Tải bản đầy đủ (.doc) (207 trang)

Bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 207 trang )

ĐỖ KIM HẢO - ĐẶNG QUỐC KHÁNH - MAI XUÂN MIÊN
TRẦN HÀ NAM - ĐẶNG CAO SỬU

BỒI

DƯỠNG

NGỮ

VĂN

9

1


LỜI NÓI ĐẦU
Các em học sinh lớp 9 thân mến,
Cuốn “Bồi dưỡng Ngữ văn 9” được biên soạn nhằm giúp cho các em có thể tự học để mở rộng,
nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn, theo hướng tích hợp của sách
giáo khoa “Ngữ văn 9”.
Bố cục cuốn sách gồm 3 phần :
- Phần I – Văn.
- Phần II – Tiếng Việt.
- Phần III – Tập làm văn.
Ở mỗi phần, các bài học đều được sắp xếp theo đúng trình tự của sách giáo khoa. Nội dung các
phần tuyệt đối bám sát yêu cầu của bài học.
Ở phần Văn, các tác phẩm và đoạn trích được biên soạn theo các mục : Kiến thức cơ bản và Đề
văn luyện tập (những văn bản nghị luận và văn bản nhật dụng không có mục thứ hai). Mục Kiến thức
cơ bản nhằm giúp cho các em nắm vững được những kiến thức cần thiết về tác phẩm và rèn luyện năng
lực đọc – hiểu văn bản. Mục Đề văn luyện tập giới thiệu với các em một số đề nghị luận văn chương


kèm theo dàn ý và bài viết gợi ý, nhằm tạo điều kiện cho các em ôn luyện và nâng cao kiến thức văn,
đồng thời rèn luyện năng lực nghị luận, năng lực tạo lập văn bản. Do khuôn khổ có hạn, ở một số bài,
mục Đề văn luyện tập được thay bằng mục Tư liệu tham khảo, tạo điều kiện cho các em tiếp xúc với ý
kiến của các nhà nghiên cứu phê bình văn học có uy tín, nhằm mở rộng kiến thức và rèn luyện năng lực
cảm thụ văn chương.
Ở phần Tiếng Việt và phần Tập làm văn, các bài học được biên soạn theo hai mục : Kiến thức
cần nhớ và Thực hành – Luyện tập. Bên cạnh những ví dụ và bài tập tiêu biểu trong sách giáo khoa,
cuốn sách còn giới thiệu với các em những ví dụ và những dạng bài tập mới, vừa thiết thực vừa nâng
cao.
Để sử dụng tốt cuốn sách này, các em cần kết hợp chặt chẽ với sách giáo khoa. Muốn tiến bộ, các
em cần biết tự đọc, tự học một cách tích cực, chủ động và sáng tạo.
Chúng tôi hi vọng cuốn sách sẽ là người bạn thân thiết, đáng tin cậy của các em trên con đường
học tập.
Chúng tôi mong nhận được những góp ý xây dựng của bạn đọc xa gần, đặc biệt là của quý thầy
cô giáo và các em học sinh.
Thay mặt nhóm biên soạn
ĐỖ KIM HẢO

2


PHẦN I – VĂN
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Lê Anh Trà)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
Văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh” được trích trong bài “Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại
gắn với cái giản dị” của Lê Anh Trà, in trong cuốn “Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam” (Viện Văn hóa
xuất bản, Hà Nội, 1990). Bài văn khẳng định nét nổi bật trong phong cách Hồ Chí Minh, đó chính là vẻ
đẹp văn hóa với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại,

giữa sự vĩ đại và sự giản dị.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Phần đầu của văn bản nói về vốn tri thức văn hóa nhân loại vô cùng sâu rộng của Hồ Chí Minh
: “Trong cuộc đời đầy truân chuyên của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với văn hóa nhiều
nước, nhiều vùng trên thế giới, cả ở phương Đông và phương Tây. Trên những con tàu vượt trùng
dương, Người đã ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người đã từng
sống dài ngày ở Pháp, ở Anh. Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc : Pháp, Anh, Hoa,
Nga … và Người đã làm nhiều nghề. Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và
nhân dân thế giới, văn hóa thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Người cũng học hỏi,
tìm hiểu văn hóa nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm”.
Cha ông ngày xưa nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Bác đi nhiều nơi nên học hỏi
được nhiều. Nhưng vấn đề là học bằng cách nào ? Để có được vốn văn hóa sâu rộng ấy, trước hết, Bác
phải nắm vững phương tiện giao tiếp là ngôn ngữ : “Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc
: Pháp, Anh, Hoa, Nga …” ; nắm vững ngôn ngữ để học qua sách vở, qua giao tiếp. Bên cạnh đó, còn
phải học hỏi qua lao động, qua công việc : “Người đã làm nhiều nghề”. Bằng những cách ấy, Bác đã có
được một vốn tri thức đạt đến mức “sâu sắc”, “uyên thâm”. Điều đáng nói ở đây là Người đã tiếp thu
một cách có chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài : “Người đã chịu ảnh hưởng tất cả các nền văn hóa,
đã tiếp thu mọi cái đẹp và cái hay đồng thời với việc phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản”.
Bác tiếp thu trên nền tảng sâu vững của văn hóa dân tộc để tạo nên những giá trị độc đáo : “…điều kì
lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển
được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất
phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”.
2. Phần thứ hai của văn bản nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Hồ Chí Minh. Tác giả đã
giới thiệu lối sống ấy một cách cụ thể bằng những chi tiết tiêu biểu, từ ngôi nhà cho đến trang phục và
cách ăn uống. Mở đầu là một lời bình luận đầy ấn tượng : “Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ
cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao là “cung điện”
của mình”. Nghệ thuật đối lập đã làm nổi bật vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh : vĩ nhân mà hết sức
giản dị, gần gũi. Tác giả khiến người đọc hình dung trong sự đối chiếu các hình ảnh : cung điện của
những ông vua ngày xưa, những tòa nhà nguy nga tráng lệ của các vị nguyên thủ quốc gia, và ngôi nhà
sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao”, có ai ngờ hình ảnh

đơn sơ mang đậm hồn nông thôn như thế, “chỉ vẻn vẹn có vài phòng”, “với những đồ đạc rất mộc mạc
đơn sơ” lại là nơi ở, nơi làm việc của một vị Chủ tịch nước. Trong bài “Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân
tộc, tinh hoa của thời đại”, khi nói về đức tính giản dị của Bác Hồ, Phạm Văn Đồng cũng nhắc đến ngôi
nhà sàn “luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn”. Chủ nhân ngôi nhà
sàn đơn sơ ấy “cũng trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép
lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn”. Và “việc ăn uống của Người cũng rất đạm bạc, với
những món ăn dân tộc không chút cầu kì, như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa”. Am
hiểu văn hóa nhân loại mà cách sống lại hết sức dân tộc, rất Việt Nam. Khép lại đoạn văn kể về lối sống
3


của Bác cũng là một lời bình luận đầy sức thuyết phục : “Tôi dám chắc không có một vị lãnh tụ nào,
một vị tổng thống hay một vị vua hiền nào ngày trước lại sống giản dị và tiết chế đến mức như vậy”.
“Tiết chế” là hạn chế, là giữ không cho vượt quá mức. Tuy nhiên, không nên hiểu “tiết chế” là lối sống
khắc khổ theo kiểu nhà tu hành ; cũng không nên hiểu là tự hạn chế mình để trở thành khác đời, hơn
đời. Sống giản dị, đó không chỉ là một lối sống, thể hiện một quan niệm sống, mà còn gắn với một
quan niệm thẩm mĩ, quan niệm về cái đẹp : cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên. Cho nên, sống giản dị mà
thanh cao chính là ở đó. Cái đẹp, cái thanh cao nằm ngay trong cái giản dị. Tác giả đối chiếu lối sống
của Bác với lối sống của “các vị hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi ở Côn Sơn hay Nguyễn Bỉnh
Khiêm sống ở quê nhà với những thú quê thuần đức”. Bác đã từng tâm sự : ước nguyện của Bác là sau
khi hoàn thành tâm nguyện cứu nước cứu dân, Bác sẽ “làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước
biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu
với vòng danh lợi”. Ta chợt nhận ra trong ước nguyện của Bác cái thú điền viên, thú lâm tuyền của
những bậc triết nhân hiền giả ngày xưa gặp lúc thời thế nhiễu nhương không thể hành đạo giúp đời, đã
từ bỏ công danh, tìm đến cuộc sống ẩn dật nơi núi rừng, bạn cùng hoa cỏ gió trăng, giữ tâm hồn trong
sạch. Nguyễn Trãi xưa về lại Côn Sơn để làm bạn với suối chảy rì rầm, với bàn đá rêu phơi, với bóng
mát của rừng thông, rừng trúc xanh mát một màu. Nguyễn Bỉnh Khiêm vui thú điền viên với cảnh sống
nơi thôn dã “Một mai, một cuốc, một cần câu”, với cảnh thanh bần “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá –
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” để di dưỡng tinh thần. Nhưng có điều, Bác vẫn không phải là nhà hiền
triết ẩn dật, lánh đời. Lối sống của Bác là một lối sống rất dân tộc, in đậm nét đẹp của truyền thống,

nhưng vẫn rất hiện đại. Theo Phạm Văn Đồng, “Bác Hồ sống đời sống giản dị, thanh bạch như vậy, bởi
vì Người sống sôi nổi, phong phú đời sống và cuộc đấu tranh gian khổ và ác liệt của quần chúng nhân
dân. Đời sống vật chất giản dị càng hòa hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng, tình
cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất. Đó là đời sống thực sự văn minh mà Bác Hồ nêu gương
sáng trong thế giới ngày nay”.
C. Tổng kết :
Bằng một lối viết giàu sức thuyết phục, tác giả Lê Anh Trà đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp
văn hóa trong phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân
tộc và nhân loại, giữa vĩ đại và giản dị. Bài văn có ý nghĩa bồi đắp tình cảm tự hào và kính yêu lãnh tụ.

ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HÒA BÌNH
(Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két, nhà văn Cô-lôm-bi-a, sinh năm 1928, là tác giả của nhiều tiểu thuyết
và tập truyện ngắn theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết “Trăm năm cô
đơn” (1967). Mác-két được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1982.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Chủ đích của tác giả không phải chỉ là chỉ ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe dọa loài người, mà
còn nhấn mạnh vào nhiệm vụ đấu tranh để ngăn chặn nguy cơ ấy. Vì thế nhan đề của bài được đặt là
“Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”.
Luận đề của bài : Chiến tranh hạt nhân là một hiểm họa khủng khiếp đang đe dọa toàn thể loài
người và mọi sự sống trên Trái Đất, vì vậy, đấu tranh để loại bỏ nguy cơ ấy cho một thế giới hòa bình là
nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại.
Luận đề cơ bản trên được triển khai trong một hệ thống luận điểm khá toàn diện :
+ Kho vũ khí hạt nhân đang được tàng trữ có khả năng hủy diệt cả Trái Đất và các hành tinh khác
trong hệ Mặt Trời.
+ Cuộc chạy đua vũ trang đã làm mất đi khả năng cải thiện đời sống cho hàng tỉ người. Những ví
dụ so sánh trong các lĩnh vực xã hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục,… với những chi phí khổng lồ
cho chạy đua vũ trang đã cho thấy tính chất phi lí của việc đó.

4


+ Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của loài người mà còn ngược lại với lí trí của
tự nhiên, phản lại sự tiến hóa.
+ Vì vây, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho
một thế giới hòa bình.
Phân tích các luận điểm :
1. Nguy cơ chiến tranh hạt nhân
Để cho thấy tính chất hiện thực và sự khủng khiếp của nguy cơ này, tác giả đã bắt đầu bài viết
bằng việc xác định cụ thể thời gian (hôm nay ngày 8 – 8 – 1986) và đưa ra số liệu cụ thể đầu đạn hạt
nhân với một phép tính đơn giản : “Hôm nay ngày 8 – 8 – 1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã được
bố trí khắp hành tinh. Nói nôm na ra, điều đó có nghĩa là tất cả mọi người không từ trẻ con, đang ngồi
trên một thùng 4 tấn thuốc nổ : tất cả chỗ đó nổ tung lên sẽ làm biến hết thảy, không phải là một lần
mà là mười hai lần, mọi dấu vết của sự sống trên Trái Đất”.
Để thấy rõ hơn sức tàn phá khủng khiếp của kho vũ khí hạt nhân, tác giả còn đưa ra những tính
toán lí thuyết : kho vũ khí ấy có thể tiêu diệt các hành tinh đang xoay quanh Mặt Trời, cộng thêm bốn
hành tinh nữa và phá hủy thế thăng bằng của hệ Mặt Trời.
Cách vào đề trực tiếp và những chứng cứ rất rõ ràng, mạnh mẽ đã thu hút người đọc, gây ấn
tượng về tính chất hệ trọng của vấn đề.
2. Cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị cho chiến tranh hạt nhân đã làm mất đi khả năng để
con người được sống tốt đẹp hơn.
Để làm rõ luận điểm này, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng với những so sánh thật thuyết
phục trong các lĩnh vực xã hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục. Đây đều là những lĩnh vực hết sức
thiết yếu trong cuộc sống con người, đặc biệt là với các nước nghèo, chưa phát triển. Ở mỗi lĩnh vực,
tác giả đưa ra từ một đến hai ví dụ :
+ Về lĩnh vực xã hội : chương trình giải quyết những vấn đề cấp bách cho 500 triệu trẻ em nghèo
khổ nhất trên thế giới là “một giấc mơ không thể thực hiện được vì tốn kém 100 tỉ đô la” ; nhưng số tiền
khổng lồ đó “cũng chỉ gần bằng những chi phí bỏ ra cho 100 máy bay ném bom chiến lược B.1B của
Mĩ và cho dưới 7000 tên lửa vượt đại châu”.

+ Về lĩnh vực y tế : “giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân kiểu tàu Ni-mít trong số
15 chiếc mà Hoa Kì dự định đóng” cũng đủ để thực hiện một chương trình phòng bệnh trong 14 năm,
sẽ bảo vệ cho hơn 1 tỉ người khỏi bệnh sốt rét và cứu hơn 14 triệu trẻ em ở châu Phi.
+ Về lĩnh vực tiếp tế thực phẩm : chi phí cứu 575 triệu người thiếu dinh dưỡng trên thế giới chỉ
tốn kém không bằng 149 tên lửa MX… ; chỉ cần 27 tên lửa MX là đủ trả tiền nông cụ cần thiết cho các
nước nghèo để họ có được thực phẩm trong bốn năm.
+ Về lĩnh vực giáo dục : chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ
cho toàn thế giới.
Nghệ thuật lập luận thật đơn giản mà chắc chắn. “Những con số biết nói” trong các ví dụ so sánh
làm người đọc bất ngờ khi biết được sự tốn kém ghê gớm và tính chất phi lí của cuộc chạy đua vũ
trang, giúp người đọc nhận thức đầy đủ một sự thật hiển nhiên mà phi lí : cuộc chạy đua hạt nhân đã và
đang cướp đi của thế giới nhiều điều kiện để cải thiện cuộc sống của con người, nhất là các nước
nghèo.
3. Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của loài người mà còn ngược lại với lí
trí của tự nhiên, phản lại sự tiến hóa.
Chiến tranh hạt nhân không chỉ tiêu diệt nhân loại mà còn tiêu hủy mọi sự sống trên Trái Đất.
Quy luật của tự nhiên là quy luật tiến hóa của sự sống. Vì vậy, hủy diệt sự sống là phản tiến hóa, là đi
ngược lại lí trí của tự nhiên.
Để làm rõ luận điểm này, tác giả đã đưa ra những chứng cứ từ khoa học địa chất và cổ sinh học
về nguồn gốc và sự tiến hóa của sự sống trên Trái Đất, cho thấy sự sống ngày nay trên Trái Đất và con
người là kết quả của một quá trình tiến hóa hết sức lâu dài của tự nhiên, một quá trình được tính bằng
hằng triệu năm. Thế mà hiện nay, con người “chỉ cần bấm nút một cái là đưa cả quá trình vĩ đại và tốn
5


kém đó của hàng bao nhiêu triệu năm, trở lại điểm xuất phát của nó”. Sự tương phản giữa hằng trăm
triệu năm và một khoảnh khắc đã làm nổi bật hiểm họa chiến tranh hạt nhân ở tính chất phản tiến hóa,
phản tự nhiên của nó. Khi viết : “Trong thời đại hoàng kim này của khoa học, trí tuệ con người chẳng
có gì để tự hào vì đã phát minh ra một biện pháp, chỉ cần bấm nút…”, giọng văn mỉa mai của tác giả
ngầm ý kết tội việc chạy đua hạt nhân là một điều ngu xuẩn.

4. Nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho một thế giới hòa bình.
Đây là luận điểm để kết bài, và cũng là chủ đích của thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi
người.
Sau khi đã chỉ ra một cách hết sức rõ ràng về hiểm họa hạt nhân đang đe dọa loài người và sự
sống trên trái Đất, tác giả không dẫn người đọc đến sự lo âu mang tính bi quan về vận mệnh của nhân
loại, mà hướng tới một thái độ tích cực là đấu tranh ngặn chặn chiến tranh hạt nhân, cho một thế giới
hòa bình : “Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem tiếng nói của chúng ta tham gia vào
bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hòa bình, công
bằng”. Có thể ai đó sẽ nghi ngờ hiệu quả của tiếng nói đấu tranh. Tác giả tiếp tục khẳng định sự cần
thiết phải có mặt trong hàng ngũ những người đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân : “dù tai họa có
xảy ra thì sự có mặt của chúng ta ở đây cũng không phải là vô ích”.
Để kết thúc lời kêu gọi của mình, tác giả đề nghị : cần lập ra một nhà băng lưu giữ trí nhớ tồn tại
được cả sau tai họa hạt nhân, để nhân loại các thời đại sau biết đến cuộc sống của chúng ta đã từng tồn
tại trên Trái Đất và không quên những kẻ đã vì những lợi ích ti tiện mà đẩy nhân loại vào họa diệt
vong. Nhà văn muốn nhấn mạnh : nhân loại cần giữ gìn kí ức của mình, lịch sử sẽ lên án những thế lực
hiếu chiến đẩy nhân loại vào thảm họa hạt nhân.
C. Tổng kết :
Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe dọa toàn thể loài người và sự sống trên Trái đất. Cuộc
chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đã cướp đi của thế giới nhiều điều kiện để phát triển, để loại trừ
nạn đói, nạn thất học và khắc phục nhiều bệnh tật cho hàng trăm triệu con người, nhất là ở những
nước chậm phát triển. Đấu tranh cho hòa bình, ngặn chặn và xóa bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân là
nhiệm vụ thiết thân và cấp bách của mỗi người, của toàn thể loài người.
Bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” của nhà văn nổi tiếng Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két
đã đề cập vấn đề cấp thiết nói trên với sức thuyết phục cao bởi lập luận chặt chẽ, chứng cứ phong phú,
xác thực, cụ thể và còn bởi nhiệt tình của tác giả.

TUYÊN BỐ THẾ GIỚI VỀ SỰ SỐNG CÒN,
QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :

Văn bản trích phần đầu bản “Tuyên bố” của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại trụ sở
Liên hợp quốc, Niu Oóc ngày 30-9-1990, in trong cuốn “Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ
em” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997).
Hội nghị diễn ra trong bối cảnh mấy mươi năm cuối thế kỉ XX, khoa học kĩ thuật phát triển, kinh
tế tăng trưởng, tính cộng đồng, hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới được củng cố, mở rộng. Đó là
những điều kiện thuận lợi đối với nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Song bên cạnh đó cũng có không
ít khó khăn, nhiều vấn đề cấp bách đang đặt ra : sự phân hóa rõ rệt về mức sống giữa các nước, về giàu
– nghèo, tình trạng chiến tranh và bạo lực ở nhiều nơi trên thế giới, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, bị tàn tật, bị bóc lột, và nguy cơ thất học ngày càng nhiều …
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Văn bản gồm 17 mục.

6


Sau hai mục đầu khẳng định quyền được sống, quyền được phát triển của mọi trẻ em trên thế
giới, khẩn thiết kêu gọi toàn nhân loại hãy quan tâm đến vấn đề này, 15 mục còn lại được bố cục thành
3 phần. Mỗi phần được đặt tiêu đề rõ ràng, thể hiện tính chặt chẽ, hợp lí của văn bản.
1. Phần “Sự thách thức” : gồm 5 mục (3, 4, 5, 6, 7), nêu lên những thực tế, những con số về
cuộc sống khổ cực trên nhiều mặt, về tình trạng bị rơi vào hiểm họa của nhiều trẻ em trên thế giới hiện
nay.
Phần này liên kết với phần trên bằng một câu văn chuyển ý rất khéo : “Tuy nhiên, thực tế cuộc
sống thời thơ ấu của nhiều trẻ em lại không như vậy” (mục 3). Tiếp đó, ba mục 4, 5, 6 đưa ra những
dẫn chứng đầy sức thuyết phục để làm rõ cuộc sống khổ cực trên nhiều mặt, về tình trạng bị rơi vào
hiểm họa của nhiều trẻ em trên thế giới hiện nay, cụ thể là :
+ Bị trở thành nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, của nạn phân biệt chủng tộc, chế độ a-pácthai, của sự xâm lược, chiếm đóng và thôn tính của nước ngoài.
+ Chịu đựng những thảm họa của đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, của tình trạng vô gia cư, dịch
bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp.
+ Chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật.
Trên cơ sở thực tiễn đó, mục 7 khái quát : “Đó là những thách thức mà chúng tôi, với tư cách

những nhà lãnh đạo chính trị, phải đáp ứng”.
2. Phần “Cơ hội” :
Phần này gồm 2 mục (8, 9), khẳng định những điều kiện thuận lợi cơ bản để cộng đồng quốc tế
có thể đẩy mạnh việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, cụ thể là :
+ Sự liên kết lại của các quốc gia cùng ý thức cao của cộng đồng quốc tế trên lĩnh vực này. Đã có
công ước về quyền trẻ em làm cơ sở, tạo ra một cơ hội mới.
+ Sự hợp tác và đoàn kết quốc tế ngày càng có hiệu quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực ; phong trào
giải trừ quân bị được đẩy mạnh tạo điều kiện cho một số tài nguyên to lớn có thể được chuyển sang
phục vụ các mục tiêu kinh tế, tăng cường phúc lợi xã hội.
Trong xu thế chung của thế giới, vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở nước ta đang được Đảng và
Nhà nước quan tâm một cách cụ thể. Nhận thức trong cộng đồng về vấn đề này ngày càng sâu sắc,
nhiều tổ chức xã hội và cá nhân đang tích cực tham gia vào các phong trào vì trẻ em…
3. Phần “Nhiệm vụ” : gồm 8 mục (từ mục 10 đến mục 17), xác định những nhiệm vụ cụ thể mà
từng quốc gia và cả cộng đồng quốc tế cần làm vì sự sống còn, phát triển của trẻ em.
Trên cơ sở những thách thức và cơ hội, văn bản nêu lên những nhiệm vụ cấp bách cần làm :
+ Tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dưỡng của trẻ em.
+ Quan tâm, chăm sóc trẻ em bị tàn tật và trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn.
+ Tăng cường vai trò của phụ nữ nói chung và phải đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ để
thực hiện lợi ích của trẻ em, đặc biệt là các em gái.
+ Bảo đảm sao cho trẻ em được học hết bậc giáo dục cơ sở và không để cho một em nào mù chữ.
+ Thực hiện kế hoạch hóa gia đình, tạo điều kiện để trẻ em lớn khôn và phát triển trên nền móng
gia đình.
+ Phải chuẩn bị để các em có thể sống một cuộc sống có trách nhiệm trong một xã hội tự do.
+ Vì tương lai của trẻ em, cần cấp bách bảo đảm hoặc khôi phục lại sự tăng trưởng và phát triển
đều đặn nền kinh tế ở tất cả các nước.
Các nhiệm vụ được nêu ra vừa cụ thể, vừa toàn diện, bao quát trên mọi lĩnh vực (y tế, giáo dục,
xã hội), mọi đối tượng (trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn, em trai, em gái),
và mọi cấp độ (gia đình, xã hội, quốc gia, cộng đồng quốc tế).
Điều quan trọng là các nhiệm vụ đó được nêu lên với một thái độ dứt khoát, thể hiện quyết tâm
cao độ của cộng đồng quốc tế. Mục 17 nhấn mạnh : “Các nhiệm vụ đó đòi hỏi tất cả các nước cần phải

có những nỗ lực liên tục và phối hợp với nhau trong hành động của từng nước cũng như trong hợp tác
quốc tế”.
C. Tổng kết :
7


Tóm lại, bảo vệ quyền lợi, chăm lo đến sự phát triển của trẻ em là một trong những vấn đề quan
trọng, cấp bách có ý nghĩa toàn cầu. Bản “Tuyên bố” của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em ngày 30
– 9 – 1990 đã khẳng định điều đó và cam kết thực hiện những nhiệm vụ có tính toàn diện vì sự sống
còn, phát triển của trẻ em, vì tương lai của toàn nhân loại.

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích “Truyền kì mạn lục” – Nguyễn Dữ)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Dữ người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương. Không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống ở thế kỉ XVI, thời kì triều đình nhà Lê đã
bắt đầu suy thoái, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra các cuộc nội
chiến kéo dài. Nguyễn Dữ học rộng tài cao. Theo Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” (1777),
Nguyễn Dữ thi Hương đỗ Hương cống, thi Hội trúng kì đệ tam, được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền
(nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Nhưng ông chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ già
và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời.
2. “Truyền kì mạn lục” (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ được lưu truyền) được viết bằng
chữ Hán, gồm 20 truyện, khai thác từ các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của
Việt Nam. Các truyện được viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện
thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy
xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. Nhân vật chính trong các truyện thường là :
+ Những người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế
lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh.

+ Những người trí thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng
danh lợi chật hẹp.
3. “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ mười sáu trong số hai mươi truyện của
“Truyền kì mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”. Đây là câu chuyện
về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phụ quyền phong
kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng,
phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Cũng giống như truyện dân gian, truyện thể
hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng
đáng.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Truyện có thể chia làm 3 đoạn :
+ Đoạn 1 : từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương
Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
+ Đoạn 2 : “Qua năm sau … nhưng việc trót đã qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm
của Vũ Nương.
+ Đoạn 3 : phần còn lại, Vũ Nương được cứu và sống ở thủy cung của Linh Phi. Nỗi oan được
giải nhưng nàng quyết không trở lại trần gian.
2. Nhân vật Vũ Nương :
“Chuyện người con gái Nam Xương” là chuyện về nàng Vũ Nương – vợ chàng Trương Sinh :
“Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nếu
truyện cổ tích thường chỉ thiên về cốt truyện và hành động của nhân vật, thì ở đây, dưới ngòi bút sáng
tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều. Tác giả đã
đặt nàng Vũ Nương vào nhiều tình huống khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật.

8


2.1. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường : chồng có tính đa nghi, nhưng nàng đã là một
người vợ tốt, biết giữ đạo làm vợ, lúc nào cũng “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng
phải đến thất hòa”.

2.2. Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót rượu tiễn chồng và nói những lời mà ai nghe cũng “đều ứa
hai hàng lệ”. Nàng không mong vinh hiển mà chỉ mong cho chồng được bình an trở về : “Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một
người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên. Tình thương chồng còn thể hiện
qua sự cảm thông những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng : “Chỉ e việc quân khó liệu, thế
giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có…”, qua nỗi
khắc khoải nhớ nhung : “mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng.
Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm
tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín ngàn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Trong
nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
2.3. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả đã miêu tả
thật xúc động nỗi buồn thương nhớ chồng khắc khoải triền miên theo thời gian : “Ngày qua tháng lại,
thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được”. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân vui tươi –
“bướm lượn đầy vườn”, mùa đông ảm đạm – “mây che kín núi”, còn lòng người thì chỉ dằng dặc một
nỗi buồn thương.
Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xôi, một mình nàng vừa nuôi con
nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động. Mẹ già đau ốm, “nàng hết sức
thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Lời trối trăng của bà mẹ
chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia
đình nhà chồng : “Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con.
Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng
lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng phụ con,
cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu
như đối với cha mẹ đẻ mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không phải vì trách nhiệm mà vì tình
nghĩa thực sự trong lòng.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền
thống.
2.4. Khi bị chồng nghi oan :

+ Nàng một mực phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng nói về thân phận mình : “Thiếp
vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm
lòng thủy chung trong trắng của mình : “Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa
binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa
chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan :
“Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Trong những
lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+ Vũ Nương hết lời phân trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin, vẫn “mắng nhiếc nàng và đánh
đuổi đi”. Ngay đến cái quyền được tự bảo vệ mình, nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu tóm tất
cả những đau khổ của một đời phụ nữ. Hạnh phúc gia đình – “cái thú vui nghi gia nghi thất”, niềm
khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình yêu cũng không còn : “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan,
sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn”. Ngay cả
nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa : “nước thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”.
+ Mọi cố gắng của Vũ Nương đều trở thành vô ích. Không thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đã
tan vỡ, nàng đau khổ tuyệt vọng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong trắng, mượn nước sông để
9


rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than
rằng :
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc
nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng
dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ.”.
Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của
nàng, của một “kẻ bạc mệnh” đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết
liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Truyện cổ tích miêu tả việc tự tử của nàng như một hành động bột
phát trong cơn tuyệt vọng : “Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước”.

Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, hành động ấy có nỗi đau khổ tuyệt vọng nhưng cũng có sự tham gia
của lí trí. Có thể thấy rõ điều đó qua chi tiết nàng “tắm gội chay sạch” trước khi quyên sinh, và lời
nguyền của nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ Nương thể hiện nỗi đau khổ của nàng đã lên
đến tột cùng.
Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát,
phụng dưỡng mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc
gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng lại phải chết một cách oan uổng,
đau đớn. Câu chuyện về Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ
phụ quyền phong kiến đầy bất công.
3. Nhân vật Trương Sinh :
3.1. Trương Sinh là “con nhà hào phú, nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là
tình yêu, mà chỉ là “mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mống bi kịch
của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa nam
và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo : Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, lấy Trương Sinh là “được nương
tựa nhà giàu”. Vũ Nương sẽ là nạn nhân của một chế độ đầy bất công.
3.2. Trong đời sống vợ chồng, Trương là người chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa
quá sức”.
3.3. Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về và đối diện với nỗi mất mát : mẹ già thương nhớ con nên
sinh bệnh và đã qua đời.
Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động. Lời nói ngây thơ của
con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng những chi
tiết đầy kịch tính. Chàng bế con, “đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng dỗ dành, đứa
con ngây thơ nói “Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước
kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra thành hai phần, phần sau thông tin càng “ghê gớm” hơn phần
trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai người cha, người cha –
Trương Sinh biết nói còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít” ? Sau đó lại thêm những thông tin :
“một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao
giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu : “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời
nói ngây thơ của đứa con khiến người ta không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi gian phu
dâm phụ, huống chi là Trương Sinh : “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối

nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. (Cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và
khéo léo.)
Tuy nhiên, điều đáng trách là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động
một cách quá nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la um lên
cho hả giận”. Chàng không còn bĩnh tĩnh để phân tích, phán đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ
Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì”. Cách duy
nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột : kể lại câu chuyện
của đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan khi nhất quyết
10


“giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng, đã trở
thành một kẻ vũ phu, thô bạo : “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Hàng động ấy đã bức tử Vũ
Nương, đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái
chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn “giận là
nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.
Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán,
chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.
4. Những yếu tố kì ảo :
Truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường, Trương Sinh
tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã là có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương đã được giải.
Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới.
4.1. Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức hấp
dẫn của đoạn truyện này, trước hết và chủ yếu, là ở những yếu tố hoang đường, yếu tố kì ảo : Phan
Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh ; Phan Lang lạc vào động rùa của
Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương ; câu chuyện Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa
về thủy cung ; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế ; hình ảnh Vũ Nương hiện
ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với “một
chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy
sông, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi sau đó “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” trong chốc lát.

Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu tố hoang đường, nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân
thực bởi tác giả đã khéo kết hợp với những yếu tố thực về địa danh , về thời điểm lịch sử, sự kiện và
nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương, câu chuyện của Phan
Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất.
4.2. Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo :
+ Trước hết, những yếu tố kì ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù
ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, thương
nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi
giọng mà rằng :
- Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ
gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”.
Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khao khát
được phục hồi danh dự : “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập
một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
+ Điều quan trọng hơn, là những yếu tố kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể
hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân về lẽ công bằng : người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng
cũng được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng.
Tuy nhiên, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy
nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi “Đa
tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ
nhạt dần mà biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh
Phi : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, mà điều chủ yếu là nàng
chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống
lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra
đi của Vũ Nương biểu hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã hội
mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả
đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế đôï phong kiến.
So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với
Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình.
C. Tổng kết :

11


“Chuyện người con gái Nam Xương” khẳng định nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam,
đồng thời cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây
là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và kịch.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Em hãy phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để nêu bật giá
trị tố cáo xã hội và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
DÀN Ý
A. Mở bài : giới thiệu tác giả và tác phẩm.
B. Thân bài :
1. Giá trị tố cáo xã hội của truyện thể hiện qua :
+ Cuộc đời bất hạnh của nhân vật Vũ Nương
+ Những nguyên nhân xã hội tạo nên nỗi bất hạnh đó.
2. Giá trị nhân đạo của truyện :
+ Đề cao phẩm giá, ca ngợi tài đức và những tình cảm cao đẹp của Vũ Nương.
+ Xót xa trước những bất hạnh của nàng, ao ước cho nàng được sống hạnh phúc.
C. Kết bài :
+ Đánh giá nội dung và nghệ thuật của truyện.
+ Ý nghĩa của truyện đối với đời sống.
BÀI VIẾT GỢI Ý
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kì mạn lục”, một tác phẩm
văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân
gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể để
phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người phụ
nữ nói riêng trong xã hội phong kiến.
Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái ởhuyện Nam Xương nết
na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có nhưng ít học, tính vốn đa nghi, đối với vợ
thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ

chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà thì mẹ chồng đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất
định không chịu nhận chàng là bố vì bố nó “đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng
ngồi”. Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. Uất ức quá, nàng gieo mình xuống sông
mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sống ở thủy cung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người
làng là Phan Lang cũng được tiên cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho
nàng. Trong lễ giải oan, nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn.
Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình thường như trăm
nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tố cáo xã hội vô cùng sâu sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải
một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, và vì chồng
nàng quá tin lời con trẻ, nghi oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiến nàng phải tìm lấy cái chết trên
bến Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn
oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội phong
kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con người không được đảm bảo, người phụ nữ với số phận
bèo dạt, mây trôi, có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những
nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những
Trương Sinh với đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ của người
phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thủy cung, nàng đã có lúc định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù
còn nặng lòng với quê hương, lỗi lầm xưa của chồng thì nàng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi,
đành phải sống ở cõi chết : “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Chi tiết
mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ của Vũ Nương, của người phụ nữ đương thời đối với
“nhân gian”, đối với xã hội phong kiến vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc.
12


Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, “Chuyện người con gái Nam Xương” còn đề
cao phẩm giá của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên
chồng, nàng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào để vợ chồng bất hòa. Lúc chồng đi lính, một mình
nàng quán xuyến mọi việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khi mẹ chồng mất, nàng “lo
liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Còn đối với chồng, nàng một dạ thủy chung. Sau khi đã chết, được
sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động “ứa nước mắt

khóc”. Nàng giãi bày tâm sự : “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi để mang tiếng xấu
xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có
ngày”. Đọc đến đây, không ai không xúc động trước tấm lòng nặng nghĩa, nặng tình với quê hương bản
quán của nàng. Tuy vừa được cứu sống, tuy được sống trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên
tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha đất cũ và tâm niệm sẽ
có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc sống ở trần thế với cuộc sống đời thường
cũng như khi làm tiên ở thủy cung lộng lẫy đều là một phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm
giá, về tâm hồn. Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội phong
kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng.
Như phần trên đã nói, viết “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã lấy cốt truyện
trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện
già dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường, lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được
hình tượng nhân vật vô cùng sống động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó, tác phẩm của ông đã giáo dục
chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh
phúc của con người.
(Bài của học sinh Nguyễn Thị Lưu – “Những bài làm văn chọn lọc 9”, Vũ Nho)

CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH
(Trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) tên chữ là Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là
Chiêu Hổ, người làng Đan Loan, huyện Đường An tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình
Giang, tỉnh Hải Dương). Ông xuất thân dòng dõi thế gia, cha làm quan đến chức Tuần phủ Sơn Tây
dưới triều Lê Cảnh Hưng. Phạm Đình Hổ sinh vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. Dưới
triều Tây Sơn, ông lánh về quê sống đời hàn nho. Đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng vời ông ra làm
quan. Ông đã mấy lần từ chức, rồi lại bị triệu ra. Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá
trị thuộc đủ các lĩnh vực triết học, lịch sử, địa lí, ngôn ngữ và văn học, tất cả đều bằng chữ Hán.
Di sản văn chương của ông tương đối lớn và rất có giá trị. Về văn, có hai tập là “Vũ trung tùy

bút” và “Tang thương ngẫu lục” (viết chung với Nguyễn Án). Về thơ, có hai tập “Đông Dã học ngôn thi
tập” và “Tùng cúc liên mai tứ hữu”.
2. “Vũ trung tùy bút” (tùy bút viết trong những ngày mưa) là một tác phẩm đặc sắc viết bằng
chữ Hán, viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX). Tác phẩm gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo
thể tùy bút (theo cách hiểu của tác giả là ghi chép tùy hứng, tản mạn, gặp gì ghi nấy, nhớ đâu ghi đó,
không cần hệ thống, kết cấu gì cả). Ông ghi lại đủ chuyện cổ kim. Có khi là chuyện người thực việc
thực đương thời, có khi là chuyện xa xưa thuộc truyền thuyết, cổ tích hay lời ngoa truyền… Ông bàn về
các thứ lễ nghi, phong tục, tập quán…, ghi chép những việc xảy ra trong xã hội lúc đó, viết về những
nhân vật lịch sử, di tích lịch sử, khảo cứu về địa dư, chủ yếu là vùng Hải Dương quê ông. Tất cả những
nội dung ấy đều được trình bày một cách giản dị, sinh động và hấp dẫn. Tác phẩm chẳng những có giá
trị văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài liệu quý về sử học, địa lí, xã hội học.
3. “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một trong 88 mẩu chuyện của “Vũ trung tùy bút”, kể
việc chúa Trịnh Sâm ham mê tuần du triền miên, hết ngự li cung Tây Hồ lại đến các li cung Tử Trầm,
13


Dũng Thúy… Biết được ý chúa thích chơi “trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, và chậu hoa cây cảnh
ở chốn dân gian”, bọn hoạn quan thừa gió bẻ măng gây ra không biết bao nhiêu tai họa cho dân.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Cảm xúc chủ đạo trong bài văn là thái độ phê phán đối với thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu
nhân dân của vua chúa và quan lại thời Lê - Trịnh.
1. Đoạn thứ nhất (từ đầu đến “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”) vạch trần thói ăn chơi xa
xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa bằng nhiều sự việc và chi tiết gây ấn
tượng mạnh :
- Chúa “thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi
Dũng Thúy” nên cho xây dựng cung điện, đình đài ở các nơi. “Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục”,
hao tốn không biết bao nhiêu tiền của và công sức.
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả rất tỉ mỉ :
+ Diễn ra thường xuyên “mỗi tháng ba bốn lần”.
+ Huy động rất đông người hầu hạ : “binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các nội thần,

quan hộ giá, bọn nhạc công…
+ Bày đặt nhiều trò giải trí lố lăng và tốn kém :
* Giả trò mua bán : “các nội thần thì đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ
hồ để bán”, để “thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ
như ở cửa hàng trong chợ”,
* Bố trí dàn nhạc khắp nơi để tấu nhạc làm vui : “bọn nhạc công ngồi trên gác chuông hồ Trấn
Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc”.
- Chúa cho tìm thu, thực chất là cướp đoạt, những của quý trong thiên hạ như những loài chim
quý, thú lạ, những cây cổ thụ, những hòn đá hình dáng kì lạ cổ quái, chậu hoa cây cảnh… về tô điểm
cho nơi ở của chúa.
Tác giả tập trung miêu tả kĩ để người đọc thấy được việc đưa một cây đa to về phủ chúa phải mất
bao công phu. Trước hết, ông miêu tả cây đa để gây ấn tượng : “cây đa to, cành lá rườm rà”, “giống
như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng”. Cây đa ấy “phải một cơ binh mới
khiêng nổi”. Việc di chuyển cây đa mới thật độc đáo, bên cạnh một cơ binh khiêng cây, còn có “bốn
người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”. Lại còn bao
nhiêu công phu “từ bên bắc chở qua sông đem về” !
Từ cảnh ngự thuyền đi chơi trên hồ đến cảnh giả trò mua bán, cảnh hoà nhạc, cảnh khiêng cây đa,
tất cả đều được miêu tả cụ thể, chân thực và khách quan. Tự thân những chi tiết và sự việc ấy đã nói lên
rất nhiều thói xa xỉ vô độ của chúa Trịnh và bọn quan lại hầu cận trong phủ.
Đến cuối đoạn, tác giả mới xen vào một lời bình gián tiếp : “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng
chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ
thức giả biết đó là triệu bất tường”.
Cảnh được miêu tả là cảnh thực ở những khu vườn rộng, đầy “trân cầm dị thú, cổ mộc, quái
thạch, và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian”, “lại được điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông
như bến bể đầu non”. Cảnh đẹp nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đau thương,
tan tác. Tác giả mượn lời “kẻ thức giả” để nhận xét đây là “triệu bất tường”, là điềm gở. Nó như báo
trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương
máu của nhân dân.
2. Đoạn còn lại viết về bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu
vơ vét của dân.

Thủ đoạn của chúng thật bỉ ổi : dò xem nhà nào có vật quý thì đến cướp đi và buộc tội “tàng trữ”
vật cung phụng, theo kiểu “vừa ăn cướp, vừa la làng”. Khổ chủ vừa bị cướp của, vừa phải mất tiền để
thoát tội. Có nhà vừa bị mất của, lại vừa bị “phá nhà hủy tường”. Có nhà phải tự tay “đập bỏ núi non
bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”. Tất cả những việc ấy cho thấy bản chất của bọn hoạn
14


quan. Bọn chúng khéo xu nịnh nên được nhà chúa sủng ái, ỷ thế nhà chúa mà ngang nhiên hoành hành,
tác oai tác quái, gây bao tai vạ cho nhân dân.
Để tăng thêm sức mạnh tố cáo, tác giả kể thêm một sự việc của chính gia đình mình : bà mẹ đã
phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý có hoa thơm quả đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai
họa. Những địa danh “phường Hà Khẩu”, “huyện Thọ Xương” càng làm tăng thêm tính chân thực và vì
thế, sức thuyết phục càng lớn.
3. Bài văn được viết theo thể tùy bút. Cũng là văn xuôi, nhưng thể tùy bút khác với truyện.
Truyện thuộc loại văn tự sự, phản ánh cuộc sống thông qua số phận con người cụ thể. Yếu tố cơ
bản của truyện là cốt truyện, và gắn liền với nó là hệ thống nhân vật. Để triển khai cốt truyện và xây
dựng hệ thống nhân vật, truyện phải có một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng bao gồm
các sự kiện, xung đột, chi tiết miêu tả nội tâm, ngoại hình, khắc họa tính cách nhân vật… Truyện chấp
nhận cả những chi tiết tưởng tượng, hoang đường.
Tùy bút là thể văn xuôi thiên về trữ tình. Tùy bút nhằm ghi chép những người thực, việc thực,
qua đó tác giả bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống.
Ngòi bút của nhà văn tuỳ theo cảm hứng, có thể tản mạn, không cần tuân theo một hệ thống, kết cấu
nào cả, nhưng vẫn nhất quán theo một tư tưởng, một cảm xúc chủ đạo. Lối ghi chép ở tùy bút giàu chất
trữ tình hơn các loại văn ghi chép khác như bút kí, kí sự.
C. Tổng kết :
Bằng thể loại văn tùy bút ghi chép tùy hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực và sinh
động, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ đã giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa
vô độ của vua chúa, sự nhũng nhiễu của quan lại thời vua Lê chúa Trịnh.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII qua đoạn trích

“Chuyện cũ trong phú chúa Trịnh” (trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ).
DÀN Ý
A. Mở bài :
+ Giới thiệu tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
+ Đoạn trích : tình trạng đất nước vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII và thái độ phê
phán của tác giả.
B. Thân bài :
1.Tổng :
a. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh : bộ mặt của giới cầm quyền phong kiến thời Lê - Trịnh được
kể lại một cách sinh động, chân thực.
b. Ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện của tác giả không che giấu thái độ căm ghét những kẻ gây hại
cho nhân dân.
2. Phân :
a. Những thú xa hoa của chúa Trịnh Sâm : tô vẽ phô trương vẻ hào nhoáng, thú chơi phong lưu,
sính đàn ca nhã nhạc. Ngôn ngữ miêu tả của Phạm Đình Hổ tỉ mỉ chi tiết giúp người đọc hình dung đầy
đủ.
b. Bọn cận thần “nhờ gió bẻ măng” : lời kể cụ thể từng vụ việc và thủ đoạn bất lương của bọn tay
chân nhà Chúa.
c. Tình cảnh khốn khổ của nhân dân : nhà văn ghi lại câu chuyện có thực kể lại việc xảy ra trong
nhà mình.
d. Thái độ bất bình của nhà văn qua giọng kể.
3. Hợp :
a. Nghệ thuật tùy bút đem lại cái nhìn sinh động về bọn người quyền quý cũng như nỗi khổ của
nhân dân.
b. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
15


C. Kết bài :
Nêu cảm nhận sâu sắc của bản thân.

BÀI VIẾT GỢI Ý
Tác phẩm Vũ trung tùy bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập
bút kí sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh, vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Mặc dù được
viết theo thể tuỳ bút khá tự do, nhưng những điều được ghi lại trong đó đã chứa đựng một giá trị hiện
thực rất sắc sảo, đồng thời bộc lộ rõ cái nhìn phê phán của tác giả với thói xa hoa vô độ của vua chúa
phong kiến. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trong những câu chuyện được kể lại trung thực
giúp ta hiểu về bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn chúa Trịnh được che đậy trong lớp vỏ vàng son hào
nhoáng.
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) là người nổi tiếng với biệt danh Chiêu Hổ, là người am hiểu văn
hoá nếp sống của Thăng Long – Kẻ Chợ. Vốn dòng dõi quan lại đời Lê nên ông có điều kiện hiểu rõ
những kẻ thuộc giới quý tộc kinh kì. Những điều nhà văn ghi lại tưởng như là sự ghi nhận về thời vô
sự – bốn phương yên hưởng thái bình. Mỉa mai thay, thực trạng lại là một bức tranh với sắc chói chang
của mũ mão cân đai rỡ ràng đối lập với thực tại tinh thần tối sầm những cảm giác bất an trong đời sống
dân lành. Thực trạng ấy từng được mô tả trong Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông, Tang
thương ngẫu lục của danh sĩ Nguyễn Án. Nhưng câu chuyện của Chiêu Hổ vẫn có sức hấp dẫn riêng.
Thời gian, khung cảnh câu chuyện được thuật lại tỉ mỉ. Trong bối cảnh trong nước vô sự, việc an
hưởng thái bình, du ngoạn cảnh đẹp của một ông chúa có lẽ chẳng có gì đáng nói. Việc ăn chơi của
Chúa đáng nói ở chỗ “đình đài được làm liên tục”. Hãy so sánh với những gì trong phủ Chúa được Hải
Thượng Lãn Ông mô tả : “ nơi nào cũng lâu đài, đình các, rèm châu cửa ngọc, áng nước mây loà, suốt
cõi toàn hoa, hoa cỏ kì lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng
nhô lên một ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc qua lạch nước quanh co, lại có lan can
làm toàn bằng đá màu…”. Ngoài cung cũng là cả một sự xa xỉ cầu kì như vậy. Chúa thưởng ngoạn
cảnh đẹp kéo theo cả một đội quân tiền hô hậu ủng với binh lính, nội thần, các quan hỗ tụng đại thần…
Quang cảnh phô bày qua sự mô tả của tác giả khiến người đọc hình dung một sự sắp đặt nhằm làm đẹp
lòng Chúa của đám nịnh thần mặt trắng, đồng thời hiện rõ tính chất phồn vinh giả tạo của cuộc sống
kinh kì. Thức ngon sẵn bày, đàn hay sáo ngọt. Chỉ cần vài cảnh đã cho thấy sự xa hoa tráng lệ xứng
đáng với tiếng tăm Thịnh Vương – quyền hành dưới mà trên cả hoàng đế. Đàng sau những vẻ phô
trương hào nhoáng đó là sự lố bịch hiện hình : bọn nội thần mặc quần áo đàn bà đứng bán hàng, cảnh đi
chợ của các quan như trò chơi trẻ con cho thấy sự phồn vinh giả tạo. Nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỉ của
mình, “bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian,

Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Quyền lực, xa xỉ, ngang ngược, hống hách là những gì
chúng ta có thể hình dung về ông Chúa nổi tiếng ăn chơi này. Tác giả đã bình bằng một điềm báo :
“Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như
trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Câu văn miêu tả vẽ ra viễn
cảnh u ám, đầy âm khí, như kết đọng nỗi oán hờn của dân gian, chứa đựng ý nghĩa cảnh báo sự sụp đổ
không thể tránh khỏi của một vương triều quái thai mục ruỗng.
“Thượng bất chính, hạ tắc loạn” (Trên không nghiêm, dưới sinh loạn) ! Quả thật, những gì Phạm
Đình Hổ diễn tả tiếp nối về hành động của bọn tay chân nhà Chúa đục nước béo cò, “nhờ gió bẻ măng,
ra ngoài dọa dẫm”. Nhà dột từ nóc, bởi thế người đọc không nghi ngờ gì về bản chất thối nát của vương
triều Lê – Trịnh. Tất yếu, những hành vi của chúng gây tác hại cho dân lành lương thiện như thế nào :
bị vu oan, hãm hại cửa nát nhà tan. Không phải là cách nói ví von mà Phạm Đình Hổ còn kể lại câu
chuyện sinh động : “Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng
ra”. Người giàu có của bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh Chúa đục
khoét, hành hạ. Không những thế, người kể chuyện còn đưa ra bằng chứng ngay trong gia đình mình
như xác minh tính chân thực của câu chuyện kể : “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước
nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xoá thơm lừng ; trước nhà
trung đường, cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai
16


chặt đi cũng vì cớ ấy” . Bản thân gia đình tác giả thuộc hàng quý tộc chốn cung đình, vậy mà còn trở
thành nạn nhân của Chúa Trịnh. Ta chứng kiến cái đẹp bị hủy hoại bởi lẽ không cái đẹp nào có thể
được phát triển tự nhiên dưới ách bạo quyền. Câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng giá trị tố cáo đã thật đầy
đủ, không cần nói thêm, viết thêm.
Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình
dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê - chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của
nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân,
lời ta thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc
nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung
của giai cấp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc .

Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã
qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc
có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và bả phù hoa
làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào !

HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
(Hồi thứ mười bốn)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
“Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm của Ngô gia văn phái – một tập thể các tác giả thuộc dòng
họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, trong đó hai tác giả chính
là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
Ngô Thì Chí (1753 – 1788) là em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống. Ông
là người tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu
Chỉnh (1787), Ngô Thì Chí chạy theo Lê Chiêu Thống, dâng “Trung hưng sách” bàn kế khôi phục nhà
Lê. Sau đó ông được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập nghĩa binh
chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh, mất tại huyện Gia Bình (Bắc Ninh).
Ngô Thì Du (1772 – 1840) là anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí. Ông học giỏi nhưng không
đỗ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ẩn mình ở vùng Kim Bảng (nay thuộc Hà Nam). Thời nhà Nguyễn,
ông ra làm quan, được bổ Đốc học Hải Dương đến 1827 thì về nghỉ.
2. “Hoàng Lê nhất thống chí” (ghi chép về sự nhất thống của vương triều nhà Lê) là tác phẩm
văn xuôi chữ Hán được viết theo thể chí, một thể văn cổ vừa có tính chất văn học, vừa có tính chất lịch
sử. Đây thực chất là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối tiểu thuyết chương hồi. Tác phẩm gồm
17 hồi, trong đó 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết, 7 hồi giữa của Ngô Thì Du, 3 hồi còn lại do người khác
viết (có tài liệu cho là Ngô Thì Thiến).
Tác phẩm tái hiện chân thực bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầy biến động khoảng ba mươi
năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX, trong đó tập trung vào hai nội dung chính :
+ Vạch trần sự thối nát, mục ruỗng dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của các tập đoàn phong kiến Lê –
Trịnh :

Mở đầu là sự sa đọa, thối nát đến cực độ của các nhân vật đứng đầu các tập đoàn phong kiến. Các
ông vua thời Lê mạt thì chẳng ra vua : Lê Hiển Tông chỉ biết “chắp tay rủ áo”, cam phận làm bù nhìn,
bạc nhược đến mức phó mặc trách nhiệm cho nhà chúa “Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui” ; Lê Chiêu
Thống rước giặc vào nhà, rước voi giày mả tổ, “đê hèn, khuất phục” trước giặc Mãn Thanh, mong cứu
vãn cái ngai vàng sắp sụp đổ ; ông vua cuối cùng Lê Duy Mật “chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà
thôi”. Bên phủ chúa, Trịnh Sâm hoang dâm vô độ, say mê Đặng Thị Huệ, dẫn đến việc phế con trưởng
là Trịnh Tông, lập con thứ là Trịnh Cán lên làm thế tử. Trịnh Sâm chết, nhà chúa loạn, gây nên cảnh nồi
17


da nấu thịt, anh em đánh giết lẫn nhau, rồi đến nạn kiêu binh ỷ thế lộng hành. Sự tranh giành quyền lực
giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, dữ dội.
+ Phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ :
Trong bối cảnh xã hội phong kiến rối ren, thối nát, cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Tây
Sơn là một tất yếu. Người anh hùng Nguyễn Huệ liên tiếp lập nên những chiến công oanh liệt chống
thù trong giặc ngoài, đánh tan giặc xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn.
Nhưng cơ nghiệp Tây Sơn ngắn ngủi, chúa Nguyễn lại dần dần hồi phục thế lực, dẹp Tây Sơn,
lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình trạng thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu
Thống nương thân ở nước người.
Tất cả những sự kiện lịch sử trên được miêu tả một cách thật cụ thể, sinh động. Nổi bật trên nền
thời đại ấy là vóc dáng của những con người thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là hình ảnh sáng ngời
của một Quang Trung Nguyễn Huệ, người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của cả một dân
tộc.
3. Hồi thứ mười bốn kể lại chiến công oanh liệt của Quang Trung Nguyễn Huệ tiêu diệt 20 vạn
quân Thanh.
Hai hồi trước (12 và 13) kể việc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt
Vũ Văn Nhậm. Lê Chiêu Thống sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên phía Bắc, chiêu mộ quân
binh để mưu tính sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Việc không thành, Lê Chiêu Thống cử người bí mật
sang Trung Quốc cầu viện triều đình Mãn Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị được lệnh thiên
triều liền kéo đại quân sang nước ta với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân

Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Điệp. Quân Thanh kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự
nào, sinh kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cũng theo về, nhận sắc phong An Nam Quốc Vương, nhất
nhất mọi việc đều theo lệnh của Tôn Sĩ Nghị. Nghị nghênh ngang, ngạo ngược, không kể gì tới ai.
Mở đầu hồi mười bốn kể về tình trạng của quân tướng Tôn Sĩ Nghị chỉ lo “chơi bời, tiệc tùng,
không hề để ý đến việc quân”, lính thì “tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỉ luật gì
cả”. Thái hậu nghe tin, lo sợ nói với Lê Chiêu Thống. Vua hoảng sợ, xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn
mắng vào mặt. Vua sợ bị quở trách nữa nên lại lui về.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Đoạn trích ở phần sau của hồi mười bốn. Có thể chia làm ba đoạn :
+ Đoạn 1 (từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”) : được tin
báo quân Thanh đã chiếm Thăng long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và thân chinh
cầm quân ra Bắc dẹp giặc.
+ Đoạn 2 (tiếp theo đến “vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành”) : cuộc
hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
+ Đoạn 3 (phần còn lại) : sự đại bại của quân Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu
Thống.
1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ :
Trong đoạn trích, hình tượng Nguyễn Huệ nổi lên sáng ngời phẩm chất của người anh hùng.
a. Hành động mạnh mẽ, quyết đoán :
Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn luôn thể hiện là một con người hành động một cách
xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long,
chiếm cả một vùng đất đai rộng lớn, Nguyễn Huệ vẫn không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân
đi ngay”. Rồi sau đó, chỉ trong vòng một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng chạp), Nguyễn Huệ đã làm
được bao nhiêu việc lớn : “tế cáo trời đất” lên ngôi Hoàng đế, “đốc xuất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ
“người cống sĩ ở huyện La Sơn” Nguyễn Thiếp, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh ở Nghệ An,
phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến
thắng.
b. Trí tuệ sáng suốt, sâu sắc và nhạy bén :
18



+ Trí tuệ ấy biểu hiện trong việc xét đoán và dùng người. Khi đến Tam Điệp, gặp Ngô Văn Sở và
Phan Văn Lân “đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội”, Nguyễn Huệ xử trí vừa có lí vừa có tình.
Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc.
+ Trí tuệ ấy biểu hiện trong việc phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta – địch. Trong lời
phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm
lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc (đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng) ; nêu bật dã tâm của
giặc (bụng dạ ắt khác… giết hại nhân dân, vơ vét của cải) ; nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm
của dân tộc ta từ xưa ; kêu gọi quân lính “đồng tâm hiệp lực ; ra kỉ luật nghiêm minh… Lời phủ dụ như
một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu n ước và truyền
thống quật cường của dân tộc.
c. Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng : mới khởi binh đánh giặc, chưa giành lại được
một tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã tuyên bố chắc chắn như đinh đóng cột “phương lược tiến
đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng một nước “lớn gấp
mười nước mình” để có thể “dẹp việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”.
d. Tài dụng binh như thần :
Đến tận hôm nay, chúng ta vẫn còn kinh ngạc vì cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn
do vua Quang Trung chỉ huy. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), ngày 29 đã tới
Nghệ An, vượt khoảng 350 km qua núi, qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa
duyệt binh, chỉ trong vòng một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp (cách khoảng 150km). Và đêm
30 tháng chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Mà tất cả đều là đi bộ. Có sách còn nói
vua Quang Trung sử dụng cả biện pháp dùng võng khiêng, cứ hai người khiêng thì một người được
nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150 km), vừa
hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung định kế hoạch chỉ trong vòng 7 ngày, mồng 7 tháng
giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long. Trên thực tế, đã thực hiện kế hoạch sớm hai ngày : trưa mồng 5 đã
vào Thăng Long. Hành quân xa liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi, rã rời, nhưng nghĩa binh
Tây Sơn thì cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề. Đó là do tài tổ chức của người cầm quân : hơn một vạn quân
mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền,
hậu, tả, hữu.
e. Lẫm liệt trong chiến trận :

Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ
huy chiến dịch thực sự : hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một
mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế… Đội quân của vua Quang
Trung không phải toàn là lính thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì
giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của Quang Trung, đã đánh những trận thật hào hùng,
thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở Phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo
thế bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi, “quân lính luân phiên dạ ran” làm cho lính trong đồn “ai nấy rụng rời
sợ hãi” xin hàng ; công phá đồn Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận
tiến đánh, khi giáp lá cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm
binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới”…). Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía
“Thật là : tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên, và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc
hoạ thật lẫm liệt. Trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, giữa cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy
gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”. Có sách ghi khi Quang Trung vào đến Thăng
Long, tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
* Cách trần thuật của đoạn văn thật đặc sắc, không chỉ nhằm ghi lại những sự kiện lịch sử diễn
biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian, mà còn chú ý miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói
của nhân vật chính, từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân (một bên
thì xộc xệch, trễ nãi, nhát gan, một bên thì xông xáo dũng mãnh, tổ chức nghiêm minh). Qua đó, hình
ảnh người anh hùng được khắc họa khá đậm nét, có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt,
19


nhạy bén, có tài dụng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. Đây là đặc
điểm khẳng định rõ tính chất thể loại tiểu thuyết lịch sử của tác phẩm.
* Dường như có sự mâu thuẫn giữa nhan đề tác phẩm với nội dung tác phẩm. Nhan đề mang ý
nghĩa ca ngợi nhà Lê, nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà
Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ. Điều đó nói lên quan điểm phản ánh hiện
thực của các tác giả là tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê, họ không
thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu đã cõng rắn cắn gà nhà. Dù không theo Tây Sơn, họ
không thể không thấy chiến công lẫy lừng của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của dân tộc. Bởi

thế nên các tác giả họ Ngô đã viết thực và viết hay về người anh hùng Nguyễn Huệ.
2. Sự thảm bại của bọn quân tướng nhà Thanh :
Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang An Nam là nhằm những lợi ích riêng, lại không muốn tốn nhiều
xương máu. Hơn nữa, y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết được tình hình thực hư
ra sao, lại còn kiêu căng tự mãn, chủ quan khinh địch. Dù đã được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước, y
vẫn không chút đề phòng, suốt mấy ngày Tết chỉ “chăm chú vào yến tiệc, vui mừng, không lo chi đến
việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi.
Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không
kịp mặc giáp… chuồn trước qua cầu phao”, quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rời sợ hãi” xin ra
hàng” hoặc “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn,
tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu qua sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều” đến nỗi “nước
sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Cả đội binh hùng tướng mạnh chỉ còn biết
tháo chạy, mạnh ai nấy chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.
3. Số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống :
Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành với ông ta đã vì mưu lợi ích riêng của dòng họ mà
cõng rắn cắn gà nhà, đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào nanh vuốt của kẻ thù xâm lược. Bọn người
phi nghĩa ấy đã phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, và cuối cùng phải chịu chung số
phận bi thảm của kẻ vong quốc. Khi có biến, Lê Chiêu Thống cùng bọn bề tôi thân tín vội vã “đưa thái
hậu ra ngoài”, chạy trối chết, cướp thuyền dân để qua sông, chạy “luôn mấy ngày không ăn”. May gặp
người thổ hào thương tình cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ
còn biết “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”. Đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh
khốn quẫn của vua Lê Chiêu Thống, phơi bày tất cả sự thảm hại trong kết cục của một ông vua phản
dân hại nước. Nhưng có thể thấy tác giả vẫn gửi gắm ở đó chút tình cảm riêng của một bề tôi cũ nhà
Lê. Lòng thương cảm của tác giả biểu hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc tận tình của
người thổ hào. Giọng văn cũng có phần ngậm ngùi, khác với âm hưởng sôi nổi, hào hứng ở đoạn trên.
C. Tổng kết :
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí”
đã tái hiện chân thực, sinh động hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần
tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê
Chiêu Thống.


“TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU

20


1. Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
+ Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống
về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ là
Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh.
+ Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội. Những thay đổi lớn lao
của lịch sử đã tác động sâu sắc tới tình cảm và nhận thức của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút vào
hiện thực.
+ Nguyễn Du là người có hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.
+ Sự từng trải trong cuộc đời đã tạo cho Nguyễn Du có một vốn sống phong phú và một trái tim
giàu lòng yêu thương, thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
Những yếu tố trên đã góp phần tạo nên một Nguyễn Du – thiên tài văn học của Việt Nam, được
công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả chữ Hán lẫn chữ
Nôm.
+ Về chữ Hán, có ba tập thơ với tổng số 243 bài : “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”,
và “Bắc hành tạp lục”.
+ Về chữ Nôm, có “Truyện Kiều” (Đoạn trường tân thanh), “Văn chiêu hồn” (Văn tế thập loại
chúng sinh)…
3. “Truyện Kiều” là kiệt tác số một của Nguyễn Du. Tác phẩm có tên là “Đoạn trường tân thanh”
(tiếng kêu mới đứt ruột), nhưng nhân dân ta quen gọi là “Truyện Kiều”.
Gọi là “Truyện Kiều” bởi đây là câu chuyện về nàng Vương Thúy Kiều. Viết “Truyện Kiều”,
Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
Tuy nhiên, Nguyễn Du đã có nhiều sáng tạo, cụ thể là :

+ Sáng tạo về nội dung :
“Kim Vân Kiều truyện” chỉ là một câu chuyện tình ở Trung Quốc đời Minh. Nguyễn Du đã biến
thành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên “những điều trông thấy” trong giai đoạn
lịch sử đầy biến động của Việt Nam cuối Lê đầu Nguyễn.
+ Sáng tạo về nghệ thuật :
- Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo và một số chi tiết khác của các nhân vật trong
“Kim Vân Kiều truyện”, sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tô đậm câu chuyện về tình người ; biến
các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể ;
chuyển trọng tâm của truyện từ sự kiện sang nội tâm của nhân vật chính. Ngòi bút tả cảnh, tả tình, tả
người rất điêu luyện của Nguyễn Du đã làm cho các nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn.
- Về thể loại : “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân là tiểu thuyết chương hồi gồm
20 hồi, bằng văn xuôi. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là truyện Nôm gồm 3254 câu lục bát, mang tính
chất tiểu thuyết bằng thơ.
4. “Truyện Kiều” là tác phẩm có giá trị lớn lao về cả nội dung và nghệ thuật.
4.1. Giá trị nội dung : “Truyện Kiều” có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
a. Giá trị hiện thực :
“Truyện Kiều” là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công tàn bạo, là lời tố cáo xã hội phong
kiến chà đạp quyền sống của con người, đặc biệt là những người tài hoa, người phụ nữ.
+ “Truyện Kiều” tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan xử kiện,
cho đến “họ Hoạn danh gia”, “quan Tổng đốc trọng thần”, rồi là bọn ma cô, chủ chứa,… đều ích kỉ,
tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người.
+ “Truyện Kiều” còn cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm tha hóa con người. Đồng
tiền làm đảo điên (“Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”), đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và
xóa mờ công lí (“Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”).
b. Giá trị nhân đạo :
21


+ “Truyện Kiều” là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con
người. Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho

những nỗi đau lớn của con người : tình yêu tan vỡ, tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân
xác bị đày đọa…
+ “Truyện Kiều” đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những
khát vọng chân chính.
- Hình tượng nhân vật Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, hiếu hạnh đủ đường là nhân vật lí tưởng, tập
trung những vẻ đẹp của con người trong cuộc đời.
- “Truyện Kiều” là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy. Bước chân “Xăm xăm băng
lối vườn khuya một mình” của Kiều đến với Kim Trọng đã phá vỡ những quy tắc thánh hiền về sự cách
biệt nam nữ.
- “Truyện Kiều” là giấc mơ về tự do và công lí. Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước
mơ anh hùng “đội trời đạp đất” làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những
“phường giá áo túi cơm”.
4.2. Giá trị nghệ thuật :
“Truyện Kiều” là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên tất cả các phương diện
ngôn ngữ, thể loại.
Với “Truyện Kiều”, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
Với “Truyện Kiều”, nghệ thuật tự sự đã có những bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn
chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, con người.
Nguyễn Du là thiên tài văn học, danh nhân văn hóa, nhà nhân đạo chủ nghĩa, có đóng góp to lớn
đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” là kiệt tác văn học, kết tinh giá trị hiện
thực, giá trị nhân đạo và thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của văn học dân tộc.

CHỊ EM THÚY KIỀU
(Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. “Chị em Thúy Kiều” là đoạn trích ở phần mở đầu “Truyện Kiều”, giới thiệu gia cảnh nhà
Vương viên ngoại. Sau bốn câu thơ kể về gia đình họ Vương :
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.

Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
, Nguyễn Du dành hai mươi bốn câu thơ để nói về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân.
2. Đoạn thơ gồm 3 phần :
+ Bốn câu đầu : giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều.
+ Bốn câu tiếp : gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân.
+ Mười sáu câu còn lại : gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều.
Kết cấu như thế là chặt chẽ, thể hiện cách miêu tả nhân vật tinh tế của Nguyễn Du : từ ấn tượng
chung về vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để cực tả vẻ đẹp của Thúy
Kiều.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bốn câu đầu giới thiệu chung về hai chị em :
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
22


Cách giới thiệu thật giản dị, ngắn gọn mà đầy đủ. Hai người con gái đầu lòng của gia đình họ
Vương đều đẹp (hai ả tố nga), chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân. Câu thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh
thần” có hai hình ảnh ước lệ gợi tả vẻ đẹp của hai chị em : cốt cách duyên dáng, thanh cao như mai và
tinh thần trắng trong như tuyết. Cả hai đều đẹp “mười phân vẹn mười”, nhưng “mỗi người một vẻ”,
mỗi người có một vẻ đẹp riêng.
2. Vẻ đẹp của Thúy Vân được gợi tả qua bốn câu thơ :
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Câu thơ đầu giới thiệu ấn tượng chung về Thuý Vân, đó là sự “trang trọng khác vời”, là vẻ đẹp

cao sang, quý phái. Những câu thơ tiếp theo lần lượt miêu tả từng nét đẹp cụ thể. Trong thiên nhiên có
bao nhiêu cái đẹp, Nguyễn Du chọn những cái đẹp nhất để so sánh với vẻ đẹp của Thúy Vân : trăng,
hoa, ngọc, mây, tuyết. Từ những hình ảnh miêu tả theo bút pháp ước lệ mà cụ thể đến từng chi tiết, có
thể hình dung ra một Thúy Vân với gương mặt đầy đặn, hiền dịu như vầng trăng tròn, lông mày sắc nét,
đậm như con ngài, mái tóc óng ả mượt hơn mây trời, làn da trắng hơn tuyết, miệng cười tươi thắm như
hoa, giọng nói trong như ngọc… Vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp cao sang mà phúc hậu. Bức chân
dung ấy ngầm thông báo về một tính cách hiền dịu, một số phận bình lặng, êm đềm.
3. Vẻ đẹp của Thuý Kiều hiện lên qua mười hai câu thơ :
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn :
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương, lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.
Câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật : “Kiều càng sắc sảo mặn mà”, tức là không chỉ đẹp
một cách “sắc sảo mặn mà”, mà còn “sắc sảo” về trí tuệ và “mặn mà” trong tình cảm. Câu thơ thứ hai
làm phép so sánh giữa Thúy Kiều và Thúy Vân : “So bề tài sắc lại là phần hơn”. Tuy “mỗi người một
vẻ”, nhưng Thúy Kiều đẹp hơn và có tài hơn Thúy Vân.
Ngòi bút Nguyễn Du tiếp tục sử dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ gợi tả sắc đẹp tuyệt
trần của Kiều, đẹp đến mức “hoa ghen”, “liễu hờn”, “nghiêng nước nghiêng thành”. Tả Kiều, nhà thơ
không liệt kê nhiều chi tiết như khi tả Vân, mà chỉ tập trung vào đôi mắt : đôi mắt đẹp, trong sáng long
lanh như làn nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân. Phải là đôi mắt, bởi đó là
nơi thể hiện tinh anh của trí tuệ và tâm hồn.
Tả Vân, nhà thơ chỉ gợi tả nhan sắc. Tả Kiều, tác giả dành ba câu thơ để tả sắc đẹp, lại dành đến

sáu câu thơ để nói về tài năng của nàng. Quả là “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Kiều thông minh
và có tài. Theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, một con người có tài năng phải giỏi “cầm, kì, thi, họa”
(đánh đàn, chơi cờ, làm thơ, vẽ tranh). Kiều đã đạt đến mức lí tưởng ấy. Đặc biệt, sở trường hơn người
của nàng là đánh đàn : “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nàng giỏi nhạc đến mức soạn riêng
cho mình khúc nhạc “bạc mệnh”. Tài năng âm nhạc bao giờ cũng gắn với vẻ đẹp tâm hồn. Cung đàn
“bạc mệnh” chính là sự thể hiện chân thực của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp cả sắc – tài – tình. Từ bức chân dung Thúy Kiều, người đọc đã có
thể dự cảm về một số phận không bình lặng. Nếu sắc đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với
23


chung quanh (mây thua, tuyết nhường) thì vẻ đẹp của Thúy Kiều lại khiến cho tạo hóa phải ghét ghen
(hoa ghen, liễu hờn). “Tạo hóa đố hồng nhan”, số phận Kiều sẽ gặp nhiều trái ngang, đau khổ.
C. Tổng kết :
Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả đặc sắc của ngòi bút Nguyễn Du trong “Truyện
Kiều, cho thấy đặc trưng của bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển : lấy vẻ đẹp thiên nhiên để miêu tả vẻ
đẹp con người. Đây cũng là một đoạn thơ giàu chất nhân văn, thể hiện ở thái độ trân trọng, đề cao, ca
ngợi vẻ đẹp của con người.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
“… Cũng như các thiếu nữ khác trong thi ca cổ điển, Thúy Kiều tượng trưng cho nhan sắc nữ
giới theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Quan niệm này dẫn đến khuynh hướng lí tưởng hóa hình thức
của nhân vật chính diện. Giống như Nhụy Châu trong “Song tinh bất dạ”, Quỳnh Như trong “Sơ kính
tân trang”, Bạch Hoa trong “Lí công”, Thúy Kiều là một giai nhân với “làn thu thủy, nét xuân sơn”…
kiều diễm vô song. Khác với Trương Chi “người thì thậm xấu, hát thì thậm hay”, khác với Sọ Dừa có
một tiền thân quái dị, những nhân vật chính diện trong “Truyện Kiều” – Thúy Kiều, Thúy Vân, Đạm
Tiên, Kim Trọng… đều phải là “nam thanh nữ tú” cả.
Là mẫu giai nhân lí tưởng, Thúy Kiều có dung mạo hoàn toàn giống với những bè bạn khác của
nàng như công chúa Nam Việt “môi son mắt phượng, má đào tốt tươi” (“Hoàng Trừu”), như Ngọc Hoa
“má đào mặt ngọc, tóc mây rườm rà” (“Phạm Tải Ngọc Hoa”)… Tuy nhiên, trong “Truyện Kiều” cũng
đã xuất hiện một bức “chân dung thiếu nữ” có thể đã khiến cho bao thế hệ nhà nho bối rối […].

Người phụ nữ phong kiến lí tưởng phải là con người “công, dung, ngôn, hạnh” toàn vẹn, và cũng
chỉ cần có như vậy. Ý thức hệ phong kiến không khẳng định khả năng lao động sáng tạo nói chung và
khả năng trí tuệ nói riêng của người phụ nữ. Chữ “tài”, chữ “trí” chỉ gắn liền với người quân tử, kẻ
trượng phu. “Phụ nhân nan hóa” (đàn bà khó cải hóa, khó giáo dục). Và từ nghìn năm qua, cửa Khổng
sân Trình – học đường phong kiến, đã đóng chặt cửa đối với nữ giới. Sự bồi dưỡng “cầm, thi” trong
một số gia đình quý tộc […] chỉ là những hoa lá để trang trí cuộc sống gia đình, để thực hiện tốt đẹp
đạo “tam tòng” của người phụ nữ. Những phương diện bồi dưỡng ấy không có gì khác biệt với mọi nữ
công nữ xảo khác :
Thập tam năng chức tố,
Thập tứ thiện tài y.
(Mười ba tuổi biết dệt lụa,
Mười bốn tuổi thạo cắt áo)
Nguyễn Du, ngược lại, đã thốt lên lời tiếc hận cho một tài năng sớm bị vùi dập khi Thúy Kiều tự
vẫn ở sông Tiền Đường :
Đành thân cát dập sóng vùi,
Tiếc công cha mẹ thiệt đời thông minh.
Khái quát về Thúy Kiều, Nguyễn Du thường hay viết “kiếp đoạn trường”, “phận hồng nhan” và
đồng thời cũng viết :
… Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
… Anh hoa phát tiết ra ngoài
… Tiếc công cha mẹ thiệt đời thông minh
“Đời thông minh”, “đời tài hoa” ! Biết bao trân trọng cảm thông và cũng biết bao phát hiện mới
mẻ trong một xã hội mà quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “Khôn ngoan cũng dễ đàn bà
– Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông” hầu như đã trở thành một chân lí bất khả xâm phạm ! Quan điểm
phong kiến chính thống chỉ có thể ngợi ca nhan sắc và đức hạnh chứ không thể khẳng định tài năng trí
tuệ của người phụ nữ. Điều đó xuất phát từ quan điểm áp bức và quan điểm hưởng thụ của giai cấp
phong kiến ! Ngược lại, trong các truyện nôm, nhiều nhân vật phụ nữ đồng thời là những trí tuệ kiệt
24



xuất […]. Cùng dòng tư tưởng, Nguyễn Du đã thể hiện nhận thức khẳng định tài hoa, trí tuệ có tính
chất sáng tạo của người phụ nữ thông qua hình tượng Thúy Kiều. Tài đàn có sức chinh phục tuyệt đối
của nàng dựa trên sự rung cảm có tính chất sáng tạo của người nghệ sĩ đứng trước mọi tình huống của
cảnh giới và tâm giới […].
Trong một thời đại có cả một khuynh hướng đề cao khả năng người phụ nữ trong văn học và
ngoài cuộc đời, […], hình tượng Thúy Kiều với tài hoa rực rỡ, trí tuệ thông minh như vậy mang một ý
nghĩa lãng mạn đẹp đẽ, đồng thời cũng là sự biểu hiện một nhận thức đi ngược lại với quan điểm chính
thống…”.
(Giáo sư Đặng Thanh Lê)

CẢNH NGÀY XUÂN
(Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Đoạn trích ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại và miêu
tả chị em Thúy Kiều, tác giả tả cảnh ngày xuân, chị em Thúy Kiều đi chơi xuân.
2. Đoạn thơ gồm ba phần :
+ Bốn câu đầu : gợi tả cảnh đẹp ngày xuân.
+ Tám câu tiếp : gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
+ Sáu câu cuối : cảnh chị em Thúy Kiều đi chơi xuân trở về.
Đoạn thơ được kết cấu theo trình tự thời gian của cuộc du xuân.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bốn câu đầu gợi tả khung cảnh thiên nhiên mùa xuân :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu đầu vừa nói thời gian vừa gợi không gian mùa xuân. Chim én là tín hiệu riêng của mùa
xuân. Hình ảnh “chim én đưa thoi” vừa gợi không gian mùa xuân, vừa ngầm ý ngày xuân trôi qua

nhanh quá, mới đó mà đã hết sáu mươi ngày xuân. Mùa xuân có ba tháng, lúc này đã là tháng ba. Trong
tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh chim én vẫn dập dìu bay liệng giữa bầu trời cao rộng, trong
sáng.
Hai câu sau là bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với những hình ảnh, màu sắc hài hòa. Làm nền
cho bức tranh xuân là màu xanh tươi mát bất tận của thảm cỏ non trải rộng đến chân trời. Trên nền màu
xanh non ấy điểm xuyết nhẹ nhàng mà nổi bật vài bông hoa lê trắng vô cùng thanh khiết. Cái hồn riêng
của mùa xuân hiện ra trong một không gian bao la, trong trẻo, cảnh vật tinh khôi, giàu sức sống. Hoa
cỏ vốn vô tri vô giác, nhưng chữ “điểm” đã làm cho cành hoa lê trở nên có hồn, hết sức sinh động.
2. Tám câu thơ tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh :
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang, gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.
Vào ngày Thanh minh, tiết đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, người ta đi tảo mộ (quét
tước, sửa sang lại phần mộ của người thân) nên có lễ tảo mộ. Mùa xuân cũng là dịp để đi chơi ở chốn
25


×