Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tư tưởng biện chứng của Hêghen trong tác phẩm Khoa học Loogic

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BÙI NGỌC BÍCH THỦY

TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG CỦA HÊGHEN
TRONG TÁC PHẨM “KHOA HỌC LÔGÍC”

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BÙI NGỌC BÍCH THỦY

TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG CỦA HÊGHEN
TRONG TÁC PHẨM “KHOA HỌC LÔGÍC”

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS: Nguyễn Tấn Hùng

Đà Nẵng - Năm 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Ngọc Bích Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 3
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................ 3
5. Kết cấu của luận văn .............................................................................. 4
6. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 4
CHƢƠNG 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG BIỆN
CHỨNG CỦA HÊGHEN VÀ TÁC PHẨM “Khoa HỌC Lôgíc”............... 7
1.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG CỦA
HÊGHEN ........................................................................................................... 7
1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nƣớc Đức cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX ............................................................................................ 7
1.1.2. Tiền đề về khoa học tự nhiên ............................................................ 9
1.1.3. Tiền đề về tƣ tƣởng ......................................................................... 13
1.2. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA HÊGHEN ........................................ 14
1.2.1. Về tiểu sử của Hêghen .................................................................... 14
1.2.2. Về sự nghiệp của Hêghen ............................................................... 15
1.3. TÁC PHẨM “KHOA HỌC LÔGÍC” CỦA HÊGHEN ............................ 17
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1................................................................................... 20

CHƢƠNG 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG BIỆN
CHỨNG CỦA HÊGHEN TRONG TÁC PHẨM “KHOA HỌC
LÔGÍC”.......................................................................................................... 21
2.1. QUAN NIỆM CỦA HÊGHEN VỀ ĐỐI TƢỢNG CỦA TRIẾT HỌC,
CỦA LÔGÍC HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI VỚI
NHẬN THỨC .................................................................................................. 21


2.1.1. Quan niệm của Hêghen về đối tƣợng của triết học ........................ 21
2.1.2. Quan niệm của Hêghen về đối tƣợng của lôgíc học ....................... 27
2.1.3. Quan niệm của Hêghen về vai trò của phép biện chứng đối với nhận
thức và khoa học. ...................................................................................... 33
2.2. HỌC THUYẾT VỀ TỒN TẠI .................................................................. 42
2.2.1. Phạm trù tồn tại ............................................................................... 42
2.2.2. Các phạm trù Chất – Lƣợng – Độ................................................... 43
2.3. HỌC THUYẾT VỀ BẢN CHẤT............................................................. 52
2.3.1. Bản chất nhƣ là cơ sở của sự hiện hữu ........................................... 52
2.3.2. Hiện tƣợng ...................................................................................... 54
2.3.3. Hiện thực ......................................................................................... 54
2.4. HỌC THUYẾT VỀ KHÁI NIỆM ............................................................. 64
2.4.1. Học thuyết về khái niệm chủ quan hay khái niệm (đơn thuần) hình
thức............................................................................................................ 64
2.4.2. Học thuyết về tính khách quan hay về khái niệm nhƣ đƣợc quy định
(để) trở thành sự trực tiếp ......................................................................... 66
2.4.3. Học thuyết về ý niệm, về quan hệ chủ thể - khách thể, về sự thống
nhất của khái niệm với tính khách quan, về chân lý tuyệt đối ................. 67
2.5. KHÁI QUÁT TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN
THÔNG QUA TÁC PHẨM “KHOA HỌC LÔGÍC”...................................... 68
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2................................................................................... 75
CHƢƠNG 3. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƢ TƢỞNG

BIỆN CHỨNG HÊGHEN TRONG TÁC PHẨM “KHOA HỌC
LÔGÍC”.......................................................................................................... 76
3.1. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG HÊGHEN
TRONG TÁC PHẨM “KHOA HỌC LÔGÍC” ............................................... 76


3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG CỦA
HÊGHEN ......................................................................................................... 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (bản sao)


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phép biện chứng và Lôgíc học là những thành tựu của tƣ tƣởng triết học
nhân loại, đã hình thành từ rất sớm và đƣợc coi là những chuyên ngành truyền
thống của triết học. Ở phƣơng Tây, Hêraclít đƣợc coi là ngƣời sáng lập phép
biện chứng duy vật cổ đại với tƣ tƣởng về sự biến đổi không ngừng của thế
giới nhƣ một dòng chảy và sự tồn tại phổ biến của mâu thuẫn trong tự nhiên,
xã hội và tƣ duy. Phép biện chứng cũng đƣợc Xôcrát và Platôn phát triển về
phía duy tâm và vận dụng nhƣ là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý.
Arixtốt đồng nhất phép biện chứng với lôgíc học và đƣợc coi là ngƣời sáng
lập lôgíc học truyền thống. Tuy nhiên, lôgíc học Arixtốt là lôgíc hình thức,
chƣa thể hiện hết tất cả những nội dung phong phú của phép biện chứng.
Trong thời Trung cổ, lôgíc học hình thức và phép biện chứng duy tâm đƣợc
các nhà thần học vận dụng để chứng minh sự tồn tại của Thƣợng đế và những

tín điều trong Kinh thánh. Đến thời Cận đại, lôgíc học hình thức và phép biện
chứng đƣợc nhiều nhà triết học phát triển theo hƣớng duy vật. Tuy nhiên,
trƣớc Hêghen, lôgíc học và phép biện chứng vẫn còn tách rời nhau, thậm chí
đối lập nhau.
Hêghen đã kết hợp lôgíc học với phép biện chứng để xây dựng thành
một hình thức lôgíc học mới: Lôgíc học biện chứng và sử dụng nó nhƣ là
công cụ để nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, xã hội và tƣ duy nhằm mục
đích đạt đến chân lý trong nhận thức. Trong lôgíc học biện chứng của
Hêghen, lôgíc học và phép biện chứng đồng nhất với nhau, đƣợc trình bày
trong tác phẩm “Khoa học Lôgíc”, phần quan trọng nhất trong công trình đồ
sộ “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” của ông. “Lôgíc học” đƣợc
Hêghen xem là bộ phận quan trọng nhất của triết học. Hêghen đã đƣa ra một
hệ thống quan điểm đồ sộ và toàn diện về lôgíc học và phép biện chứng.


2
Lôgíc học biện chứng đã trở thành trung tâm là hạt nhân đích thực của toàn bộ
hệ thống triết học Hêghen.
Lôgíc biện chứng của Hêghen là nền tảng phƣơng pháp luận quan trọng
để sau này C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng nên học thuyết của mình. Không
chỉ vận dụng trong việc nghiên cứu mối liên hệ phổ biến và các quy luật vận
động, phát triển chung nhất của thế giới trên tinh thần duy vật, C. Mác và Ph.
Ăngghen còn vận dụng lôgíc học biện chứng trong việc sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử nói chung và nghiên cứu lôgíc phát triển của chủ nghĩa tƣ bản
nói riêng, trên cơ sở đó, đƣa ra những dự báo về xã hội cộng sản tƣơng lai. V.I.
Lênin trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa phép biện chứng của Hêghen, gạt bỏ
tính chất duy tâm thần bí của nó, đã phát triển phép biện chứng duy vật trong
tác phẩm triết học quan trọng của mình là “Bút ký triết học”; tiếp tục nghiên
cứu về chủ nghĩa tƣ bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đƣa ra những dự
báo và những quyết sách quan trọng về cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn hiện nay, do sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và các nƣớc Đông Âu, nhiều nhà triết học phƣơng Tây đƣơng đại, trong đó có
những nhà “mácxít mới”, tuy có kế thừa một số nội dung quan trọng trong
triết học Mác để nghiên cứu xã hội đƣơng đại, nhƣng, do đứng trên quan điểm
siêu hình, thiếu biện chứng, họ phủ nhận một số mặt, nhất là mặt cách mạng
trong triết học Mác. Do đó, trong việc nghiên cứu triết học trong giai đoạn
hiện nay, để phân tích, hiểu sâu sắc về chủ nghĩa Mác, đồng thời bảo vệ sự
đúng đắn của triết học Mác trƣớc sự tấn công, xuyên tạc của đối phƣơng,
chúng ta cần phải quay trở lại với những tƣ tƣởng lôgíc biện chứng của
Hêghen.
Chính vì vậy, một yêu cầu đƣợc đặt ra là chúng ta cần nhận thức đúng
đắn và sâu sắc hơn nữa về lôgíc học của Hêghen đặc biệt là những tƣ tƣởng
biện chứng của ông trong tác phẩm “Khoa học lôgíc” để qua đó thấy đƣợc


3
những đóng góp có giá trị đã đƣợc triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển,
đồng thời vạch ra những hạn chế duy tâm của nó. Vì lý do đó, tôi đã chọn vấn
đề: Tƣ tƣởng biện chứng của Hêghen trong tác phẩm “Khoa học Lôgíc” làm
đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích nghiên cứu những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng biện
chứng của Hêghen trong tác phẩm “Khoa học Lôgíc”, chỉ ra những đóng góp,
hạn chế của nó.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài đề ra những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những điều kiện và tiền đề lý luận cho sự hình thành tƣ
tƣởng biện chứng của Hêghen trong tác phẩm “Khoa học Lôgíc”.
- Phân tích những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng biện chứng của Hêghen

trong tác phẩm “Khoa học Lôgíc”.
- Chỉ ra những đóng góp cũng nhƣ những hạn chế của những nội dung đó.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những tƣ tƣởng biện chứng của
Hêghen thông qua tác phẩm “Khoa học Lôgíc”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn những tƣ tƣởng biện chứng
của Hêghen trong tác phẩm “Khoa học Lôgíc”, đồng thời tham khảo một số
tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng kết hợp các phƣơng pháp: phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, trừu tƣợng và cụ thể, lịch sử và lôgíc,
đối chiếu, so sánh, v.v..


4
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 3 chƣơng (10 tiết).
6. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về phép biện chứng của Hêghen, trƣớc hết phải kể đến
những công trình của C. Mác và Ph. Ăngghen trong các tác phẩm nhƣ: “Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, “Gia đình thần thánh”, “Hệ
tƣ tƣởng Đức”, “Lutvich Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”
và của V.I. Lênin trong tác phẩm “Bút ký triết học”, trong đó, các tác giả kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trình bày, kế thừa những hạt nhân hợp lý,
đồng thời vạch ra những hạn chế, mâu thuẫn trong phép biện chứng của
Hêghen.
Góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu về phép biện chứng Hêghen
là các công trình của một số tác giả triết học ở Liên Xô trƣớc đây, nhƣ bộ sách

“Lịch sử phép biện chứng (gồm 6 tập) của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô
(đã đƣợc dịch ra tiếng Việt), trong đó tập III trình bày “Phép biện chứng cổ
điển Đức” đã cung cấp một bức tranh chi tiết về phép biện chứng trong lịch
sử nhận thức nhân loại, trong đó có tƣ tƣởng biện chứng của Hêghen.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Hêghen có thể chia làm mấy
loại:
- Các công trình dịch và giới thiệu về triết học Hêghen:
Một đóng góp quan trọng vào việc nghiên cứu Hêghen là hai bản dịch
và giới thiệu của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn: “G.W.F. Hegel: Bách khoa thư
các khoa học triết học I, Khoa học lôgíc” (Nxb Tri thức, Hà Nội, 2008) và
“G.W.F. Hegel: Hiện tượng học tinh thần” (Nxb Văn học, Hà Nội, 2006) đã
đƣợc công bố trên mạng internet. Tuy nhiên, chƣa thể gọi phần viết của dịch
giả đi kèm với bản dịch là một công trình nghiên cứu độc lập về lôgíc học


5
của Hêghen.
Các công trình nghiên cứu trực tiếp về một vấn đề trong triết học của
Hêghen:
+ Sách “Quan niệm của Hêghen về bản chất của triết học” của Nguyễn
Trọng Chuẩn (Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1998).
+ Sách “Thông diễn học của Hêghen” (Hegel's Heimeneutics) của Paul
Ređing do Lê Tuấn Huy dịch ra tiếng Việt, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh, 2006.
+ Bài báo: “Những tư tưởng cơ bản của Hêghen về lôgíc học với tính
cách là lôgíc biện chứng” của Nguyễn Đình Tƣờng, Tạp chí Khoa học Đại
học Huế, 2012.
+ Luận văn thạc sỹ: “Quan điểm cơ bản của Hêghen về lôgíc học” của
Lê Thanh Tâm, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học quốc
gia Hà Nội, năm 2010

+ Luận văn thạc sỹ:“Vấn đề chân lý trong triết học Hêghen và triết học
Mác-Lênin” của Đới Thị Thêu tại Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Những công trình này là những nguồn tài liệu bổ ích, nhƣng chúng chỉ
đề cập đến một vấn đề nào đó trong triết học Hêghen, không đi sâu vào tác
phẩm “Khoa học Lôgíc” của ông.
- Các công trình nghiên cứu gián tiếp về Hêghen phải kể đến:
+ Cuốn “Lịch sử triết học phương Tây” của Nguyễn Hữu Vui (chủ
biên), (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); “Lịch sử triết học phương
Tây” của Nguyễn Tiến Dũng (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006); “Đại
cương lịch sử triết học phương Tây”, của Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Thanh Nguyễn Anh Tuấn (Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2006). Trong những
cuốn sách này chỉ có một phần nhỏ trình bày về triết học Hêghen.
+ Gần đây có tác giả Nguyễn Tấn Hùng với Giáo trình sau đại học đã


6
đƣợc xuất bản thành sách:“Lịch sử Triết học phương Tây. Từ triết học Hy lạp
cổ đại đến triết học cổ điển Đức” (Nxb Chính trị quốc gia, năm 2012) và Bài
giảng “Giới thiệu một số tác phẩm triết học ngoài mácxít” (Đại học Đà Nẵng,
2013), trong đó, tác giả đã trình bày tƣ tƣởng triết học, phép biện chứng của
Hêghen và giới thiệu một cách khái quát tác phẩm “Khoa học Lôgíc” của
Hêghen.
Nhƣ vậy, có thể nói ở nƣớc ta chƣa có một công trình nào đi sâu nghiên
cứu đầy đủ, chi tiết và có hệ thống về phép biện chứng của Hêghen trực tiếp
từ tác phẩm “Khoa học Lôgíc” của ông. Do vậy, đây là một đề tài tƣơng đối
mới mẻ.


7
CHƢƠNG 1


HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG
CỦA HÊGHEN VÀ TÁC PHẨM “Khoa HỌC Lôgíc”
1.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG CỦA
HÊGHEN
1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nƣớc Đức cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX
Nƣớc Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn là một nƣớc rất lạc hậu
về kinh tế, chính trị so với nhiều nƣớc ở châu Âu nhƣ Anh, Pháp. Đó là một
giang sơn phong kiến điển hình với hàng trăm lãnh địa độc lập, đứng đầu mỗi
lãnh địa phong kiến là một chúa đất hay ông Hoàng và đứng đầu những lãnh
địa đó là một nhà chuyên chế độc tài với quyền lực vô hạn đối với thần dân
của mình. Mỗi lãnh địa đều có quân đội, cảnh sát, tiền tệ, thuế quan riêng.
Vào năm 1815 một liên minh lỏng lẻo đƣợc hình thành, gọi là Liên minh Đức
(Deutscher Bund) có 39 nhà nƣớc tham gia, trong đó có hai nước lớn nhất là
nước Phổ và nước Áo. Sau chiến tranh Napoleon, nước Phổ nổi lên nắm vai
trò hàng đầu ở Đức.
Về kinh tế, nền kinh tế bị ràng buộc bởi quan hệ sản xuất phong kiến lạc
hậu, hầu hết ruộng đất nằm trong tay địa chủ phong kiến, những tàn dƣ của
chế độ nông nô, chế độ phƣờng hội trong thành thị, đã làm cho năng suất lao
động thấp, đời sống của đại đa số quần chúng nhân dân trở nên nghèo nàn và
vô cùng cực khổ.
Về chính trị, Triều đình vua Phổ Phririch Vinhem (1770 - 1840) không
ngừng tăng cƣờng quyền lực và duy trì chế độ quân chủ chuyên chế hà khắc,
muốn dẫn nhân dân mình quay trở về thời kỳ trung cổ, cản trở nƣớc Đức phát
triển theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa. Vì vậy, các đòi hỏi về cải cách chính
trị, nhƣ đòi tự do báo chí, quyền tự chủ của các trƣờng đại học và thành lập


8
một nghị viện đại diện cho công dân Đức đều bị đàn áp và bãi bỏ.

Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tƣ bản đã đƣợc thiết
lập và phát triển mạnh mẽ ở các nƣớc Tây Âu nhƣ Italia, Anh, Pháp… đem lại
một nền sản xuất phát triển chƣa từng có trong lịch sử, chủ nghĩa tƣ bản tỏ ra
ƣu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội trƣớc đó. Những thành tựu
kinh tế và văn hóa thời kỳ này mà đỉnh cao là cách mạng công nghiệp ở nƣớc
Anh đã khẳng định sức mạnh của con ngƣời trong nhận thức và cải tạo thế
giới. Với cuộc cách mạng tƣ sản Pháp đã làm rung chuyển cả Châu Âu, đánh
dấu sự mở đầu của một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Cuộc cách
mạng công nghiệp đã tạo ra những bƣớc nhảy đột biến trong sự phát triển của
lực lƣợng sản xuất. Cùng với cuộc cách mạng công nghiệp thì các thành tựu
về văn hóa, khoa học nở rộ ở các nƣớc Ý, Pháp, Anh… đã chứng minh cho
năng lực vô tận của nhận thức và cải tạo thế giới của con ngƣời, nhƣ vậy, ở
các nƣớc Tây Âu đã có những thay đổi nhảy vọt nhƣng nƣớc Đức vẫn nằm
trong tình trạng ì ạch của chế độ phong kiến.
Giai cấp chúa đất phong kiến Đức vốn đã phản động, thấy tình hình cách
mạng ở châu Âu lại càng trở nên phản động hơn. Tấm gương của các nước
Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những
bộ phận xã hội tiến bộ, nhƣng vì giai cấp tƣ sản Đức và lực lƣợng tiến bộ
khác nằm ở những vƣơng quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu
kém về chính trị, vì thế, đã không thể tiến hành cách mạng tƣ sản trong thực
tiễn, mà tiến hành cuộc cách mạng về phƣơng diện tƣ tƣởng. Vì vậy, nó đã
làm cho cả đất nƣớc bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần
chúng nhân dân.
Với bối cảnh chính trị - xã hội và sự phát triển của khoa học Tây Âu ở
nƣớc Đức lúc bấy giờ đã chứng tỏ sự hạn chế và sự bất lực của phương pháp
tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất các hiện tƣợng của tự nhiên và


9
thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

Tất cả những cái đó đã đặt ra một nhiệm vụ cho các nhà triết học có ý
thức tiến bộ lúc này là khôi phục lại truyền thống phép biện chứng - Đó là
nguyên nhân bƣớc chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan, tiên nghiệm của
Cantơ đến chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen, phê phán phép siêu
hình truyền thống “lý tính”, chú ý đến vấn đề triết học trong lịch sử.
Mặc dầu, lạc hậu về kinh tế và chính trị, nhƣng nƣớc Đức thời kỳ này
đạt được những thành tựu chưa từng có về triết học, về văn hóa và nghệ
thuật. Các nhà triết học cổ điển Đức trong đó có Hêghen đã đóng vai trò quan
trọng cho sự phát triển triết học Đức vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ
XIX góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành một tiền đề lý luận trực
tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
1.1.2. Tiền đề về khoa học tự nhiên
Cùng với hình thái kinh tế - xã hội ở trong nƣớc, sự phát triển của khoa
học, đặc biệt là sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đặt ra nhiều vấn đề phải
xem xét lại về mặt học thuật, một nhiệm vụ đƣợc đặt ra là phải đánh giá lại các
di sản tinh thần đã đạt đƣợc và phải có cái nhìn mới về thế giới. Triết học cổ
điển Đức ra đời và nở rộ nửa đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã bước sang
giai đoạn mới: Khoa học lý luận về các quá trình phát sinh và phát triển của sự
vật, về mối liên hệ kết hợp các quá trình đó của tự nhiên thành một chỉnh thể.
Phƣơng pháp siêu hình trƣớc sự phát triển của khoa học tự nhiên đã trở nên bất
lực và không đáp ứng khả năng khái quát và tổng hợp. Những phát minh khoa
học tự nhiên vào thế kỷ XIX đòi hỏi phải có sự khái quát về mặt triết học, sự
khái quát này cho phép vạch ra mối liên hệ tất nhiên và hợp lý, có tính quy luật
giữa tất cả các quá trình xảy ra trong tự nhiên. Sự khái quát nhƣ thế không thể
thực hiện đƣợc với lập trƣờng của chủ nghĩa duy tâm siêu hình, máy móc. Tuy
nhiên, trong khoa học tự nhiên đã xuất hiện những quan niệm biện chứng tự


10
phát ở nhiều lĩnh vực. Song nhìn chung thì phép siêu hình vẫn thống trị trong

khoa học tự nhiên cho đến những năm 40 của thế kỷ XIX.
Trong điều kiện nƣớc Đức tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nhƣng vì
triết học Đức phát triển sau triết học Pháp nên đã kế thừa đƣợc những thành
tựu của khoa học mới, với những phát minh khoa học vĩ đại, một trong những
khả năng cơ bản và kỳ diệu của trí tuệ là năng lực tƣ duy hƣớng dẫn hành
động đúng đắn, đặc biệt là phải đi sâu khám phá những bí ẩn của thế giới và
sáng tạo ra những công trình ngày càng hoàn thiện vì sự tồn tại và phát triển
của con ngƣời, một trong những phát minh quan trọng đó là: trong toán học,
Newton, Descartes, Leibniz sáng tạo ra phép tích phân, vi phân làm cho phép
biện chứng đi vào toán học; trong lĩnh vực hóa học, Lavoisier đã tìm ra ôxy
và hiểu đƣợc bản chất của sự cháy; trong lĩnh vực sinh học thì Học thuyết tế
bào (Matthias Schleiden & Theodor Schwann 1838 - 1839) và Học thuyết tiến
hóa (Charles Darwin, 1859) ra đời đã đánh dấu bƣớc ngoặt lịch sử, đƣa sinh
học từ một lĩnh vực nặng về quan sát và mô tả trở thành một ngành khoa học
chính xác, vì vậy, những phát minh đó đã tạo nên một bƣớc ngoặt nhận thức
mới về nguồn gốc của các loài sinh vật, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng
cho tƣ duy triết học duy vật biện chứng.
Trong học thuyết về tế bào, xuất phát từ nguyên tắc chung của sự phát
triển, Schwann và Schleiden đã chứng minh sự liên kết chặt chẽ giữa hai lĩnh
vực của thế giới hữu cơ (động vật và thực vật). Các tế bào động vật và thực
vật về căn bản có cùng một kết cấu nhƣ nhau, có sự thống nhất bên trong,
chúng đều cấu tạo từ tế bào và bắt nguồn từ tế bào. Học thuyết tế bào đã
chứng minh rằng, tất cả các cơ thể động vật, thực vật đều phát triển bằng cách
nhân lên và phân hóa của tế bào theo những quy luật nhất định và đã chứng
minh cho quy luật về sự thay đổi về lƣợng dẫn đến sự thay đổi về chất, đó
không phải là một quá trình thuần túy về lƣợng nhƣ một số nhà sinh học từng


11
quan niệm. Thuyết tế bào giải thích quá trình phát triển của thế giới hữu cơ,

đặt cơ sở cho sự phát triển toàn bộ hệ sinh học. Góp phần quan trọng vào sự
hình thành và khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về tính thống nhất
của sự sống trong sự biểu hiện phong phú, đa dạng và muôn vẻ của nó.
Với học thuyết tiến hóa của Darwin đã chứng minh rằng các loài thực
vật, động vật không phải là bất biến mà có sự biến đổi. Các loài khác đã có từ
trƣớc bằng con đƣờng chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo, toàn bộ giới tự
nhiên hữu sinh, kể cả con ngƣời đều là sản phẩm của quá trình phát triển lâu
dài hàng triệu năm. Thuyết tiến hóa đã xác định tính đúng đắn của quan niệm
biện chứng về sự phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chƣa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Học thuyết này có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan
trọng là chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm và phƣơng pháp siêu
hình trong sinh vật học và xác lập một cách vững chắc lý luận về sự tiến hóa
của giới sinh vật.
Học thuyết tiến hóa đƣợc ví nhƣ một bản tuyên ngôn chống lại quan
điểm duy tâm siêu hình cho rằng loài có tính đứt đoạn, bất biến và không có
mối liên hệ với nhau. Học thuyết tiến hóa cũng thể hiện tính cách mạng trong
tƣ duy về thế giới khi cho rằng thế giới là một thực thể khách quan luôn biến
đổi, phát triển và có thể nhận thức đƣợc. Động lực của sự phát triển là những
nhân tố tự nhiên, khách quan chứ không phải do một lực lƣợng huyền bí siêu
nhiên điều khiển. Điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên lý về mối quan
hệ phổ biến và nguyên lý phát triển của sự vật và hiện tƣợng theo quan điểm
biện chứng duy vật.
Ngoài học thuyết về tế bào và học thuyết tiến hóa, Ph. Ăngghen cũng đã
đánh giá rất cao Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Định luật này
đã chứng minh rằng giới tự nhiên phát triển bằng cách chuyển hóa từ sự biến
đổi về lƣợng dẫn đến sự biến đổi về chất. Giới tự nhiên theo định luật này là


12
một quá trình vận động của vật chất thống nhất gây ra. Những hình thức vận

động phổ biến ấy chuyển từ cái này sang cái khác theo những quan hệ số
lƣợng nhất định, do đó, khi một số lƣợng nhất định nào đó của hình thức vận
động này mất đi thì số lƣợng nhất định nào đó của hình thức vận động khác
lại xuất hiện, thay thế. Mỗi sự vận động trong giới tự nhiên đều có thể quy
thành quá trình chuyển hóa không ngừng từ một hình thức này sang một hình
thức khác. Dựa theo nguyên lý này mà các nhà khoa học và kỹ sƣ có thể chế
tạo ra hệ thống năng lƣợng, mang điện đến cho mọi nhà, tạo ra những chiếc ô
tô… Nguyên lý đó đƣợc gọi là định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lƣợng,
là một trong những phát minh quan trọng nhất của tất cả các lĩnh vực khoa
học và là nguyên lý cơ bản nhất trong toàn bộ giới tự nhiên. Định luật này là
chìa khóa để đi tìm lời giải cho sự chuyển hóa năng lƣợng và tính hoán đổi
giữa các dạng năng lƣợng khác nhau. Helmholtz đã tổng hợp tất cả những
nghiên cứu và tƣ liệu để phát hiện ra nguyên lý này, với phát minh này đã
vĩnh viễn làm thay đổi khoa học. Dựa vào những phát minh của khoa học tự
nhiên đã làm cơ sở cho Hêghen thừa nhận giới tự nhiên nằm trong quá trình
vận động và phát triển từ vô cơ đến hữu cơ và đến con ngƣời.
Tóm lại, học thuyết về tế bào, học thuyết tiến hóa cùng với định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lƣợng đƣợc xem nhƣ là nền tảng khoa học của triết
học duy vật biện chứng. Ph. Ăngghen đánh giá “chúng nhƣ một cuộc cách
mạng triệt để về thế giới quan trong các khoa học về tự nhiên” [38, tr. 13].
Các phát minh trên đã giáng một đòn nặng nề vào siêu hình học thế kỷ XVII XVIII, “đóng góp một hồi chuông báo hiệu cho ngày tận số của siêu hình học
cũ - mở đầu cho kỷ nguyên của phép biện chứng” [29, tr. 9]. Chính Hêghen là
ngƣời có công trong việc tổng kết các thành tựu của khoa học tự nhiên và xã
hội thời đại ông nên đƣợc C. Mác và Ph. Ăngghen đánh giá không những là
một thiên tài mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa.


13
1.1.3. Tiền đề về tƣ tƣởng
Ở nƣớc Đức, hệ tƣ tƣởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý

luận. Thần học là khoa học cơ bản trong các trƣờng đại học tổng hợp. Triết
học và các môn khoa học xã hội khác nhiều khi chỉ là sự biện hộ và bảo vệ
cho thần học. Triết học tiến hành cuộc thỏa hiệp với tôn giáo và đành phải
nhƣợng bộ nó trong nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn.
Nhìn chung, bức toàn cảnh của xã hội Đức đƣơng thời phủ đầy một màu
xám, đúng nhƣ lời khắc họa của Ăngghen “không ai cảm thấy mình dễ chịu,
mọi cái đều tồi tệ và tâm trạng bất mãn bao trùm cả nƣớc. Không có giáo dục
không có tự do báo chí, không có dƣ luận xã hội - không có gì cả ngoài sự đê
tiện và tự tƣ, tự lợi, lề thói con buôn hèn mạt, xum xoe nịnh hót thảm hại, đã
xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ,
thậm chí chẳng còn lấy một tia hi vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc, thậm
chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi” [13,
tr. 754]
Trƣớc một thực trạng xã hội rối ren phức tạp và mâu thuẫn chồng chất
nhƣ vậy, trong tâm trạng của tầng lớp trí thức Đức đƣơng thời đã xuất hiện
tình trạng bi quan, bất mãn và bất lực - đó là nguyên nhân dẫn đến việc phát
sinh tư tưởng cải lương, thỏa hiệp, xuôi chiều, phủ nhận việc cải tạo xã hội cũ
bằng bạo lực cách mạng, biện hộ cho sự tồn tại hợp lý của xã hội đương thời.
Các nhà tƣ tƣởng lúc này không dám làm cách mạng bằng bạo lực trong
hiện thực nhƣ các nhà tƣ tƣởng khai sáng Pháp, họ quay về làm cách mạng
trong lý luận trừu tƣợng, trong suy nghĩ. Họ lấy tƣ duy triết học làm vũ khí
phê phán và chuyển tải những tƣ tƣởng cách mạng. Đối với họ triết học là nơi
thể hiện khát vọng cải tạo hiện thực của con ngƣời .
Tính chất cải lƣơng thỏa hiệp về tƣ tƣởng chính trị của tầng lớp trí thức
Đức đƣơng thời đã có ảnh hƣởng đến các nhà triết học nhƣ Kant, Hêghen,


14
Phoiơbắc. Bối cảnh kinh tế - xã hội và khoa học Tây Âu cũng nhƣ ở nƣớc
Đức nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX đòi hỏi con ngƣời cần có một

cách nhìn mới về các hiện tƣợng tự nhiên và tiến trình lịch sử của nhân loại,
cần có quan niệm mới về khả năng nhận thức và giới hạn hoạt động của con
ngƣời - triết học cổ điển Đức ra đời đáp ứng sứ mệnh lịch sử đó.
1.2. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA HÊGHEN
1.2.1. Về tiểu sử của Hêghen
Ghioóc Vinhem Phriđrích Hêghen (Georg Wilhelm Friedrich Hegel,
1770 - 1831) sinh tại Stuttgart, Wurttemberg, nay thuộc miền Nam nƣớc Đức,
là một trong số những nhà triết học nổi tiếng của nền triết học cổ điển Đức
cùng với Johann Gottlieb Fichte và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling.
Hêghen là ngƣời xây dựng phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặt nền
móng cho tƣ tƣởng biện chứng triết học Mácxít và làm hồi sinh triết học với
tƣ cách là một hệ thống tri thức về thế giới.
Hêghen đƣợc coi là ngƣời sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức và một
trong những triết gia có ảnh hƣởng nhất trong triết học Đức ở thế kỷ XIX.
Ông sinh ra trong một gia đình công chức cao cấp ở thành phố Stuttgart,
những năm tháng học ở trƣờng trung học thành phố quê hƣơng, chàng thiếu
niên ham học, ham hiểu biết đã say mê văn học, lịch sử, triết học, giáo dục
học và toán học, đặc biệt là văn hóa Hy Lạp cổ đại.
Ông đƣợc giáo dục trong bầu không khí sùng đạo Tin Lành, sau đó đƣợc
nghiên cứu các tác phẩm cổ điển của Hy Lạp và La Mã khi theo học trƣờng
trung học Stuttgart. Hêghen vào học trƣờng dòng của Đại học Tubingen năm
1788. Tại đây, ông kết bạn với nhà thơ Friedrich Horlderlin và triết gia
Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling. Sau khi hoàn tất học trình triết học
và thần học, ông quyết định không trở thành mục sƣ mà đi dạy tƣ (1793) tại
Bern, Thụy Điển. Năm 1797, ông lại đi dạy tƣ tại Frankfurt. Hai năm sau cha


15
ông mất, để lại cho ông một gia tài đủ để ông khỏi phải đi dạy tƣ kiếm sống.
Năm 1801, Hêghen trở thành giảng viên Đại học Jena và hoàn thành tác

phẩm Hiện tượng học tinh thần (1807), một trong những công trình quan
trọng nhất của ông. Năm 1816, Hêghen nhận chức giáo sƣ triết học tại Đại
học Heidelberg. Năm 1818, Hêghen đƣợc mời đến giảng dạy tại Đại học
Berlin, nơi ông sẽ lƣu lại cho đến ngày qua đời, ngày 14 tháng 12 năm 1831
vì bệnh dịch tả.
1.2.2. Về sự nghiệp của Hêghen
Mùa xuân năm 1793, Hêghen rời Tubingen đến Bern, sau đó đến
Frankfurt am Main. Mùa hè năm 1795 Hêghen hoàn thành tác phẩm “Cuộc
đời của chúa Jesus” nội dung của tác phẩm này cho thấy Hêghen hoàn toàn
nằm trong vòng vây của các quan niệm Kitô giáo, đi từ chủ nghĩa duy lý của
Kant đến chủ nghĩa phiếm thần thần bí.
Tại Frankfurt am Main, Hêghen viết tác phẩm “Tinh thần Kitô giáo và
sản phẩm của nó”. Tác phẩm này đánh dấu sự khác biệt giữa Hêghen và Kant
trong quan niệm về đạo đức.
Sau bảy năm làm trợ giáo ở nhiều nơi, năm 1801 ông đƣợc vào giảng
dạy chính thức ở Đại học Jena và ông bảo vệ luận án tiến sỹ với đề tài “Sự
chuyển động của các hành tinh”. Sau đó ông đƣợc phong chức giáo sƣ triết
học ở Đại học Heidelberg năm 1816.
Trong suốt cuộc đời, Hêghen đã xuất bản bốn quyến sách: 1) Hiện tƣợng
học tinh thần, 2) Khoa học Lôgíc, 3) Bách khoa toàn thƣ các khoa học triết
học và 4) Những nguyên lý của triết học pháp quyền.
Năm 1808 Hêghen bắt đầu viết tác phẩm lớn “Khoa học Lôgíc” khi ông
làm hiệu trƣởng một trƣờng trung học ở Nuremberg. Tác phẩm “Khoa học
Lôgíc” (The science of Logic) gồm ba quyển xuất bản vào các năm 1811,
1812, 1816 (tái bản năm 1831) là hạt nhân của Lôgíc học và siêu hình học của


16
triết học Hêghen, trong đó trình bày những quy luật và phạm trù cơ bản của
phép biện chứng.

Tác phẩm “Bách khoa thƣ các khoa học triết học” (tiếng Đức:
Enzyklopädie der philosophischen Wissenschaften im Grundrisse) xuất bản
lần đầu tiên vào năm 1817 và tái bản vào năm 1827 và 1830 là sự tóm tắt toàn
bộ triết học của Hêghen. Tác phẩm bao gồm ba phần chính: Phần I. Lôgíc học
tóm tắt toàn bộ nội dung đã đƣợc trình bày trong ba quyển “Khoa học Lôgíc”
của ông đã đƣợc xuất bản trƣớc đó. Ngoài Phần I, “Bách khoa toàn thƣ các
khoa học triết học” còn có thêm hai phần nữa: Phần II. Triết học về tự nhiên
và Phần III. Triết học về tinh thần. Lôgíc của tác phẩm này thể hiện lôgíc
phát triển của Ý niệm, đi từ khái niệm lôgíc thuần túy tự vận động, phát triển
trong bản thân nó với hệ thống những quy luật nhất định (đƣợc trình bày
trong phần I. Khoa học Lôgíc); sau đó Ý niệm tự tha hóa thành giới Tự nhiên
(đƣợc trình bày trong phần II. Triết học về tự nhiên) và cuối cùng sau hai lần
phủ định, Ý niệm lại trở về với bản thân nó trong Tinh thần tuyệt đối (đƣợc
trình bày trong phần II. Triết học về Tinh thần). Hêghen viết:
“Nhƣ thế, Khoa học [Triết học tƣ biện] chia ra làm ba phần:
I. Lôgíc học, Khoa học về ý niệm tự - mình và cho - mình
II. Triết học về Tự nhiên nhƣ là Khoa học về ý niệm trong sự tồn tại khác
của nó [của ý niệm]
III. Triết học về Tinh thần nhƣ là Khoa học về ý niệm quay trở về lại vào
trong chính mình từ sự tồn tại - khác của nó.” [6, tr. 56]
Năm 1821 Hêghen hoàn thành và xuất bản tác phẩm “Những nguyên lý
của triết học pháp quyền” (tiếng Đức: Grundlinien der Philosophie des
Rechts) trên tinh thần duy tâm khách quan. Những quan điểm trong tác phẩm
này sau này đƣợc C. Mác trình bày và phê phán trong tác phẩm của mình
“Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”.


17
Sau khi Hêghen qua đời năm 1831, một loạt các công trình khác của ông
nhƣ “Bài giảng về lịch sử triết học”, “Triết học lịch sử”, “Bài giảng về mỹ

học”, “Bài giảng về triết học tôn giáo” đƣợc học trò biên tập lại và tiếp tục
xuất bản.
Nhờ những đóng góp triết học lớn cho khoa học, ông trở thành một nhà
triết học có uy tín, đông đảo ngƣời hâm mộ, tạo nên một trƣờng phái triết học
- trƣờng phái Hêghen. Hêghen là một trong những nhà triết học có ảnh hƣởng
lớn đến tƣ tƣởng triết học và văn hóa Châu Âu trong thế kỷ XIX và XX.
1.3. TÁC PHẨM “KHOA HỌC LÔGÍC” CỦA HÊGHEN
“Khoa học Lôgíc” là bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống triết học
của Hêghen. Nó có nhiệm vụ vạch rõ sự phát triển của tinh thần thế giới từ
tồn tại thuần túy lên ý niệm tuyệt đối. Hêghen thừa nhận: Tồn tại, bản chất,
khái niệm là ba sự quy định chủ yếu, ba hình thức thể hiện chủ yếu của cái
tuyệt đối trong quá trình tự phát triển của nó ở lĩnh vực lôgíc.
Bƣớc vào xây dựng “Khoa học Lôgíc” của mình, Hêghen nghiên cứu
toàn bộ quá trình phát triển các quan niệm lôgíc học trƣớc đây và ông nhận
thấy từ trƣớc tới giờ chủ yếu vẫn tồn tại lôgíc hình thức cổ điển, lôgíc học này
có vai trò to lớn trong lịch sự phát triển của tƣ duy lôgíc, từng là một trong
những phƣơng pháp luận cơ bản của các khoa học trong nhiều thế kỷ. Tuy
nhiên, bắt đầu từ Bêcơn, Đềcáctơ, tƣ tƣởng xây dựng một hệ thống phƣơng
pháp luận mới, một lôgíc học mới đã đƣợc khởi xƣớng.
Hêghen nhấn mạnh, cần phải xây dựng một hệ thống lôgíc học mới trên
cơ sở tiếp thu những mặt tích cực của lôgíc học trƣớc đây, đồng thời khắc
phục những hạn chế của nó và đem lại cho con ngƣời cách nhìn mới về bản
chất của tƣ duy một cách đích thực, mặt khác, nó là một phƣơng pháp luận
triết học mới làm nền tảng cho các khoa học khác. “Vì thế “Khoa học Lôgíc”
phải đem lại cho triết học, một phƣơng pháp luận mới - phép biện chứng với


18
tƣ cách là học thuyết về sự phát triển, làm nền tảng cho toàn bộ thế giới quan
của con ngƣời một phƣơng pháp nhận thức vạn năng giúp chúng ta tìm ra

chân lý” [40, tr. 435]
Hêghen viết tác phẩm “Khoa học Lôgíc” trong thời gian dạy trung học ở
Nuremberg sau khi ông hoàn thành tác phẩm “Hiện tƣợng học tinh thần”.
“Khoa học lôgíc” đƣợc xuất bản thành nhiều tập. Tập 1, “Lôgíc khách quan”
gồm hai phần: Học thuyết về tồn tại và Học thuyết về bản chất đƣợc xuất bản
năm 1812 và 1813. Tập 2. “Lôgíc chủ quan” gồm Học thuyết về khái niệm
đƣợc xuất bản năm 1816.
Kết cấu của tác phẩm “Khoa học lôgíc” gồm có Mở đầu và 3 phần
chính.
Phần mở đầu gồm các nội dung:
- Những khái niệm sơ bộ
- Lập trƣờng thứ nhất đối với tính khách quan
- Lập trƣờng thứ hai đối với tính khách quan
- Lập trƣờng thứ ba đối với tính khách quan
- Quan niệm chính xác hơn lôgíc học và sự phân chia nội dung của nó
Ba phần chính của “Khoa học Lôgíc” gồm:
Phần 1: Học thuyết về Tồn tại bàn về tƣ tƣởng trong triết học của nó, tức
về tƣ tƣởng trong sự vô quy định, trong sự dị biệt hóa của nó, ở đây muốn nói
lên vị trí hay môi trƣờng của tƣ tƣởng, đó là tƣ tƣởng ở trong sự trực tiếp
nguyên thủy của nó.
Trong học thuyết về tồn tại, Hêghen trình bày “Tồn tại” trong quá trình
phát triển theo quy luật Lƣợng - Chất với ba khái niệm: A. Chất, B. Lượng và
C. Độ. Trong phần A. Chất, Hêghen trình bày: Tồn tại thuần túy, Tồn tại hiện
có và Tồn tại cho mình. Trong phần B. Lượng , Hêghen phân biệt: Lượng
thuần túy, Đại lượng và Độ. Trong phần C. Hạn độ, Hêghen trình bày sự


19
thống nhất giữa Chất và Lƣợng.
Phần 2: Học thuyết về bản chất bàn về tƣ tƣởng trong sự phản tƣ và

trong sự trung giới, nghĩa là, về tƣ tƣởng trong sự vận động, qua đó nó đi ra
khỏi cái trực tiếp ban đầu vừa phản tƣ về chính mình, vừa trung giới với cái
khác bản thân mình.
Trong học thuyết này, Hêghen trình bày ba phần: A. Bản chất, B. Hiện
tượng và C. Hiện thực, nhƣ là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tƣợng.
Phần 3: Học thuyết về khái niệm và ý niệm bàn về tƣ tƣởng trong sự tồn
tại đã quay trở về trong chính mình và trong sự tồn tại nơi chính mình đã phát
triển, nghĩa là về tƣ tƣởng không còn ở trong sự vận động của sự phản tƣ vào
trong chính mình mà đã quay về trong chính mình và kết nối tồn tại tự mình
của mômen thứ nhất với tính phản tƣ của mômen thứ hai.
Trong phần này, Hêghen trình bày: A. Khái niệm chủ quan hay khái
niệm hình thức, B: Tính khách quan hay khách thể và C: Ý niệm hay chân lý
nhƣ là sự thống nhất giữa khái niệm với tính khách quan.


×