MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang 3
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trang 3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trang 5
3. Phương pháp nghiên cứu
Trang 5
4. Yêu cầu
Trang 5
5. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trang 6
6. Kết cấu của đề tài
Trang 6
PHẦN NỘI DUNG
Trang 7
CHƯƠNG I: Giai cấp nông dân Việt Nam, sự hình thành
tư tưởng nông dân và ảnh hưởng của tư tưởng nông dân
trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn.
Trang 7
I. Khái niệm giai cấp nông dân và vai trò của giai cấp nông
dân Việt Nam trong lịch sử
Trang 7
1.1. Khái niệm giai cấp nông dân
Trang 7
1.2. Vai trò của giai câp nông dân Việt Nam trong lịch sử
Trang 7
2. Lịch sử hình thành tư tưởng nông dân Việt Nam
Trang 9
2.1. Khái niệm tư tưởng
Trang 9
2.2. Tư tưởng nông dân Việt Nam, sự hình thành, phát triển và
tồn tại.
Trang 9
2.3. Những phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào của con người
nông dân Việt Nam
Trang 11
2.4. Một số biểu hiện của tư tưởng nông dân trong giai đoạn
hiện nay
Trang 13
CHƯƠNG II : Một số giải pháp khắc phục – Quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở
huyện Yên Lập (Tỉnh Phú Thọ)
Trang 16
I. Một số giải pháp khắc phục
Trang 16
1. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn
Trang 17
2. Nâng cao trình độ dân trí, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nông dân và phát huy quyền làm chủ của nông
dân – phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở.
Trang 21
II. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn ở huyện Yên Lập (Tỉnh Phú Thọ)
Trang 24
Trang
1
PHẦN KẾT LUẬN
Trang 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang 34
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trang
2
Việt Nam là một đất nước có truyền thống nông nghệp lâu đời với
hơn 70% dân số làm nông nghiệp. Vì thế, dù ờ thời kỳ nào, người nông
dân, nông thôn và kinh tế nông nghiệp cũng có một vai trò vô cùng quan
trọng trong sự phát triển chung của đất nước như đời sống vật chất, đời
sống tinh thần…. Nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng này, trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu là đến năm
2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và phát triển nông thôn. Điều này được thể hiện rất rõ trong
một số chỉ thị, nghị quyết của một số Đại hội VI, VII, VIII. Đặc biệt trong
đại hội IX, nghị quyết TW 5 về “ Đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010” đã nhấn mạnh “…Ra
sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn và phát huy vai trò của giai cấp nông
dân trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự chỉ đạo và tạo các nguồn lực
cần thiết cho Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển nông
thông toàn diện, tiêu thụ nông sản háng hóa, bảo hiểm sản xuất và bảo
hiểm xã hội, phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn, phân bố
dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn, việc
làm, xóa đôi, giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng
nông thông mới”… Có thể khẳng định: Thiếu sự tham gia của nông dân
thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đạt hóa đất nước không bao giờ thành
công.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn ở nước ta cho tới nay đã đạt được rất nhiều các thành tựu, tuy
nhiên cũng này sinh rất nhiều vấn đề bất cập và hạn chế như vấn đề đất
đai cho sản xuất nông nghiệp, vấn đề ứng dụng các kỹ thuật hiện đại cho
sản xuất, vấn đề về bao tiêu sản phẩm…Và minh chứng rõ rệt nhất là
mức sống và thu nhập. Thu nhập bình quân của những người thuần túy
sản xuất nông nghiệp rất thấp (tỷ lệ hộ nghèo theo số liệu năm 2005 là 3,9
triệu hộ chiếm 22% số hộ cả nước). Kéo theo đó là sự chênh lệch vô cùng
rõ rệt mức sống giữa thành thị và nông thôn, sự phân hóa giàu nghèo
ngày càng cao (mức chênh lệch giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ
nghèo nhất năm 2006 là 8.5 lần trong khi năm 2004 chi ở mức 7.1 lần)...
Trang
3
Để có thực hiện tốt dược tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và phát triển nông thôn, nhất thiết phải tìm nguyên nhân
cùng các biện pháp phát huy những ưư điểm và khắc phục cho những hạn
chế và bất cập trên. Ngoài những nguyên nhân khách quan, một trong
những nguyên nhân chủ quan mà theo chúng tôi là hết sức quan trọng
xuất phát từ bản thân người nông dân, đó chính là vấn đề về tư tưởng
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại nông nghiệp và phát
triển nông thôn vai trò của người nông dân càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết vì đây chính là lực lượng lao động cơ bản – một trong những
yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của tiến trình. Mặt
khác,do truyền thống lâu đời, tư tưởng người nông dân với những biểu
hiện của thế giới tinh thần bên trong như phẩm chất, thái độ, lý tưởng,
động cơ, mục đích, giá trị, năng lực, nhu cầu và những phong tục tập
quán, lối sống, nếp nghĩ đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Vì
vậy việc hiểu, nắm bát được tư tưởng người nông dân chính là cách thức
quan trọng để tìm ra được những giái pháp phù hợp, sáng tạo, năng động
cho việc phát huy vai trò của người nông dân trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn. Điều này cũng
hoàn toán phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước
trong vấn đề chăm lo phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự phát
triển toàn diện của đất nước.
Nhận thức được tính cấp thiết của những vấn đề trên chúng em lựa
chọn đề tài : “Tư tưởng của nông dân trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn”. Với đề tài này,
chúng tôi mong muốn sẽ nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn về vai trò của người
nông dân, về sự kế thừa, phát triển và biến đổi của tư tưởng người nông
dân trong từng thời kỳ. Từ việc ý thức được biẻu hiện cũng như ảnh
hưởng về tư tưởng của người nông dân trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện nay đề tìm ra các
biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, nâng cao hơn nữa
vai trò của người nông dân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trang
4
- Nêu rõ và phân tích vai trò của giai cấp nông dân trong lịch sử.
- Phân tích tư tưởng nông dân Việt Nam: Quá trình hình thành, phát triển và
sự tồn tại.
- Lý giải tại sao cần phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn.
- Đề xuất các giải pháp khắc phục những mặt hạn chế, phát huy mặt tích
cực của nông dân trong công cuộc công nghiệp hoá́, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp như sau:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp lô gíc.
- Phương pháp lịch sử
Khi nghiên cứu vấn đề này, tôi phải kết hợp giữa phân tích và tổng hợp,
đánh giá tình hình cụ thể. Đánh giá khái quát chung vấn đề, kết hợp lý
luận và thực tế.
Căn cứ vào những kết quả của nghiên cứu, sưu tầm từ thực tiễn để
chứng minh làm sáng tỏ lý luận đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh đó, phải biết kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgic và
phương pháp lịch sử, coi trọng những vấn đề lịch sử cụ thể, trên cơ sở đó
luận giải vấn đề một cách khoa học, lôgic, chính xác.
4. Yêu cầu
Nắm vững các vấn đề lý thuyết, lý luận về tư tưởng, về giai cấp
nông dân, về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó tư duy
một cách linh hoạt, sáng tạo để liên hệ thực tế địa phương.
Nắm vững lý thuyết, lý luận. Cần tư duy, sáng tạo.
5. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề nông
dân, nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặt
lên hàng đầu. Đã có rất nhiều quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
Trang
5
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được khẳng định
trong các nghị quyết của một số đại hội:
- Đại hội VI, bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn .
- Đại hội VII và đại hội VIII tiếp tục và khẳng định và làm rõ quan điểm
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã được đề ra từ
đại hội VI.
- Đại hội IX , đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 về “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010” đã
làm rõ hơn quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn.
Một số phương tiện thông tin đại chúng, một số báo, tạp chí cũng
đề cập đến vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn như: Tạp chí Cộng
sản, Công tác thông tin - Lý luận…Trong các sách: Con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn…; Một số vấn đề về
công tác vận động nông dân, Dân vận…
Trên cơ sở đó, bản thân tôi thấy cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn
đề nông dân và tư tưởng nông dân, góp phần tổng kết, rút kinh nghiệm,
đề ra các giải pháp để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm hai chương chính:
Chương I: Giai cấp nông dân Việt Nam, sự hình thành tư tưởng
nông dân và ảnh hưởng của tư tưởng nông dân trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Chương II: Một số giải pháp khắc phục – Quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở huyện Yên Lập (Phú Thọ).
Trang
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM, SỰ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG NÔNG DÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NÔNG
DÂN TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI
HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
I. Khái niệm giai cấp nông dân và vai trò của giai cấp nông dân Việt
Nam trong lịch sử
1.1. Khái niệm giai cấp nông dân
- Khái niệm về nông dân: Nông dân là người lao động cư trúc ở nông
thôn sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, sau đó bằng các ngành, nghề mà
tư liệu sản xuất chính là đất đai tùy theo từng thời kỳ lịch sử ở từng nước,
có quyền sở hữu khác nhau vè ruộng đất. Những người này hình thành nên
giai cấp nông dân.
- Khái niệm giai cấp nông dân:
+ Theo Bách khoa toàn thư: Giai cấp nông dân là bao gồm những
tập đoàn người sản xuất nhỏ hoặc làm thuê cho địa chủ và cho phú nông
trong nông nghiệp dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất
+ Vậy giai cấp nông dân là những người sống lâu đời ở nông thôn
(làng, bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp làm nguồn sống chính dưới hình
thức tư hữu nhỏ. Nông dân là lực lượng cách mạng trong cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể thấy giai cấp nông dân ở nước ta là lực lượng quan trọng, là
lục lượng cơ bản cùng giai cấp công nhân hợp thành đội quân chủ lực của
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đưa nông dân đi theo con đường cách mạng
xã hội hủ nghĩa là tạo ra một lực lượng chủ yếu trong cuộc cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2. Vai trò của giai câp nông dân Việt Nam trong lịch sử
Chủ nghĩa Mác –Lê Nin đã từng khẳng định vai trò của quần chúng
nông dân lao động là người quyết định, là người sáng tạo chân chính ra
lịch sử xã hội. Ở nước ta , nông dân chiếm hơn 70% số dân cả nước – họ
Trang
7
là một bộ phận của dân cư, là lực lượng đông đảo trong quần chúng nhân
dân lao động, là động lực cách mạng xã hội chủ nghĩa và chính họ là
người trực tiếp sản xuất ra của cải nuôi sống xã hội.
Trong chế độ phong kiến, người nông dân là lực lượng sản xuất
chính và cũng là giai cấp cơ bản bị áp bức trong xã hội. Vốn là những
người sản xuất nhỏ và bị hạn chế trong tầm nhìn hẹp của làng xã, họ
thường thụ động trước các vấn đề xã hội và trước các cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, song trước sau họ
vẫn không thay đổi được phương thức sản xuất để hình thành một mô
hình xã hội tiến bộ hơn. Vì vậy, họ không trở thành giai cấp lãnh đạo
cách mạng mà chỉ có thể liên minh với giai cấp công nhân, tầng lớp trí
thức và các giai tầng xã hội khác cùng giai cấp công nhân thực hiện cuộc
cách mạng giải phóng mình, giải phóng dân dộc do giai cấp công nhân
lãnh đạo.
Ănghen viết: “Các Đảng tư sản và phản động đều cự kỳ ngạc
nhiên khi thấy, ngày nay, đột nhiên những nước xã hội chủ nghĩa khắp nơi
đều dặt vấn đề nông dân vào chương trình nghị sự, đáng lẽ họ phải ngạc
nhiên vì sao vấn đề đó lại không được đặt ra từ lâu” (Mác-Ăngen tuyển
tập, tập VI, trang 169).
Chủ nghĩa Mác-LêNin cho rằng: “Giai cấp nông dân muốn giành
thắng lợi trong cách mạng thì phải tập hợp được giai cấp nông dân, tranh
thủ họ, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và các thế
lực áp bức, bóc lột khác.”
Vận dụng quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-LêNin vào hoàn cảnh
cụ thể nước ta, Đảng và Bác Hồ sớm nhận thấy: Nông dân là lực lượng
cách mạng to lớn, một người bạn đồng minh tự nhiên, tin cậy, trung thành
của giai cấp công nhân. Nông dân và công nhân là đội quân chủ lực của
cách mạng “là gốc cách mệnh”. Sau này, Bác tiếp tục khẳng định: “Nông
dân là một lực lượng to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành
của giai cấp công nhân.”
Trong quá trình tổng kết lãnh đạo cách mạng, Bác lại một lần nữa
khẳng định: “Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và quyết định
đúng đắn vấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta
đấu tranh chống xu hướng “hữu khuynh” và “tả khuynh” đánh giá thấp
Trang
8
vai trò của nông dân là quân chủ lực của cách mạng, là bạn đồng
minhchur yếu và tin cậy của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng
với giai cấp công nhân xây dựng xã hội chủ nghĩa.”
Trên cơ sở đánh giá dúng vai trò của giai cấp nông dân, Đảng và
Bác Hồ luôn coi trọng công tác vận động nông dân đã sớm xây dựng
được khối liên minh công nông vững chắc và có những chủ trương chính
sách thích hợp để tạo nên những thành quả to lớn trong cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, bảo vệ xây dựng dất nước.
Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân đã phát huy được
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đã sớm hình thành những phẩm
chất mới của người nông dân trong cuộc cách mạng to lớn của dân tộc,
thể hiện rất rõ nét ở các anh hùng, chiến sĩ thi đua trên mắt trận nông
nghiệp, đã được tuyên dương qua từng chặng đường của đất nước.
Và ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
chung; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng,
giai cấp nông dân ngày càng có vai trò quan trọng hơn để góp phần vào
việc thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam ngày
một phát triển và giàu mạnh hơn.
2. Lịch sử hình thành tư tưởng nông dân Việt Nam
2.1. Khái niệm tư tưởng
Trước khi đi sâu tìm hiểu lịch sử hình thành tư tưởng nông dân
Việt Nam chúng ta cần thống nhất khái niệm tư tưởng
Khái niệm tư tưởng: Tư tưởng với tư cách là sản phẩm tinh thần
của con người, luôn tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu cầu
nhận thức của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói tư tưởng
là một trong những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con người
hoàn toàn có quyền tự hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo hơn mọi
thứ sản phẩm công nghiệphay công nghệ tinh xảo nhất.”
2.2.Tư tưởng nông dân Việt Nam, sự hình thành, phát triển và tồn tại
Một trong những điều kiện chi phối lớn nhất sự hình thành tư
tưởng nông dân Việt Nam là điều kiện kinh tế, xã hội.
Từ bao đời nay với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc đã tạo lập cho
người nông dân Việt Nam tư tưởng làm ăn nhỏ lẻ manh mún, trì trệ. Nền
kinh tế tiểu nông, độc canh nghèo nàn, lạc hậu lại không ổn định, chủ yếu
Trang
9
phụ thuộc vào tự nhiên đã tạo cho người nông dân tư tưởng “khép mình”
trong một khuôn khổ có sẵn.
Mặt khác, nước ta lại bị đô hộ thống trị trong một thời gian rất dài
nên cuộc đời của người nông dân từ thế hệ này sang thế hệ khác luôn bị
các thế lực thống trị đè nén, bóc lột. Cuộc sống của họ vô cùng cực khổ,
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn đủ thứ và nạn đói thường
xuyên xảy ra, đe dọa họ. Đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại chế
độ phong kiến và thực dân nhưng tất cả đều thất bại. Vì vậy tâm lý bất
lực, cam chịu, nhẫn nhục càng ăn sâu vào suy nghĩ của người nông dân.
Bên cạnh đó, cần phải kể đến những tư tưởng cổ hủ phong kiến,
ảnh hưởng của tôn giáo nhằm duy trì ý thức hệ phong kiến đã thâm nhập
vào nông dân, kết hợp với tư tưởng hẹp hòi, bè phái cục bộ, chủ nghĩa
bình quân, chủ nghĩa kinh nghiệm, tự do, tùy tiện, chủ nghĩa cá nhân... đã
làm cho nhận thức của nông dân có sự phân hóa.
Do quan hệ làng xóm có tính chất khép kín đã ảnh hưởng tới việc
hình thành và phát triển ý thức tâm lý của người nông dân Việt Nam. Họ
quen tự lực, tự cung, tự cấp, làm được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu với một
tâm lý tự ty, tư duy lạc hậu, không có thói quen chấp hành pháp luật, có
xu hướng chống lại những tổ chức, thể chế, những quy phạm được thiết
lập qua nhiều thế hệ... Bên cạnh đó, tư tưởng “bám đất, bám làng” càng
tạo cho họ nếp sống bảo thủ, chật hẹp, không muốn đi xa, ngại tiếp xúc
với cái mới... Chính những đặc tính này đã tác động không nhỏ tới tư
tưởng và hành động của người nông dân.
Vào thời kỳ những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước đã duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp làm cho một bộ phận nông dân có tư tưởng
trông chờ, ỷ lại, hạn chế sự sáng tạo, năng động của nông dân, kìm hãm
sự phát triển của đất nước.
Trên đây chỉ là một số những đặc điểm nhưng nó đã chi phối
không nhỏ đến tư tưởng của người nông dân nước ta. Hiện nay, cơ chế thị
trường đã tác động đến mọi mặt đời sống của người nông dân. Bên cạnh
những mặt tích cực, ta không thể không nhắc đến mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, chính cơ chế thị trường đã làm nảy sinh, tạo môi trường phát
triển cho những thói quen, tật xấu trong đời sống người nông dân. Mặt
Trang
10
khác, hệ thống pháp luật của nhà nước chậm đổi mới và còn nhiều bất
cập, trình độ dân trí bảo thủ, tư duy sản xuất nhỏ, manh mún, tư tưởng
nông dân chậm đổi mới… Điều này cho thấy, lịch sử phát triển của giai
cấp nông dân từ chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho đến nay chưa
bao giờ trở thành một hệ tư tưởng và chưa bao giờ có tư tưởng riêng.
Trong các thời kỳ khác nhau hoặc họ đi theo hệ tư tưởng giai cấp này,
hoặc đi theo tư tưởng giai cấp khác. Chính những hạn chế này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn.
2.3. Những phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào của con người nông dân
Việt Nam
Trong lịch sử nước ta với hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước,
hình ảnh người nông dân luôn hiện lên với đầy đủ nững phẩm chất truyền
thống tốt đẹp của của con người Việt Nam. Hiện nay, với đặc điểm nước
ta có hơn 70% dân số là nông dân cho thấy rằng: Nông dân luôn là một
bộ phận quan trọng của dân cư, lịch sử hình thành và phát triển của giai
cấp nông dân luôn gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì vậy trong mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn cụ thể người nông dân luôn thể hiện được truyền
thống cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu, tình làng nghĩa
xóm sâu nặng và lòng nhân nghĩa thủy chung...
Ngay từ xưa, người nông dân Việt Nam đã có bản chất cần cù
trong lao động, chăm chỉ hăng hái tham gia sản xuất. Đức tính này một
phần do con người và do hoàn cảnh địa lý, thiên nhiên tạo nên. Từ ngàn
xưa, dưới chế đố xã hội phong kiến, người nông dân chủ yếu làm ăn riêng
lẻ, công cụ lao động sản xuất hết sức thô sơ không được cải tiến , năng
suất lao động thấp kém, nếu gặp thiên tai như mưa bão, lụt lội, nắng hạn,
sâu bọ có thể mùa màng năm đó mất trắng làm cho thu nhập càng ít ỏi.
Vì vậy, để kiếm miếng cơm, manh áo, để duy trì sự sống của mình,
những người nông dân không còn con đường nào khác là phải chống chọi
với thiên nhiên. Thiên nhiên càng khắc nghiệt càng hình thành nên đức
tính cần cù, dũng cảm, hăng say lao động, dẻo dai chịu thương chịu khó
của họ.
Ngày nay, người nông dân Việt Nam đã có sự chuyển biến trên
nhiều phương diện do quá trình tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, lấy giá
Trang
11
trị sản xuất làm thước đo hiệu quả lao động, những thói quen, nếp nghĩ cũ
dần dần đã được thay đổi, thay vào đó là những tư tưởng đạo đức mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của nông nghiệp nông dân Việt
Nam ngày càng có những thay đổi tích cực trong suy nghĩ, đáp ứng nhịp
độ phát triển chung của đất nước. Có thể nói người nông dân ngày nay rất
tiến bộ, họ coi lao động cho mình và cho xã hội vừa là quyền lợi, vừa là
nghĩa vụ của mình.
Trong tác phẩm “Giai cấp công nhân và vấn đề nông dân”, Nguyên
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết “Nông dân Việt Nam đã có một truyền
thống anh hùng, chiến thắng ngoại xâm để xây dựng nhà nước, nông dân
Việt Nam cũng đã ghi lại những trang sử oai hùng chống phong kiến, địa
chủ…”
Lịch sử đã ghi lại những trang sử hào hung của nông dân việt Nam
cho thấy họ có một lòng yêu nước nồng nàn, lòng yêu nước đó được bắt
nguồn từ truyền thống yêu nước của dân tộc, được nuôi dưỡng qua hàng
ngàn năm lịch sử và ngày càng phát huy trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mĩ lòng yêu
nước đó ngày càng được khẳng định. Người nông dâṇ không chỉ phát huy
truyền thống anh hùng, bất khuất của những thế hệ, lớp người đi trước mà
dần dần tiếp thu những tinh hoa mới, tinh thần yêu nước của họ được kết
hợp với giác ngộ giai cấp, tình thương yêu đồng bào gắn với tình đồng
chí, tình làng nghĩa xóm. Tình yêu nước của họ chính là cơ sở thuận lợi
để̉ tiếp cận với tư tưởng của giai cấp công nhân, từ yêu làng xóm, quê
hương, đất nước tiến lên một bước cao hơn là yêu nước và yêu chủ nghĩa
xã hội. Nhờ có sự giác ngộ với giai cấp công nhân nên giai cấp nông dân
đã dần dần thấm nhuần hơn tinh thần quốc tế chân chính (ý không rõ, em
không hiểu)
Nông dân việt nam đã hàng ngàn năm sống dưới chế độ phong kiến
và hàng trăm năm bị thực dân đô hộ, đời sống của họ vô cùng cực khổ, họ
chỉ biết trông vào đồng ruộng, tư tưởng “con trâu đi trước, cái cày theo
sau’’ luôn bám rễ trong tư duy lao động. Mặt khác do đặc điểm của làng
xã Việt Nam đã tạo cho người nông dân một tình yêu quê hương, làng
xóm, yêu đất nước nồng nàn và sâu sắc. Lối sống giản dị, chất phác, chân
thực, trong sáng đã củng cố, bồi đắp thêm tinh thần dân tộc, tinh thần yêu
Trang
12
thương đùm bọc lẫn nhau trong mỗi người dân. Họ sống tình cảm yêu
thương đùm bọc những người cùng cảnh ngộ với tinh thần “tương thân
tương ái”, “lá lành đùm lá rách” với đạo lý “bán anh em xa mua láng
giềng gần” chính những tình cảm đó đã hình thành nên tinh thần đoàn
kết, tương thân tương ái tạo nên sức mạnh lớn cùng cả dân tộc ta vượt
qua bao thử thách, khó khăn “nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước”.
Những giá trị đạo đức ấy là truyền thống tốt đẹp của người nông dân Việt
Nam được kết tinh và truyền dạy từ bao đời nay, nó đã trở thành các
chuẩn mực đạo đức xã hội, giá trị văn hoá của dân tộc.
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta trong thời gian qua đã làm thay
đổi một phần không nhỏ đời sống nông dân Việt Nam. Hy vọng, với một
hoàn cảnh sống mới, một nền nông nghiệp mới, một diện mạo nông thôn
mới đang từng ngày khởi sắc, giai cấp nông dân trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ hình thành những
chuẩn mực về hệ tư tưởng dựa trên những giá trị kế thừa và phát huy từ
bản sắc dân tộc Việt Nam.
2.4. Một số biểu hiện của tư tưởng nông dân trong giai đoạn hiện nay
Giai cấp nông dân được hình thành và phát triển gắn liền với từng
giai đoạn lịch sử cụ thể của nước ta. Một đất nước có nền kinh tế thuần
nông với hơn 70% dân số làm nông nghiệp trải qua hàng ngàn năm sống
dưới chế độ phong kiến và hàng trăm năm dưới ách đô hộ của bọn thực
dân, đế quốc nên trong tư tưởng của đại bộ phận của giai cấp nông dân
nếp sống, nếp nghĩ còn còn một số biểu hiện không tích cực như: trì trệ,
phụ thuộc, làm ăn nhỏ lẻ… Ngày nay trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, bên cạnh những biểu hiện đã có, tư tưởng nông
dân còn có những diễn biến theo theo chiều hướng tích cực hơn.
Tư tưởng nông dân Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ một nền sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ manh mún. Vì thế trong một
thời gian khá dài đã tạo nên tâm lí “an phận thủ thường”, tự bằng lòng
với những thứ đã có, họ không còn ý chí phấn đấu, luôn sống trong sự sắp
đặt sẵn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, chấp nhận những điều kiện tổ chức,
những thể chế quy phạm được thiết lập qua nhiều thế hệ. Cuộc sống của
họ chỉ biết quanh quẩn bên ruộng, vườn, con trâu cái cày ít được tiếp xúc
với cuộc sống bên ngoài. Tâm lí “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, “năng
Trang
13
nhặt, chặt bị”, tạo nên thói quen làm ra của cải dư thừa để tích trữ, việc
mua sắm những tiện nghi sinh hoạt trong nhà, cao hơn nữa là làm nhà cao
cửa rộng họ vẫn chưa dám nghĩ tới. Chính những điều này đã tạo nên
những suy nghĩ mang tính cục bộ, bảo thủ, hẹp hòi… Ngày nay trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tư tưởng cục bộ, đố kỵ, hẹp hòi, tự ti,
tuỳ tiện ngày càng được hiện rõ hơn: Ví dụ như việc bầu chọn cán bộ địa
phương. Khi bầu cán bộ địa phương, họ chỉ bầu cho những người ở địa
phương mình, những người thân quen hay con cháu trong nhà, chứ họ
không bầu cho những người thực sự có năng lực. Chính tâm lý này dẫn
tới tình trạng bè phái cục bộ, mất đoàn kết ở nhiều nơi.
Hiện nay vẫn có một số nông dân không coi trọng lý luận, pháp
luật, không muốn tiếp thu cái mới vì họ cho rằng tư duy kinh nghiệm chỉ
cần dựa vào những hiểu biết do mình nghe, nhìn thấy, trải qua mà có
không cần học hỏi thêm. Bên cạnh đó thì chủ nghĩa bình quân cũng góp
phần cản trở tính sáng tạo của người nông dân, kìm hãm sự phát triển dân
chủ trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Vì vậy, ở nhiều
nơi nông dân thiếu kiến thức khoa học, kỹ thuật, hoặc ngại chưa dám đưa
tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất hoặc còn chần chừ đợi người khác
làm thành công thì mới làm theo.
Tập quán tự do, tuỳ tiện biểu hiện trong sản xuất: Cứ thấy lợi ích
trước mắt là làm ngay chứ không cần xem xét nghĩ đến hậu quả của nó
như thế nào chẳng hạn như việc: chặt phá rừng và khai thác gỗ một cách
bừa bãi khi chưa được phép của các cấp chiinhs quyền; tự do lấy đất làm
gạch, xây nhà khi chưa đăng ký… Tín ngưỡng tôn giáo là vấn đề tự do của
mỗi người nhưng đây cũng là việc đáng để bàn, đáng để quan tâm khi
người dân quá tin vào thần thánh, bói toán chạy theo những điều không
có thật dẫn tới hao tiền, tốn của mất tời gian, làm họ thiếu tự tin vào khả
năng của chính mình, không chịu tiếp thu khoa học,công nghệ, không
dám chấp nhận sự tiến bộ của công cuộc đổi mới đất nước, của những
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Ở nhiều vùng nông thôn nước ta,hiện tượng nông dân sống thờ ơ,
vô trách nhiệm trước khó khăn, hoạn nạn của người khác vẫn còn tồn tại
họ chỉ biết “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”, “mạnh ai người ấy thắng” hay thái
Trang
14