Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Truyện cổ tích tấm cám và truyện nôm tấm cám từ góc nhìn so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.77 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HUỆ

TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM
VÀ TRUYỆN NÔM TẤM CÁM TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan – người
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban Giám hiệu; Khoa
Ngữ Văn; Ban Chủ nhiệm; quý thầy cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến người thân, bạn bè đã giúp đỡ,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thiện
luận văn.
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2017
Tác giả luận văn


NGUYỄN THỊ HUỆ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2017
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ HUỆ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 8
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu........................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
6. Những đóng góp của luận văn ................................................................... 9
7. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................... 10
1.1. Vấn đề thể loại ...................................................................................... 10
1.1.1. Truyện cổ tích – khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm .................... 10
1.1.2. Truyện Nôm – khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm ....................... 21
1.2. Vấn đề văn bản...................................................................................... 27
1.2.1. Truyện cổ tích Tấm Cám............................................................... 27
1.2.2. Truyện Nôm Tấm Cám ................................................................. 29

Chƣơng 2. SO SÁNH CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT ............................ 32
2.1. So sánh về cốt truyện ............................................................................ 32
2.1.1. Khái niệm cốt truyện ..................................................................... 32
2.1.2. Sự tương đồng về cốt truyện ......................................................... 33
2.1.3. Sự khác biệt về cốt truyện ............................................................. 34
2.2. So sánh nhân vật ................................................................................... 44
2.2.1. Sự tương đồng về nhân vật ........................................................... 44
2.2.2. Sự khác biệt về nhân vật ............................................................... 45


Chƣơng 3. SO SÁNH CÁC MÔ TÍP ĐẶC TRƢNG .................................. 55
3.1. Mô típ mẹ ghẻ con chồng...................................................................... 55
3.1.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 55
3.1.2. So sánh mô típ ............................................................................... 56
3.2. Mô típ vật giao duyên ........................................................................... 59
3.2.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 59
3.2.2. So sánh mô típ .............................................................................. 60
3.3. Mô típ hóa thân ..................................................................................... 64
3.3.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 64
3.3.2. So sánh mô típ ............................................................................... 65
3.4. Mô típ vật gắn kết ................................................................................. 72
3.4.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 72
3.4.2. So sánh mô típ ............................................................................... 73
3.5. Mô típ thưởng – phạt............................................................................. 75
3.5.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 75
3.5.2. So sánh mô típ ............................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 82



1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian và văn học viết là hai dòng văn mạch chủ lưu hình
thành nên nền văn học của bất cứ quốc gia nào trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Văn học dân gian là bộ phận văn học truyền miệng, ra đời từ rất sớm,
được tập thể nhân dân sáng tác, lưu hành từ đời này qua đời khác. Văn học
viết là bộ phận văn học ra đời muộn hơn, khi đã có chữ viết, thường do một
cá nhân sáng tác và lưu truyền bằng các văn bản.
Như vậy, mặc dù cùng là sáng tác văn học nhưng văn học dân gian và
văn học viết vẫn có những nét khác biệt cơ bản về hoàn cảnh ra đời, phương
thức lưu truyền, đối tượng sáng tác… Những nét khác biệt đó sẽ chi phối
nhiều đặc điểm, đặc trưng riêng của từng bộ phận văn học. Tuy nhiên, ta
không thể phủ nhận mối quan hệ gắn bó qua lại, khăng khít giữa hai bộ phận
văn học này bởi trong suốt tiến trình văn học, chúng luôn tồn tại song hành,
bổ sung và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong mối quan hệ ấy, văn học dân
gian là cơ sở, là nền móng để văn học viết hình thành và phát triển. Văn học
viết cũng tiếp thu những tinh hoa của văn học dân gian trên các phương diện
như đề tài, chủ đề, thể loại, ngôn ngữ, thi liệu… để làm phong phú vốn sáng
tác của mình.
Trong các thể loại văn học dân gian, truyện cổ tích được coi là một thể
loại có giá trị đặc sắc và có sức hấp dẫn đặc biệt. Đó là thể loại tự sự dân gian,
ra đời sớm nhưng phát triển nở rộ trong xã hội phân chia giai cấp. Truyện cổ
tích phản ánh chân thực đời sống, ước mơ của nhân dân lao động trong thời
đại xã hội có sự phân chia giai cấp. Đó không chỉ là bức tranh về con người,
xã hội mà còn là nơi ông cha ta gửi gắm tâm tư tình cảm và những bài học
đạo đức sâu sắc giàu giá trị. Một trong những sáng tác tiêu biểu cho thể loại
này chính là truyện cổ tích Tấm Cám.



2
Truyện Nôm là thể loại văn học hình thành và phát triển khi xã hội đã
có bước phát triển vượt bậc. Chữ Nôm ra đời là sự khẳng định sức sáng tạo và
lòng tự cường của cha ông. Bên cạnh những truyện thơ Nôm nổi tiếng của các
tác giả như Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Hữu Hào, Phạm Thái… ta
thấy xuất hiện những truyện thơ Nôm bình dân lấy cốt truyện từ dân gian như
truyện Tấm Cám, truyện Thạch Sanh, truyện Tống Trân Cúc Hoa… đây đều
là các tác phẩm có giá trị cao cả về nội dung và nghệ thuật. Tác giả Kiều Thu
Hoạch coi đó một “hiện tuợng đặc biệt, độc đáo, khá phức tạp và lí thú”.
Nằm trong dòng chảy của những sáng tác này, truyện Nôm Tấm Cám thực sự
là tác phẩm mang nhiều ý nghĩa, góp phần tạo nên diện mạo của thể loại
truyện Nôm bình dân.
Như vậy, truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Tìm hiểu mối quan hệ này để thấy được
tương quan giữa hai tác phẩm nói riêng cũng như mối tương quan giữa văn
học dân gian và văn học viết nói chung. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn lựa đề
tài: Truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám từ góc nhìn so sánh.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử nghiên cứu truyện cổ tích Tấm Cám
Được xem là một trong những thể loại đặc sắc của loại hình tự sự dân
gian, truyện cổ tích lưu giữ trong nó những giá trị to lớn ở nhiều phương diện.
Vì thế, những vấn đề của truyện cổ tích, từ lâu cũng thu hút được sự quan
tâmcủa các nhà nghiên cứu. Ở Việt Nam, ngành “cổ tích học” cũng đã tồn tại
và phát triển hơn 50 năm.
Tấm Cám là truyện cổ tích mang những đặc trưng cơ bản của truyện cổ
tích thần kì và cũng là một trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam được
mọi lứa tuổi biết đến nhiều nhất. Các nhà folkore ở Việt Nam đã dành nhiều
thời gian sưu tầm và nghiên cứu truyện Tấm Cám. Truyện Tấm Cám được lưu



3
truyền trong nhân dân từ khá lâu, sau đó được các nhà folkore văn bản hóa
được gọi là bản kể. Trong đó, bản kể của tác giả Nguyễn Đổng Chi và Vũ
Ngọc Phan được sử dụng rộng rãi hơn cả.
Về vấn đề nghiên cứu, tác giả Đinh Gia Khánh với cuốn Sơ bộ tìm hiểu
những vấn đề của truyện cổ tích Tấm Cám (1968) đã tạo nên một góc nhìn có
tính chất toàn diện, sâu rộng về những vấn đề cơ bản của truyện cổ tích thông
qua một tác phẩm điển hình là truyện cổ tích Tấm Cám. Trong công trình này,
Đinh Gia Khánh đã đề cập đến vấn đề quan trọng của chuyên ngành “Cổ tích
học”, đó là tính dân tộc, tính quốc tế của truyện cổ tích nội dung đấu tranh xã
hội và phương pháp nghệ thuật trong truyện.
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam (Đinh Gia Khánh chủ biên,
2005), khi nghiên cứu về thể loại truyện cổ tích nói chung, các tác giả cũng
nhấn mạnh truyện cổ tích Tấm Cám như một tác phẩm điển hình, đặc trưng
cho thể loại này. Truyện Tấm Cám được tìm hiểu trên các phương diện như
quá trình sinh thành, phát triển không ngừng của truyện cổ tích gắn với quá
trình lưu truyền trong dân gian, do đó cốt truyện của truyện cổ tích Tấm Cám
có sự khác nhau giữa các bản kể: có những bản kể truyển cổ tích Tấm Cámkết
thúc ở chi tiết Tấm trả thù mẹ con Cám, một số bản kể khác lại gắn với thần
tích về Ỷ Lan thái hậu… Bên cạnh đó, về nội dung, truyện cổ tích là tấm
gương phản chiếu một cách phong phú và chân thật đời sống dân tộc mà
truyện cổ tích Tấm Cám là một tác phẩm điển hình. Tác giả cũng đi sâu tìm
hiểu nghệ thuật của thể loại truyện cổ tích nói chung thông qua một tác phẩm
tiêu biểu của thể loại là truyện cổ tích Tấm Cám…
Tác giả Chu Xuân Diên là người nghiên cứu khá sớm và sâu sắc về
truyện cổ tích Tấm Cám. Trong Văn học dân gian Việt Nam, tác giả đã đưa ra
những nhận định cơ sở tạo nền tảng cho việc nghiên cứu tác phẩm cùng với
đó là những chuyên luận, những bài báo khai thác cụ thể các vấn đề như Về



4
cái chết của mẹ con dì ghẻ trong truyện TấmCám… Như vậy,có thể thấy
truyện cổ tích Tấm Cám đã được nghiên cứu trên các phương diện: quá trình
hình thành, phát triển và lưu truyền trong dân gian, cốt truyện, nhân vật, nội
dung phản ảnh, nghệ thuật… Những nghiên cứu đó cho ta cái nhìn khá đa
chiều về tác phẩm này.
Tác giả Cao Thị Hà trong luận văn thạc sĩ (2012): Giải mã hệ biểu
tượng trong truyện cổ tích Tấm Cám và các truyện có mô típ tương đồng (Từ
góc độ ngôn ngữ - văn hóa) đã khảo sát hệ biểu tượng trong truyện cổ tích
Tấm Cám và các truyện có mô típ tương đồng, từ đó phân tích ý nghĩa của
một số biểu tượng đặc trưng. Việc giải mã hệ biểu tượng trong truyện Tấm
Cám đã trở thành “chìa khóa” để lí giải nhiều hiện tượng thú vị của truyện cổ
tích Tấm Cám nói riêng và thể loại truyện cổ tích nói chung.
Tấm Cám là một truyện cổ tích tiêu biểu, rất điển hình cho thể loại
truyện cổ tích thần kì Việt Nam. Vì vậy, truyện cổ tích Tấm Cám luôn giành
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Bên cạnh những nghiên cứu trên,
còn khá nhiều bài nghiên cứu về tác phẩm này. Có thể kể đến một số nghiên
cứu như: bài viết Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của nhân vật giao tiếp trong
truyện cổ tích Tấm Cám và một vài kết luận sư phạm của tác giả Lê Thị Kim
Cúc, Truyện cổ tích Tấm Cám và sự đánh tráo số phận con người; Mâu thuẫn
trong truyện Tấm Cám là giữa Tấm và Cám chứ không phải là giữa dì ghẻ
với con chồngcủa Nguyễn Tấn Đắc, Truyện cổ tích Tấm Cám nhìn từ góc độ
thể loại của Nguyễn Ngọc Lâm, Đổi mới cách đọc – hiểu đoạn kết Tấm Cám
của Lê Như Bình… Những công trình nghiên cứu về truyện cổ tích Tấm Cám
đã giúp chúng ta có được cái nhìn khá toàn diện về tác phẩm.
Như vậy có thể khẳng định, việc tìm hiểu những giá trị kết tinh trong
truyện cổ tích Tấm Cám đã được các nhà nghiên cứu quan tâm và dành nhiều
tâm huyết. Tuy nhiên, đặt tác phẩm trong tương quan so sánh với các tác



5
phẩm khác và đặc biệt với truyện Nôm Tấm Cám được mượn cốt truyện từ
truyện cổ tích Tấm Cám còn khá mờ nhạt.
2.2 Lịch sử nghiên cứu truyện Nôm và truyện Nôm Tấm Cám
Chữ Nôm là một trong những sáng tạo độc đáo, đặc sắc của cha ông ta
nhằm thoát khỏi sự gò bó, tính quy phạm và chính sách đồng hóa dân tộc của
phong kiến phương Bắc. Những sáng tạo ấy đã đạt đến đỉnh cao trong những
truyện thơ Nôm. Truyện Nôm trung đại Việt Nam mang đặc điểm khá phổ
biến đó là vay mượn cốt truyện của nước ngoài hoặc dựa trên cốt truyện dân
gian. Truyện Nôm Tấm Cám mượn cốt truyện từ truyện cổ tích, được viết
bằng chữ Nôm với những sáng tạo riêng của người viết. Chính vì vậy, lịch sử
nghiên cứu truyện Nôm Tấm Cám cũng nằm trong văn mạch nghiên cứu của
truyện Nôm nói chung và truyện Nôm bình dân nói riêng.
Trước năm 1945, các nhà nghiên cứu đã nhìn thấy giá trị to lớn của thể
loại này. Người có công mở đầu là tác giả Dương Quảng Hàm với công trình
Việt Nam văn học sử yếu (1941). Tiếp bước là các tác giả Nguyễn Đổng Chi,
Đào Duy Anh…
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, việc nghiên cứu truyện Nôm
được chú trọng hơn. Các công trình nghiên cứu được đầu tư kỹ lưỡng, các vấn
đề về nội dung, nguồn gốc, giá trị nghệ thuật… có chiều sâu hơn.
Về các vấn đề chung mang tính khái quát có thể kể đến công trình của
Lê Hoài Nam trong Lịch sử văn học Việt Nam (1965), Nguyễn Lộc trong Văn
học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX (1978), Kiều Thu
Hoạch với Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại (1992), Truyện Nôm
bình dân của người Việt – Lịch sử hình thành và bản chất thể loại (1996), …
hay các bài chuyên khảo như truyện Nôm khuyết danh – một hiện tượng đặc
biệt của Văn học Việt Nam của Bùi Văn Nguyên (Nghiên cứu văn học, số 71960), Một số vấn đề xã hội trong truyện nôm bình dân của Nguyễn Lộc(Tạp


6

chí văn học, số 4-1969)… Các tác giả đã tập trung vào các vấn đề thuộc thể
loại, đi sâu tìm ra và lý giải nguyên nhân, quá trình hình thành phát triển, từ
đó thấy được đặc điểm làm nên giá trị của truyện Nôm. Đây là cái nhìn bao
quát khá toàn diện và là bước đi định hướng đúng đắn để khai thác chiều sâu
nội tại tác phẩm.
Trong quá trình nghiên cứu, giá trị riêng của từng tác phẩm đã được
làm rõ qua một số công trình như Khảo luận về “truyện Thạch Sanh” của Hoa
Bằng (1956), Phạm Tải Ngọc Hoa, một truyện Nôm khuyết danh có giá trị
của Lê Hoài Nam (1960), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Lê Đình
Kỵ (1977), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của Đặng Thanh Lê (1979)…
Các công trình này đã tập trung cụ thể hóa vấn đề trong giới hạn phạm vi
nghiên cứu là tác phẩm. Hướng nghiên cứu này giúp người đọc tiếp cận có
chiều sâu vào văn bản.
Đặc biệt, công trình Truyện Nôm – lịch sử phát triển và thi pháp thể
loại của Kiều Thu Hoạch đã nghiên cứu chuyên sâu về thể loại trên các
phương diện như: chặng đường lịch sử nghiên cứu truyện Nôm, nguồn gốc và
lịch sử phát triển của thể loại truyện Nôm, thi pháp truyện Nôm, chức năng tư
tương – thẩm mỹ của truyện Nôm, truyện Nôm trong tương quan so sánh loại
hình với thể loại truyện thơ các dân tộc bản địa và khu vực… Đó là những
nghiên cứu quan trọng góp phần xác định nguồn gốc, bản chất cũng như đặc
trưng và thi pháp của thể loại này.
Qua quá trình tìm hiểu lịch sử nghiên cứu truyện Nôm chúng tôi nhận
thấy, truyện Nôm được nghiên cứu từ lâu, có những nghiên cứu chuyên sâu
góp phần tìm hiểu đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, những nghiên cứu tập trung
nhiều hơn vào các tác phẩm truyện Nôm bác học, còn vai trò và vị trí của
truyện Nôm bình dân chưa được quan tâm đúng mức. Truyện Nôm Tấm Cám
là một tác phẩm truyện Nôm bình dân có giá trị, tuy nhiên lại chưa có nhiều


7

nghiên cứu chuyên sâu về tác phẩm này. Đặc biệt, đặt truyện Nôm bình dân
nói chung và truyện Nôm Tấm Cám nói riêng trong tương quan so sánh với
tác phẩm sinh thành ra nó (những cốt truyện từ truyện cổ tích) lại chưa được
quan tâm nghiên cứu thỏa đáng.
2.3. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện cổ tích Tấm Cám và
truyện Nôm Tấm Cám
Văn học viết chịu ảnh hưởng từ văn học dân gian trên nhiều phương
diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Mối quan hệ giữa thể
loại truyện cổ tích trong văn học dân gian và truyện Nôm bình dân trong văn
học viết điển hình cho sự ảnh hưởng, mối quan hệ giữa hai bộ phận trong kho
tàng văn học dân tộc. Trong quá trình phát triển của văn học viết, có thể nói,
truyện Nôm bình dân chính là sự gặp gỡ của hai bộ phận văn học dân tộc, thể
hiện mối quan hệ sâu sắc, những ảnh hưởng đậm nét ở cả phương diện nội
dung và hình thức nghệ thuật.
Trong quá trình nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra mối
quan hệ giữa hai thể loại truyện cổ tích và truyện Nôm. Có thể điểm qua một
số công trình đã bước đầu đề cập, tìm hiểu sơ bộ về vấn đề này như Văn học
dân gian Việt Nam của Đinh Gia Khánh (chủ biên), Tiến trình văn học dân
gian Việt Namcủa Cao Huy Đỉnh…
Mối quan hệ giữa truyện Nôm với truyện cổ tích nói riêng và với văn
học dân gian nói chung không phải là đề tài mới mẻ. Tuy nhiên, những
nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thể loại này mới chỉ là những gợi mở
trong quá trình nghiên cứu về văn học dân gian nói chung chứ chưa phải
những bài viết, những công trình riêng biệt, chuyên sâu. Hơn thế nữa, đó chỉ
là những nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thể loại nói chung, còn về mối
quan hệ giữa truyện cổ tích và truyện Nôm qua từng tác phẩm cụ thể thì khá
mờ nhạt. Lựa chọn đề tài so sánh truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm


8

Tấm Cám, trên tinh thần kế thừa được thành quả nghiên cứu của những người
đi trước, tìm hiểu và khác thác kỹ lưỡng hơn những phương diện độc đáo, qua
đó thấy được mối liên hệ mật thiết giữa chúng.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tôi trong việc thực hiện đề tài này là chỉ ra những
nét tương đồng và dị biệt giữa truyện cổ tích Tấm Cám và truyện NômTấm
Cám trên một số phương diện cơ bản. Đồng thời, cũng mong muốn góp thêm
một tư liệu có ý nghĩa cho quá trình học tập và nghiên cứu truyện cổ tích Tấm
Cám và truyện Nôm Tấm Cám từ góc độ so sánh.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: So sánh truyện cổ tích Tấm Cám và truyện
Nôm Tấm Cám.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Tư liệu: Bản kể truyện cổ tích Tấm Cámcủa tác giả Vũ Ngọc Phan
(được in trong phần phụ lục cuốn Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ
tích qua truyện Tấm Cám của Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, 1968)và
Truyện Tấm Cám của nhà in Vĩnh Thịnh. Đây là văn bản cơ sở để hình thành
các tiêu chí so sánh trong luận văn này.
+ Nội dung: Khảo sát các phương diện cơ bản của hai tác phẩm: nhân
vật, cốt truyện và các mô típ đặc trưng. Đồng thời có những phân tích, đánh
giá cụ thể về hai tác phẩm từ góc nhìn so sánh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh.


9
6. Những đóng góp của luận văn

Với đề tài này, chúng tôi tiến hành thao tác so sánh một cách hệ thống
về hai tác phẩm: Truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám. Trên cơ
sở xác định những nét chung giữa hai tác phẩm, thấy được sự ảnh hưởng của
văn học dân gian tới các sáng tác truyện Nôm bình dân. Từ đó, có những đánh
giá khách quan, khoa học về quá trình phát triển của văn học. Bên cạnh đó,
những nét riêng biệt giữa chúng qua một số phương diện cụ thể, cũng cho ta
thấy được sức sáng tạo độc đáo của cha ông trong quá trình “làm mới” tác
phẩm văn học.
Đối với thực tiễn đời sống và giảng dạy, việc đặt hai tác phẩm dưới cái
nhìn đối sánh về một số phương diện như nhân vật, cốt truyện, môtíp đặc
trưng sẽ góp phần giúp giáo viên và học sinh hiểu tác phẩm truyện cổ tích
Tấm Cám trong một chỉnh thể toàn vẹn của quá trình tiếp biến văn học đồng
thời thấy được giá trị của truyện Nôm bình dân trong dòng chảy đó. Nét
tương đồng và dị biệt của hai tác phẩm còn là bài học sáng tạo quý báu của
cha ông để lại cho các tác giả trẻ muốn “làm mới những gì đã cũ” để tạo nên
một tác phẩm độc đáo của riêng mình.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung
Chƣơng 2: So sánh cốt truyện và nhân vật
Chƣơng 3: So sánh các mô típ đặc trƣng


10
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vấn đề thể loại
1.1.1. Truyện cổ tích – khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm

1.1.1.1. Khái niệm
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói chung và truyện dân
gian Việt Nam nói riêng, truyện cổ tích là lĩnh vực sáng tác rộng lớn, là thể
loại có số lượng tác phẩm phong phú, nội dung phản ánh đa dạng. Chính vì
vậy, quá trình nhận thức và nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam chưa bao
giờ là con đường đơn giản. Nghiên cứu về thể loại này, trước tiên cần tìm
được một định nghĩa phù hợp để xác định được những đặc trưng cơ bản của
thể loại.
Trong Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, nhà nghiên cứu
Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra những thuộc tính cơ bản, những đặc điểm bản chất
nhất của thể loại này. Theo ông, có thể nói “Truyện cổ tích là một loại truyện
kể dân gian ra đời từ thời kì cổ đại, gắn liền với quá trình tan rã của chế độ
công xã nguyên thủy, hình thành của gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp
trong xã hội; nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những hiện tượng có tính
phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung đột có tính chất
riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia đình và xã hội. Nó dùng một
thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là “tưởng tượng và hư cấu cổ
tích”) kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống
và mơ ước của nhân dân đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục và
giải trí của nhân dân trong những thời kì, những hoàn cảnh lịch sử khác nhau
của xã hội có giai cấp (ở nước ta chủ yếu là xã hội phong kiến)” [38, tr.42].


11
Truyện cổ tích vốn là thể loại tự sự dân gian có số lượng tác phẩm đồ
sộ, nội dung phản ánh rộng lớn và có giá trị nghệ thuật trong kho tàng văn học
dân gian Việt Nam. Chính vì vậy, về truyện cổ tích có được sự quan tâm đặc
biệt của các nhà nghiên cứu. Cũng đề cập đến về thể loại này, tác giả Nguyễn
Bích Hà trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam đưa ra định nghĩa:
“Truyện cổ tích là những truyện kể có yếu tố hoang đường kì ảo. Nó ra đời từ

sớm nhưng đặc biệt nở rộ trong xã hội có sự phân hóa giàu nghèo, tốt xấu.
Qua những số phận khác nhau của nhân vật, truyện trình bày kinh nghiệm
sống, quan niệm đạo đức, lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao động về một
xã hội công bằng,dân chủ, hạnh phúc” [14, tr.75].
Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, nhà nghiên cứu Lê Chí
Quế cũng định nghĩa về truyện cổ tích thông qua việc xác định những đặc
trưng cơ bản nhất của thể loại. Theo ông, “truyện cổ tích là sáng tác dân gian
trong loại hình tự sự mà thuộc tính của nó là xây dựng trên những cốt truyện;
truyện cổ tích là tác phẩm nghệ thuật được xây dựng thông qua sự hư cấu
nghệ thuật thần kỳ; truyện cổ tích là một thể loại hoàn chỉnh của văn học dân
gian, được hình thành một cách lịch sử...” [30, tr.107].
Có thể nói, định nghĩa về truyện cổ tích, mỗi nhà nghiên cứu đều cố
gắng khái quát những đặc trưng cơ bản nhất của thể loại trên các diện, từ quá
trình hình thành, phát triển, nội dung phản ánh và hình thức nghệ thuật của
truyện cổ tích. Khái quát lại, có thể hiểu: truyện cổ tích là những sáng tác văn
học thuộc loại hình tự sự dân gian, có cốt truyện hoàn chỉnh, phát triển nở rộ
trong thời kì xã hội có phân hóa giai cấp; truyện sử dụng những hư cấu nghệ
thuật với nhiều yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo; truyện hướng vào phản ánh những
mâu thuẫn trong lòng xã hội thời bấy giờ, đồng thời phản ánh ước mơ, khát
vọng của nhân dân về một xã hội hạnh phúc, công bằng.
Những định nghĩa trên cho chúng ta có những khái quát đầu tiên về thể
loại, cũng là cơ sở để xác định một số đặc trưng bản chất của thể loại này.


12
1.1.1.2. Nguồn gốc sinh thành và phát triển
Nghiên cứu một thể loại văn học dân gian, trước hết cần tìm về nguồn
cội, tìm về những điều kiện cho sự sinh thành, phát triển và nở rộ của thể loại.
Từ những định nghĩa về truyện cổ tích ở trên, ngược dòng lịch sử, có thể lí
giải nguồn gốc ra đời của thể loại này.

Trước hết, đó là thể loại văn học có quá trình hình thành và phát triển
dài lâu. Nói đến quá trình hình thành truyện cổ tích phải nhìn nó trong dòng
chảy của một thời kì lịch sử xã hội, khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã,
bước sang giai đoạn hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp trong
xã hội. Cùng với đó, sự phát triển của thể loại này còn phải kể đến nguyên
nhân tư tưởng, ý thức xã hội thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thể loại. Khi
con người sống trong thời kì “thơ ấu” được văn học dân gian phản ánh trong
thần thoại, khi con người chưa bị đặt vào những mối quan hệ đối kháng,
những mâu thuẫn liên quan đến lợi ích trong đời sống xã hội thì mối quan tâm
lớn nhất của cư dân thời đại đó là những vấn đề của đời sống tự nhiên. Vì vậy,
con người trong “thời đại thần thoại” chủ yếu phản ánh và lí giải các hiện
tượng tự nhiên trực tiếp chi phối đến đời sống con người lúc bấy giờ.
Khi xã hội bắt đầu hình thành và phân hóa giai cấp, khi đời sốngcó sự
phân chia giàu nghèo, từ đó cũng bắt đầu xuất hiện những xung đột, mâu
thuẫn. Trong thời đại đó, khi con người tiến lên một trình độ hiểu biết nhất
định, vượt lên việc lí giải những hiện tượng trong tự nhiên, con người hướng
vào đời sống xã hội, nhận thức và lí giải mối quan hệ giữa con người với con
người. Trong xã hội phân hóa giai cấp ấy, khi con người nhận thức được sự
bất công, người lao động hướng vào phản ánh những số phận nhỏ bé, bất hạnh
trong xã hội, từ đó cũng thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, lí tưởng và
đáng sống. Nguồn gốc và quá trình hình thành truyện cổ tích đã chi phối sâu
sắc đến đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật của thể loại.


13
1.1.1.3. Đặc điểm nội dung
Trong định nghĩa của nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu về truyện cổ
tích, từ đặc điểm quá trình hình thành và phát triển của thể loại, tác giả cũng
đã chỉ ra nội dung phản ánh chủ yếu của thể loại là “hướng vào những vấn đề
cơ bản, những hiện tượng có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt

là những xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi
gia đình và xã hội” [39, tr.42]. Truyện cổ tích sinh thành và phát triển trong
điều kiện xã hội đã có sự phân hóa giai cấp, tức là khi xã hội bắt đầu xuất hiện
những mâu thuẫn đối kháng, có liên hệ mật thiết đến quyền và lợi ích của mỗi
con người trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, nội dung cơ bản mà truyện cổ
tích phản ánh cũng là những vấn đề cơ bản trong đời sống thời bấy giờ, những
mâu thuẫn tồn tại trong một giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định.
Trước hết, nội dung cơ bản được phản ánh trong truyện cổ tích là
những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội. Ra đời khi xã hội công xã
nguyên thủy tan rã và hình thành gia đình phụ quyền, xã hội có sự phân chia
giai cấp, tầng lớp, nội dung phản ánh của truyện cổ tích gắn chặt với quá trình
lịch sử dài lâu đầy biến động ấy. Bước sang một giai đoạn lịch sử mới, con
người trong cổ tích ngỡ ngàng trước bao điều mới lạ, bao mối quan hệ xã hội
phức tạp, bao mâu thuẫn đối kháng trong gia đình và xã hội. Vì vậy, nội dung
trước tiên mà truyện cổ tích phản ánh là những mâu thuẫn, xung đột cơ bản,
có tính chất riêng tư và phổ biến trong gia đình và xã hội.
Muốn hiểu ra và lí giải quan niệm của tác giả dân gian khi xây dựng
nhân vật trong truyện cổ tích, cần đặt kiểu truyện này vào quá trình lịch sử đã
sản sinh ra nó và môi trường văn hóa đã nuôi dưỡng thể loại. Những mâu
thuẫn anh cả - em út, chị gái – em gái, mẹ ghẻ - con chồng, con đẻ - con nuôi
hay những bi kịch về hôn nhân và gia đình… là những xung đột có tính chất
riêng tư trong xã hội có giai cấp. Mặc dù đó là xung đột riêng tư nhưng lại là


14
những xung đột phổ biến trong đời sống. Cho dù, “Trong thực tế, không phải
cứ là anh cả mẹ kế thì tham lam xấu bụng, độc ác, còn những người em, những
người con chồng thì luôn luôn là người hiền lành, hiếu thảo” [39, tr.69].
Nhưng rõ ràng, quan niệm thẩm mĩ trong xây dựng nhân vật của tác giả
truyện cổ tích gắn chặt với tư tưởng phản kháng trước những bất công, vô lí

của gia đình phụ quyền, tư tưởng phân biệt con trường, con thứ… Chính vì
vậy, truyện cổ tích tập trung miêu tả, phản ánh và lí giải những mâu thuẫn có
tính chất riêng tư và phổ biến trong gia đình và xã hội phụ quyền: “Truyện cổ
tích chưa đi vào số phận riêng của từng cá nhân trong xã hội mà chú ý đến số
phận chung của những lớp người, những loại người khác nhau trong hàng
ngũ nhân dân, trước hết là những loại người bị đối xử bất công trong gia
đình phụ quyền” [39, tr.70].
Những mâu thuẫn, xung đột đối kháng trong xã hội có giai cấp là điều
con người chưa từng biết ở chế độ mẫu hệ trong lòng xã hội công xã nguyên
thủy. Sang một giai đoạn lịch sử mới, một hình thái xã hội mới, những mâu
thuẫn ấy là vấn đề cơ bản đầu tiên mà tác giả dân gian muốn phản ánh trong
truyện cổ tích, cũng là một nội dung rất quan trọng của thể loại truyện kể này.
Xét về mặt lịch sử, xã hội có giai cấp là một bước tiến vĩ đại, tuy nhiên, trong
xã hội ấy cũng tồn tại vô vàn bất công như những mẫu thuẫn, xung đột được
phản ánh trong truyện cổ tích đã nói ở trên. Hoàng Tiến Tựu đã nhận xét:
“Cái đầu tiên, mà cũng là cái lớn nhất mà tuyệt đại đa số nhân dân đã bị
tước mất, đó là quyền dân chủ bình đẳng – một thứ nhân quyền cơ bản và tối
thiểu của con người mà nhân dân đã từng được hưởng tuy rằng ở một trình
độ thấp – trong thời kì công xã nguyên thủy” [39, tr.71].
Trong một điều kiện lịch sử - xã hội như vậy, việc truyện cổ tích phản
ánh ước mơ, khát vọng của nhân dân lao động về một xã hội công bằng, lí
tưởng, người với người bình đẳng với nhau là điều hợp lí. Để thể hiện khát


15
vọng ấy, truyện cổ tích hướng vào những xung đột mà ở đó những người em
út, con riêng… thường là những người phải chịu áp bức, thiệt thòi hơn cả.
Mặc dù đó không phải là tuyệt đại đa số quy luật trong đời sống thực tế nhưng
thông qua hình tượng những nhân vật mồ côi, con riêng, em út đó, tác giả dân
gian muốn thể hiện một quan niệm thẩm mĩ cũng như một những phản kháng

trước sự bất công của xã hội phân hóa giai cấp.
Truyện cổ tích xây dựng hình tượng những nhân vật bề dưới, những
người con riêng, người em út, những đứa trẻ mồ côi phải chịu nhiều thiệt thòi,
bất hạnh nhưng vẫn luôn sống lương thiện, hiền lành, tốt bụng, hiếu thảo,
thủy chung, chịu thương chịu khó… Vì thế,“Trong đa số truyện cổ tích thần
kì, những nhân vật “đàn em”, “bề dưới” thường được nhìn nhận, miêu tả như
những con người đẹp nhất trong gia đình cũng như xã hội, những con người
mẫu mực, lí tưởng của nhân dân” [39, tr.72]. Nhân dân ta trong xã hội có
phân chia giai cấp chứa đựng muôn vàn bất công ấy muốn hướng đến xây
dựng một xã hội lí tưởng, nơi mà không còn người bóc lột người, không còn
áp bức, bất công, không còn những số phận bất hạnh của những người con
riêng, em út hay mồ côi. Tuy nhiên, điều kiện lịch sử không cho phép nhân
dân hiện thực hóa ước mơ ấy vào hiện thực cuộc sống. Cũng chính vì vậy,
trong truyện cổ tích – đặc biệt là cổ tích thần kì – cần có sự tham gia của các
yếu tố kì ảo để giải quyết xung đột và thể hiện ước mơ, khát vọng của nhân
dân lao động khi mà điều kiện thực tế chưa thể và không thể thỏa mãn được
những lí tưởng ấy.
Một nội dung khác được phản ánh trong truyện cổ tích là triết lí sống
và đạo lí làm người của nhân dân lao động. Nhân vật chính diện như người
con riêng, người em út, người mồ côi… dẫu trong hoàn cảnh đọa đầy và bất
hạnh thì vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người Việt Nam
truyền thống: hiếu thảo, cần cù, chịu thương chịu khó, thủy chung, nghĩa


16
tình… Có thể nói, “lạc quan, yêu đời, ham sống và yêu thương quý trọng con
người, đó chính là phần cốt lõi nhất của triết lí sống và đạo lí làm người của
nhân dân ta ở trong truyện cổ tích” [39, tr.75].
Tinh thần lạc quan là một đặc trưng rất nổi bật trong triết lí sống của
nhân dân lao động được phản ánh trong truyện cổ tích. Đa phần truyện cổ tích

đều kết thúc có hậu – đó được coi là một biểu hiện của tinh thần lạc quan của
tác giả dân gian. Tuy nhiên, đó không phải là biểu hiện duy nhất, cũng chưa
phải là biểu hiện cao nhất của tình cảm cao đẹp này. Nhìn sâu hơn vào những
gì mà tác giả dân gian muốn phản ánh trong truyện cổ tích, có thể thấy rằng
nhiều truyện cổ tích mặc dù không kết thúc có hậu nhưng ở đó vẫn chan chứa
tinh thần lạc quan và niềm vui sống, vẫn cho người đọc những rung cảm thẩm
mĩ cao đẹp, vẫn hướng trái tim con người đến những điều cao thượng và tốt
đẹp: “Rất nhiều truyện cổ tích có kết cục bi thảm, các nhân vật chính diện
đều phải chết hoặc ra đi biệt tích nhưng tinh thần lạc quan vẫn tỏa sáng, vì
những cái chết hoặc sự ra đi biệt tích của các nhân vật chính diện chỉ càng
làm tăng thêm niềm tin và sự khẳng định đối với phẩm chất cao đẹp của con
người chân chính” [39, tr.76].
Từ tinh thần lạc quan trong cổ tích, nhân dân lao động còn muốn hướng
đến những giá trị nhân sinh cao cả, những bài học đạo đức, bài học làm người.
Đạo đức ấy vừa là đạo đức thực tiễn, nhưng đồng thời cũng là đạo đức trong
ước mơ của nhân dân. Xây dựng những hình tượng nhân vật cần cù, chịu khó,
thủy chung, hiếu thảo, hào hiệp quên mình đến mức khó có thể có được trong
thực tế cuộc sống chính là đạo đức lí tưởng mà nhân dân hằng mơ ước. Mỗi
câu chuyện dân gian là một bài học đạo đức, hoặc lồng vào đó những triết lí
đạo đức nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, giáo dục con người sống lạc quan, yêu đời,
nhân ái, thủy chung… Cũng chính nhờ giá trị đạo đức sâu sắc ấy mà truyện cổ
tích có được vị trí quan trọng trong kho tàng văn học dân gian cũng như sức
sống trường tồn trong đời sống nhân dân – môi trường đã sản sinh ra thể loại.


17
1.1.1.4. Đặc điểm nghệ thuật
Truyện cổ tích là một thể loạiđặc sắc trong kho tàng văn học dân gian
với một số lượng tác phẩm rất lớn cũng như giá trị nghệ thuật đặc sắc. Phân
loại truyện cổ tích là một vấn đề cần thiết khi nghiên cứu thể loại này. Nhìn

chung, cách phân loại truyện cổ tích phổ biến và được sự đồng tình cao từ
giới nghiên cứu là cách phân loại truyện cổ tích dựa theo đề tài và phương
pháp sáng tác. Theo đó, truyện cổ tích được phân chia thành ba tiểu loại:
truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích sinh hoạt.
Trong thể loại truyện cổ tích, bên cạnh những điểm chung, mỗi bộ phận
truyện cổ tích có đề tài và phương pháp sáng tác, phương pháp chiếm lĩnh và
phản ánh hiện thực riêng biệt. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập
trung đi sâu, làm rõ hơn những nét nổi bật của truyện cổ tích thần kì - bộ
phận có số lượng truyện kể đồ sộ, nội dung phản ánh phong phú cũng như
giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất – mà Tấm Cám là một ví dụ tiêu biểu của
tiểu loại này.
Nếu đối tượng phản ánh và chiếm lĩnh trong thần thoại là các hiện
tượng trong đời sống tự nhiên thì đối tượng phản ánh, miêu tả trong truyện cổ
tích lại là đời sống xã hội của con người, cụ thể là những mâu thuẫn, xung đột
trong giai đoạn xã hội phân chia giai cấp. Nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu
nhận xét: “Xét về đối tượng miêu tả, phản ánh thì bao giờ truyện cổ tích thần
kì cũng hướng về những nhân vật và những xung đột xã hội của con người, đó
là trung tâm, là đối tượng chủ yếu. Các nhân vật thần kì dù nhiều hay ít,
mạnh hay yếu đều không phải và không thể là đối tượng chính của truyện cổ
tích thần kì” [39, tr.57]. Nói như vậy có nghĩa là, đối tượng chủ yếu mà
truyện cổ tích thần kì hướng đến vẫn là con người và những xung đột trong
đời sống con người, chính vì vậy các nhân vật thần kì có thể xuất hiện với vai
trò đậm hay nhạt nhưng không phải là đối tượng chủ yếu mà truyện cổ tích


18
thần kì muốn phản ánh. Để thể hiện cho ý đồ nghệ thuật ấy, các tác giả dân
gian bao giờ cũng lựa chọn một hình thức nghệ thuật phù hợp để phản ánh nội
dung đó. Chẳng hạn, trong truyện cổ tích, tên tác phẩm luôn là tên của con
người (như truyện Thạch Sanh, Tấm Cám, Chử Đồng Tử…) hoặc hướng về

thế giới loài người (như truyện Sự tích trầu cau, Cây khế…).
Trong quá trình phản ánh và chiếm lĩnh đời sống của bộ phận truyện kể
này, yếu tố thần kì là một phương tiện nghệ thuật không thể thiếu. Yếu tố thần
kì trong truyện cổ tích thần kì là phương tiện và phương pháp giải quyết
những mâu thuẫn, xung đột giữa con người với con người trong đời sống xã
hội. Ở truyện cổ tích, nhân vật chính diện thường rất thụ động và ở vào những
hoàn cảnh khó khăn, thử thách. Nếu không có sự trợ giúp của một lực lượng
siêu nhiên qua những yếu tố thần kì thì mạch phát triển chung của câu chuyện
sẽ rơi vào bế tắc. Vì vậy, yếu tố thần kì ở đây có vai trò vô cùng quan trọng,
là phương tiện và phương pháp để giải quyết những mâu thuẫn trong lòng xã
hội có sự phân chia giai cấp.
Tuy nhiên, như đã nói, đối với truyện cổ tích thần kì thì bao giờ con
người và những gì thuộc về thế giới cũng là đối tượng miêu tả, phản ánh
chính của câu chuyện. Vì vậy, sự xuất hiện của yếu tố thần kì phải đặt vào
hoàn cảnh, mạch phát triển chung của câu chuyện trong thế giới loài người và
nó chỉ có ý nghĩa khi con người thực sự cần đến một lực lượng siêu nhiên bên
ngoài để giải quyết mâu thuẫn đã đi đến tận cùng của sự bế tắc: “Lí do xuất
hiện và tồn tại của các nhân vật thần kì trong truyện cổ tích không thể tìm
thấy ở bản thân chúng mà phải tìm ở các nhân vật là người, nhất là các nhân
vật chính diện” [39, tr.58].
Một yếu tố nữa khẳng định truyện cổ tích thần kì – mặc dù yếu tố thần
kì là phương tiện nghệ thuật quan trọng – nhưng con người và đời sống con
người vẫn là đối tượng phản ánh chủ yếu là sự xuất hiện. Khi mâu thuẫn,


19
xung đột đến độ cao trào, yếu tố thần kì xuất hiện để giải quyết vấn đề, giúp
cho câu chuyện tiếp tục phát triển. Khi mâu thuẫn được giải quyết, các lực
lượng thần kì khi đã làm hết sứ mệnh của mình lại rút lui để nhường chỗ cho
chuyện đời diễn ra theo quy luật, theo logic nội tại của nó. Trong truyện cổ

tích, nhân vật chính diện thường thụ động và bị đặt vào những tình huống
nguy hiểm không chỉ một lần mà có thể nhiều lần. Bao nhiêu lần nhân vật
chính diện rơi vào hoàn cảnh bế tắc không thể giải quyết là bấy nhiêu lần lực
lượng thần kì xuất hiện để giải quyết mâu thuẫn, đảm bảo cho câu chuyện tiếp
tục phát triển. Như vậy, sự xuất hiện của các lực lượng thần kì ở mỗi truyện
cổ tích có thể đậm nhạt, nhiều ít khác nhau song đều chịu sự chi phối quyết
định từ logic nội tại của đời sống con người, của cõi đời thực. “Yếu tố kì diệu,
siêu nhiên chính là một thủ pháp nghệ thuật gắn với nội dung lãng mạn của
truyện. Tác giả dân gian cũng như thính giả dân gian để cho trí tưởng tượng
bay bổng theo những sự kiện kì diệu ở trong truyện không phải vì thực tâm tin
– ít ra thì cũng không hoàn toàn tin – rằng những sự kiện đó là có thực nhưng
chủ yếu là vì những sự kiện đó cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề mà
thực tế cuộc sống trong xã hội cũ chưa cho phép giải quyết hoàn toàn như ý
muốn, như ước vọng của nhân dân” [20, tr.347]. Các yếu tố thần kì có thể
xuất hiện dưới nhiều hình thức như nhân vật thần kì (Bụt, Tiên…), đồ vật
thần kì (cung thần, niêu cơm thần, túi ba gang…) hay sự biến hóa thần kì
(những lần hóa thân của Tấm…). Dù xuất hiện dưới hình thức nào thì đó đều
là phương tiện, là cách thức để tác giả dân gian giải quyết những mâu thuẫn
trong hoàn cảnh bế tắc mà logic của cõi đời thực không thể làm được.
Yếu tố thần kì là phương tiện nghệ thuật của truyện cổ tích thần kì.
Nhưng không riêng ở truyện cổ tích thần kì mới có sự xuất hiện của yếu tố
thần kì. Cần căn cứ vào vai trò của yếu tố thần kì trong quá trình giải quyết
xung đột, mâu thuẫn của truyện để xác định chính xác các tiểu loại của truyện


20
cổ tích: “Khi các yếu tố thần kì không tham gia vào việc giải quyết những
xung đột cơ bản trong truyện mà chỉ góp phần làm tăng thêm tính chất li kì
hấp dẫn của câu chuyện thì đó chính là dấu hiệu của truyện cổ tích sinh hoạt,
chứ không còn là cổ tích thần kì nữa” [39, tr.59].

Để cho câu chuyện diễn biến và phát triển, bao giờ cũng cần một bối
cảnh không gian và thời gian. Tác giả dân gian đã sáng tạo ra một thế giới cho
những nhân vật, những lực lượng thần kì trong truyện cổ tích. Đó không phải
là thế giới trong cõi đời thực, nhưng cũng không hoàn toàn là thế giới thần
linh như trong thần thoại ở giai đoạn trước: “Đó là một thế giới riêng,“thế
giới của truyện cổ tích tồn tại trong trí tưởng tượng của người kể và người
nghe truyện cổ tích” [39, tr.59]. Đó là thế giới mênh mông bao gồm nhiều
tầng, nhiều cõi, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cuộc sống của con người ở
cõi trần. Cõi đời thực cũng là thế giới quy định và chi phối mọi diễn biến
chính của câu chuyện, tất nhiên để câu chuyện ở cõi trần phát triển thì cần sự
tham gia giải quyết mâu thuẫn của các lực lượng thần kì. Thế giới trong
truyện cổ tích phản ánh thế giới quan của tác giả truyện cổ tích với nguyên tắc
chung thống nhất là “dùng tưởng tượng và hư cấu để nối liền hiện thực với lí
tượng, nối liền cõi trần với cõi tiên, con người với thần thánh… tạo thành một
thể thống nhất. Dĩ nhiên đó chỉ là một sự thống nhất ảo tưởng, nhưng nó đã
thực sự tồn tại như một thực thể vốn có và cần phải có trong quan niệm và
niềm tin của tác giả truyện cổ tích” [39, tr.60]. Vì vậy, không thể hiểu và lí
giải tư duy cổ tích nếu không đặt tác phẩm trong từ trường của thế giới
quan cổ tích. Những điều tưởng chừng như vô lí ở cõi đời thực (không gian
nhiều tầng nhiều cõi, các lực lượng thần kì xuất hiện và biến mất trong câu
chuyện, thời gian khi trôi nhanh, khi lại như ngưng đọng…) nhưng lại hợp
lí với thế giới quan trong tưởng tượng của người kể và người nghe truyện cổ
tích thần kì.


×