng góp
vào ngân sách địa phương
+ Tác động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
+ Tác động thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam
- Tác động lan tỏa về mặt công nghệ
+ Mức độ đổi mới KHCN của các doanh nghiệp.
+ Khả năng tiếp thu và ứng dụng bí quyết công nghệ được chuyển giao
của doanh nghiệp.
+ Năng lực quản lý điều hành, tổ chức trong hoạt động công nghệ.
- Tác động lan tỏa về mặt xã hội
Chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng xã hội của KTTN được tập trung vào các
chỉ tiêu về khả năng giải quyết việc làm cho lao động địa phương:
+ Sử dụng lao động địa phương: quy mô và tỷ lệ lao động địa phương so
với tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân.
+ Số người tham gia cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp tư nhân trong
tổng số lao động địa phương.
+ Ảnh hưởng của các doanh nghiệp dân doanh đến sự chuyển dịch cơ
cấu lao động của địa phương.
+ Mức độ tham gia vào đào tạo nghề và tiếp nhận lao động, trong đó, đối
với lao động địa phương và lao động từ nơi khác đến.
+ Việc phát triển vốn con người (trình độ, năng lực chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp, thái độ ứng xử, khả năng hợp tác và làm việc theo nhóm,...)
- Tác động lan tỏa về mặt bảo vệ môi trường

+ Mức độ khai thác hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên
+ Mức độ giải quyết vấn đề ô nhiễm
+ Mức độ ứng dụng công nghệ sạch và công nghệ ít gây ô nhiễm
môi trường.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

23

+ Có báo cáo môi trường của các doanh nghiệp.
1.3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân
1.3.1. Nhóm nhân tố kinh tế và hội nhập
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Nguồn lực kinh tế - xã hội, nhất là dân cư và nguồn lao động, nguồn
vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ, cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng để
lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước nói
chung và của từng địa phương nói riêng trong từng giai đoạn.
Kinh tế - xã hội mà kém phát triển, thu nhập thấp không những ảnh
hưởng đến năng lực tích luỹ trong thu nhập để lập nghiệp của người dân mà
còn ảnh hưởng đến sức mua của dân cư mà các nhà đầu tư phải tính đến trong
việc lựa chọn phương án đầu tư.
- Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh chính là yếu tố quyết định tới v iệc thu hút
vốn đầu tư cũng như khuyến khích các doanh nghiệp phát triển một cách có
hệ thống.
Để có một môi trường kinh doanh thật sự thuận lợi chúng ta cần thay
đổi tư duy, ít nhất là có thể sửa đổi luật. Nên gỡ bỏ tâm lý phân biệt đối xử
giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước; tăng
cường ưu đãi, khuyến khích về hỗ trợ vốn, về thuế... nhằm thu hút đầu tư
hiệu quả hơn nữa.
- Quy mô và chất lượng các yếu tố đầu vào
Việc mở rộng hay thu hẹp kinh doanh của chủ doanh nghiệp phụ thuộc
rất lớn vào các nguồn lực của doanh nghiệp về vốn, lao động, khoa học kỹ
thuật, đất đai. Cụ thể:
+ Nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
Vốn luôn là một yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng đối với hoạt động

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

24

sản xuất kinh doanh. Nếu xem xét trên góc độ nguồn hình thành, vốn trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm: vốn tự có, vốn
huy động từ các nguồn trong nước (vốn vay từ các tổ chức tín dụng, vốn huy
động thông qua thị trường chứng khoán), vốn huy động từ các nguồn bên
ngoài (vốn từ quan hệ thanh toán quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư
gián tiếp nước ngoài).
Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp tư nhân
phản đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước, đặc biệt là các doanh nghiệp, tập đoàn nước ngoài có vốn lớn gấp hàng
chục, thậm chí là hàng trăm, hàng nghìn lần so với các doanh nghiệp KTTN.
Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp KTTN khi tham gia vào thị trường quốc tế
cần có những sự chuẩn bị hết sức kỹ càng, đặc biệt là về nguồn vốn. Chính vì
vậy, một chính sách ổn định và tạo điều kiện để có thể huy động được các
nguồn vốn là hết sức quan trọng đối với sự phát triển ổn định của các doanh

nghiệp thuộc KTTN hiện nay.
+ Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực luôn được coi là vấn đề quan trọng sống còn đối với các
doanh nghiệp. Phương pháp và nghệ thuật sử dụng nguồn lao động hiện có,
những chương trình bồi dưỡng làm phong phú thêm nguồn nhân lực, chiến lược
xây dựng thế hệ tiếp theo, chương trình tuyển chọn và bồi dưỡng thế hệ lãnh đạo
tiếp sau của doanh nghiệp là những vấn đề hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế tức là phải tham gia vào quá trình cạnh tranh toàn cầu. Muốn
cạnh tranh được thì hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp phải có chất lượng cao,
giá thành rẻ hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Mà chất lượng, giá cả hàng hoá,
dịch vụ lại phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố chủ chốt là trình độ công nghệ và
trình độ chuyên môn, tức là chất lượng của nguồn nhân lực. Chính vì vậy, việc
nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là vấn đề có ý nghĩa

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

25

sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Mà điều này không thể chỉ là nỗ lực của
riêng bản thân doanh nghiệp hay Nhà nước mà cần phải có sự phối hợp đồng bộ
của cả hai. Trong đó vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực này là rất lớn có ảnh
hưởng quyết định đến nguồn nhân lực không chỉ của thành phần KTTN mà còn
là của cả nền kinh tế nói chung.
+ Khoa học công nghệ:
Sự phát triển của KHCN đóng một vai trò hết sức to lớn đối với sự phát
triển cả nền kinh tế nói chung và của một một doanh nghiệp nói riêng, trong
đó có các doanh nghiệp KTTN. Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học và công

nghệ. Những thay đổi về công nghệ luôn có những ảnh hưởng to lớn đến mọi
doanh nghiệp cho dù nó là doanh nghiệp lớn hay nhỏ.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của các doanh nghiệp ngoài việc tạo ra các sản phẩm mới thì
các doanh nghiệp cần phải cải tiến, nâng cao chất lượng các sản phẩm hiện
có. Mà điều này lại phụ thuộc phần lớn vào sự thay đổi công nghệ, trang bị
máy móc của mỗi doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc
liệt như hiện nay thì việc doanh nghiệp nào càng nhanh chóng nắm bắt và áp
dụng được KHCN hiện đại vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó càng
có nhiều cơ hội để tồn tại và phát triển.
+ Đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh:
Mặt bằng sản xuất kinh doanh không chỉ là quy mô về diện tích mà là
các yếu tố sinh lợi như vị trí thuận lợi, kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhà
xưởng bố trí, xây dựng hợp lý. Đảm bảo mặt bằng sản xuất kinh doanh thuận
tiện, hợp lý là thể hiện sự phát triển của doanh nghiệp đó. Ngay cả đối với
một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả cũng cần mở rộng mặt
bằng, đầu tư máy móc thiết bị, chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Thực tế cho thấy,
mặt bằng sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp không đơn thuần là mở

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

×