Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phát triển loại hình du lịch sinh thái tại khu du lịch Bán Đảo Sơn Trà Thành Phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.3 KB, 110 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới hiện nay gặp nhiều khó khăn nhưng
nhu cầu về du lịch không ngừng tăng lên. Con người muốn tìm đến với cảnh vật
thiên nhiên, cảnh vật hoang dã, để tận hưởng không khí trong lành, tìm hiểu những
nét sinh hoạt của người dân bản địa,… Do đó, nhu cầu du lịch sinh thái (DLST) của
người dân ngày càng phát triển. Đây là dấu hiệu đầy hứa hẹn về sự phát triển ngành
du lịch trong tương lai. Cùng với xu thế du lịch quốc tế đang phát triển mạnh mẽ
trên toàn cầu, ngành du lịch Việt Nam đã và đang phát triển các loại hình du lịch
sinh thái trên cả nước.
Trong khi đó bán đảo Sơn Trà có tiềm năng du lịch rất lớn, là “một bán đảo
có đầy đủ tiềm năng để trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng trên thế giới nếu có
được một quy hoạch khoa học, lâu dài và sự đầu tư tương xứng” (Tiến sĩ Erich
Kaub, Tập đoàn ĐT&PT du lịch quốc tế Gato, Đức) nhưng trong thời gian qua việc
nghiên cứu để phát triển các loại hình dịch vụ du lịch tại đây vẫn chưa được quan
tâm đúng mức; hầu như chỉ mới tập trung cho việc hình thành các khu du lịch. Vì
vậy việc tiến hành nghiên cứu phát triển loại hình du lịch tại Sơn trà để tạo ra nhiều
sản phẩm du lịch mới hấp dẫn, cuốn hút và lôi kéo du khách ở lưu trú lâu hơn với
thành phố Đà Nẵng là cần thiết và cấp bách.
Một lý do nữa để phát triển du lịch sinh thái tại bán đảo Sơn Trà còn góp
phần quan trọng cho định hướng phát triển kinh tế, đảm bảo lợi ích của cộng đồng
địa phương vốn bị coi là còn nghèo nàn tại bán đảo Sơn Trà đồng thời gắn với đảm
bảo an ninh quốc phòng.
Trước những vấn đề còn hạn chế trong việc phát triển loại hình du lịch sinh
thái tại đây với mong muốn khai thác một cách tối ưu tiềm năng du lịch tại bán đảo
Sơn Trà nhằm phát triển kinh tế xã hội với bảo vệ tốt tài nguyên thiên nhiên, tài
nguyên môi trường biển, đảm bảo phát triển bền vững.
Chính vì những lí do trên, tôi chọn đề tài “PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU
LỊCH SINH THÁI TẠI KHU DU LỊCH BÁN ĐẢO SƠN TRÀ THÀNH PHỐ ĐÀ


NẴNG” cho luận văn tốt nghiệp của mình.


2

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu đề tài là hệ thống hóa cơ sở lý luận, phân tích tiềm
năng, thế mạnh của loại hình DLST, thực trạng phát triển loại hình du lịch sinh thái
tại bán đảo, cơ hội và thách thức trong việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái
tại bán đảo, từ đó xây dựng các giải pháp nhằm phát triển các loại hình du lịch sinh
thái tại bán đảo Sơn Trà.
Mục đích cụ thể là:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về du lịch sinh thái
- Phân tích những nguồn lực phát triển loại hình du lịch sinh thái tại khu du
lịch sinh thái bán đảo Sơn Trà.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái
tại bán đảo Sơn Trà theo hướng bền vững.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ quan trọng của đề tài là tập trung nghiên
cứu và làm rõ các vấn đề sau:
- Lý luận về du lịch sinh thái, phát triển bền vững. Đây là những vấn đề lý
luận làm căn cứ cho việc phát triển du lịch sinh thái tại Bán Đảo Sơn Trà.
- Phân tích đầy đủ các nguồn lực phát triển du lịch sinh thái tại Bán Đảo
Sơn Trà.
- Thực trạng hoạt động du lịch tại Ban Quản lý bán đảo Sơn Trà.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái tại bán đảo Sơn
Trà.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển loại hình du lịch sinh thái tại
bán đảo Sơn Trà bao gồm các điều kiện phát triển du lịch sinh thái trên cạn và dưới

nước tại tại bán đảo.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nhằm xác định cụ thể nội dung của đề tác giả nghiên
cứu bán đảo thông qua Ban Quản Lý Bán Đảo Sơn Trà và các bãi biển du lịch Đà


3

Nẵng để làm số liệu nghiên cứu cho đề tài của mình.
- Phạm vi về không gian:
+ Bán đảo Sơn Trà: Bao gồm khu du lịch sinh thái tại bán đảo Sơn Trà như:
khu du lịch sinh thái Trường Mai, bãi biển Tiên Sa, Bãi Bắc, Bãi Nam, Bãi Bụt, Bãi
Đá…
- Phạm vi về thời gian: Số liệu thống kê, và các vấn đề liên quan được sử
dụng từ năm 2007 đến năm 2010 tại Ban Quản lý Bán Đảo Sơn Trà và các bãi biển
du lịch Đà Nẵng.
Về không gian: Nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi bán đảo Sơn Trà
trong đó trọng tâm là phát triển các loại hình du lịch sinh thái trên cạn và dưới nước
đã được khai thác. Đề tài nghiên cứu trường hợp điển hình là phát triển loại hình du
lịch sinh thái nhưng những thực thể không thể tách rời là các bãi biển, Nghĩa địa YPha-Nho, Trạm phát sóng DRT, Nhà Vọng cảnh 1, sân bay trực thăng cũ, Đỉnh bàn
cờ, Bách niên Đại Thụ Đa… cũng được tác giả đưa vào không gian và đối tượng
nghiên cứu của mình.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu thứ cấp
Để có được cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu, luận văn đã thu thập các
thông tin, các dữ liệu cơ bản từ các nguồn nghiên cứu về du lịch sinh thái, các quan
điểm về phát triển bền vững, các tài liệu liên quan đến bán đảo Sơn Trà. Sau đó tiến
hành phân tích dữ liệu, đánh giá tổng hợp rồi đưa ra những kết luận có căn cứ.
- Phương pháp nghiên cứu là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Các phương pháp cụ thể được vận dụng là:

Tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo hệ thống, từ đơn giản đến phức tạp, từ sơ bộ
đến chi tiết. Sau đó tiến hành nghiên cứu kỹ về mặt lý thuyết và thực tiễn bằng các
nguồn tài liệu ở thư viện, Ban Quản lý bán đảo Sơn Trà và một số nguồn khác. Bên
cạnh đó, một số nội dung không có điều kiện thu thập được đầy đủ thông tin thì sử
dụng phương pháp phân tích và suy luận logic, lấy ý kiến chuyên gia.


4

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn đã phân tích, đánh giá tình hình thực trạng, kết hợp với những đề
xuất về môi trường phát triển du lịch sinh thái trong tương lai, đề phát triển loại
hình du lịch sinh thái tổng thể tại bán đảo sao cho phù hợp với điều kiện hiện tại.
Những đề xuất của đề tài có thể dùng tham khảo cho các nhà quản trị của ban quản
lý và những nhà đầu tư du lịch quan tâm.
6. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch sinh thái và phát triển loại hình du lịch
sinh thái.
Chương 2: Thực trạng phát triển loại hình du lịch sinh thái tại khu du lịch
Bán đảo Sơn Trà Thành Phố Đà Nẵng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch sinh thái tại
khu du lịch Bán đảo Sơn Trà Thành Phố Đà Nẵng.


5

CHƯƠNG 1


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH SINH THÁI VÀ
PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH SINH THÁI
1.1. DU LỊCH SINH THÁI
1.1.1. Định nghĩa du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã mau
chóng thu hút được sự quan tâm của xã hội trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đây là
một khái niệm rộng, được hiểu khác nhau theo những góc độ khác nhau. Hiện nay,
trên thế giới cũng như ở Việt Nam có nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch sinh
thái, xong nhìn chung đề có những điểm giống nhau trong việc làm nổi bật bản chất
của loại hình du lịch này là ”Chỉ có du lịch dựa vào thiên nhiên, được quản lý bền
vững, hỗ trợ bảo tồn và có giáo dục môi trường”
Theo định nghĩa của hiệp hội du lịch sinh thái quốc tế: Du lịch sinh thái là
việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường
và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương.
Tại hội thảo quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở
Việt Nam” năm 1999 đã đưa ra định nghĩa về du lịch sinh thái: “Du lịch sinh thái là
loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi
trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia
tích cực của cộng đồng địa phương”. [01, tr 79 – 80]
Nhìn chung, có thể coi du lịch sinh thái là một quan điểm du lịch theo hướng
bền vững, lựa chọn những mặt tích cực của một số loại du lịch, và có thể biểu diễn
bằng sơ đồ kết hợp giữa các thành phần du lịch thiên nhiên và văn hóa bản địa, du
lịch ủng hộ bảo tồn, du lịch có giáo dục môi trường và du lịch hỗ trợ cộng đồng
DLST còn có thể được biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau:
- Du lịch dựa vào thiên nhiên (Natural – based tourism)
- Du lịch môi trường (Environmental tourism)
- Du lịch xanh (Green tourism)
- Du lịch có trách nhiệm (Responsible tourism)



6

- Du lịch bền vững (Sustainable tourism)

Du lịch thiên nhiên
và văn hóa bản địa

Du lịch ủng hộ
bảo tồn

Du lịch

Du lịch sinh
thái

Du lịch có giáo dục
môi trường

Du lịch hỗ trợ cộng
đồng địa phương

Hình 1.1. Mô hình cấu trúc du lịch sinh thái
Nguồn: Phạm Trung Lương, Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam 2002
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của du lịch sinh thái
- DLST Là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên về văn hoá bản địa.
- Các đơn vị liên quan tham gia vào DLST có trách nhiệm tích cực bảo vệ
môi trường sinh thái, giảm thiểu tác động tiêu cực của du lịch đối với môi trường và
văn hoá.
- Các phương tiện phục vụ DLST gồm: các trung tâm thông tin, đường mòn
tự nhiên, cơ sở lưu trú, ăn uống sinh thái, các tài liệu in ấn khác.

- Các hướng dẫn viên vừa thực hiện chức năng thuyết minh giới thiệu, vừa
giám sát các hoạt động của du khách.
- Thông qua hoạt động DLST, du khách được giáo dục và nâng cao nhận
thức và ý thức tôn trọng về môi trường thiên nhiên, nền văn hóa dân tộc.


7

- Hoạt động DLST phải đem lại lợi ích về kinh tế -xã hội cho cộng đồng địa
phương, thu hút người dân địa phương tham gia bảo vệ môi trường. [03, tr 27 - 28 ]
* Lưu ý: Phát triển DLST bền vững cần bảo đảm kết hợp hài hoà lợi ích của
4 bộ phận quan trọng tham gia: Khách du lịch sinh thái; Các nhà tổ chức điều hành
du lịch sinh thái; Các nhà quản lý khu bảo tồn; Dân cư địa phương.
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái
- Nâng cao hiểu biết cho du khách về môi trường tự nhiên; du khách có các
hoạt động góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường, bản sắc văn hoá.
- Khách DLST chấp nhận điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh tự nhiên với những
hạn chế của nó.
- Tạo thêm việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.
- Lượng du khách luôn kiểm soát điều hoà.
- Phải đảm bảo lợi ích lâu dài, hài hòa cho tất cả các bên liên quan.
- Người hướng dẫn viên và các thành viên tham gia DLST phải có nhận
thức cao về môi trường sinh thái, am hiểu về điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội ...
- Cần có sự đào tạo đối với tất cả các thành viên, đối tác tham gia vào DLST
1.2. LOẠI HÌNH DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH SINH
THÁI
1.2.1. Sản phẩm du lịch và loại hình du lịch
1.2.1.1. Khái niệm sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho du khách. được tạo
nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng

các nguồn lực như cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng
miền, hay một quốc gia nào đó. [03, tr 27 ]
- Cơ cấu của sản phẩm du lịch:
+ Những thành phần tạo lực hút (lực hấp dẫn đối với du khách) gồm nhóm
tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn.
+ Cơ sở du lịch (Điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch) gồm cơ sở hạ
tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.


8

+ Dịch vụ du lịch: là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa
những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch và thông qua các hoạt động tương
tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung
ứng du lịch.
1.2.1.2. Những bộ phận cấu thành của một sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch bao gồm những hàng hóa và dịch vụ kết hợp nhau; được
tạo nên bởi những bộ phận cấu thành như sau: [03, tr 27 ]
a. Dịch vụ
- Dịch vụ vận chuyển: Nhằm đưa khách từ nơi cư trú đến các điểm du lịch,
giữa các điểm du lịch và trong phạm vi một điểm du lịch. Để thực hiện nhiệm vụ
này, người ta có thể sử dụng các loại phương tiên khác nhau như máy bay, tàu hỏa,
tàu thủy, ô tô.
- Dịch vụ lưu trú, ăn uống: Nhằm đảm bảo cho khách du lịch nơi ăn, nghỉ
trong quá trình thực hiện chuyến du lịch. Khách du lịch có thể chọn một trong các
khả năng: Khách sạn, nhà trọ, nhà nghỉ, người quen... ngoài ra, việc tạo ra dịch vụ
lưu trú còn bao gồm cả việc ho thuê đất để cắm trại và các hình thức thương tự
khác. Để thỏa mãn nhu cầu ăn uống, khách du lịch có thể tự mình chuẩn bị bữa ăn,
đến nhà hàng để ăn, hay được mời.
- Dịch vụ vui chơi giải trí: Đây là một bộ phận không thể thiếu được của sản

phẩm du lịch. Khách du lịch muốn đạt được sự thú vị cao nhất trong suốt chuyến du
lịch của mình. Để thỏa mãn, họ có thể chọn nhiều khả năng khác nhau: đi tham
quan, vãn cảnh, đến khu di tích, xem văn nghệ, chơi cờ bạc..., vì thời gian rảnh rỗi
còn lại trong ngày của khách du lịch thường rất nhiều, vì vậy cho dù hài lòng về bữa
ăn ngon về chỗ ở tiện nghi, du khách vẫn chán vùng du lịch nếu họ không tham gia
và thưởng thức các tiết mục vui chơi giải trí.
- Dịch vụ mua sắm: Mua sắm cũng là hình thức giải trí, đồng thời đối với
nhiều du khách du lịch thì mang quà lưu niệm có chuyến đi là không thể thiếu được.
Dịch vụ này bao gồm các hình thức bàn lẻ hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ,
tạp hóa, vải vóc, hàng có giá trị kinh tế...


9

- Dịch vụ trung gian và dịch vụ bổ sung: Dịch vụ thu gom, sắp xếp các dịch
vụ riêng lẻ thành sản phẩm du lịch trọn gói; dịch vụ bán lẻ sản phẩm du lịch (cung
cấp thông tin và bán lẻ sản phẩm du lịch cho khách); dịch vụ sửa chữa, y tế...
b. Hàng hoá
Gồm hàng tiêu dùng và hàng lưu niệm.
Việc phối hợp các bộ phận hợp thành một sản phẩm du lịch hoàn chỉnh và
cung ứng (bán) cho khách du lịch là quá trình phúc tạp và đa dạng, cần thiết phải tổ
chức quản lý một cách đồng bộ, chặc chẽ. Từ đó đòi hỏi sự cần thiết ra đời các tổ
chức sản xuất dịch vụ trung gian:
Dịch vụ thu gôm, sắp xếp các dịch vụ riêng lẻ thành một sản phẩm du lịch :
Cơ sở mua lại các dịch vụ khác nhau, sắp xếp, phối hợp chúng thành một chương
trình du lịch trọn gói hoặc đơn giản.
- Dịch vụ bán lẻ sản phẩm du lịch: Cung cấp thông tin và bán lẻ các sản
phẩm du lịch trực tiếp cho khách du lịch
1.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm du lịch sinh thái
Sản phẩm du lịch trên cơ sở lý thuyết bao gồm ba thành phần cơ bản: tài

nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng du lịch và chất lượng dịch vụ. Như vậy để đánh giá
chất lượng sản phẩm du lịch phải phân tích mối quan hệ giữa chất lượng du lịch
thông qua đánh giá của khách hàng (hay sự thỏa mãn của khách hàng) và 3 yếu tố
nêu trên.
Trong thực tế, có nhiều nhà nghiên cứu đã thiết lập mối quan hệ giữa chất
lượng dịch vụ và sự thỏa mãn khách hàng như Cronin & Tayler (1992); Spreng &
Mackoy (1996); Nguyễn Đình Thọ (2003)…
Hai khái niệm chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn khách hàng lại cùng được
nghiên cứu, đo lường và đánh giá dựa trên việc so sánh với ý kiến của khách hàng
trước và sau khi sử dụng dịch vụ. Sự thỏa mãn khách hàng chịu tác động bởi mức
độ hài lòng về chất lượng dịch vụ trong quá trình tiêu dùng. Nói cách khác, để đánh
giá chất lượng dịch vụ hay sự thỏa mãn khách hàng, chúng ta phải dựa trên những
mức độ kỳ vọng của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ trước khi tiêu dùng và
cảm nhận của họ sau khi sử dụng.


10

Trong phạm vi bài nghiên cứu này sẽ xem xét mối quan hệ giữa chất lượng
sản phẩm du lịch sinh thái được cảm nhận (sự thỏa mãn của du khách) với các yếu
tố cấu thành nên sản phẩm du lịch và yếu tố nhân khẩu học của du khách. Sau đây
là một số cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa sự thỏa mãn và yếu tố nhân khẩu học.
Quan hệ giữa giá và sự thỏa mãn
Tác động của giá lên sự thỏa mãn nhận được sự quan tâm ít hơn nhiều so với
vai trò của sự kỳ vọng và các cảm nhận sau khi sử dụng sản phẩm/dịch vụ, nhưng
các đề xuất dựa vào giá đối với sự thỏa mãn được đề nghị nghiên cứu và thực hành
khá rộng rãi. Tuy nhiên, các ấn phẩm về sự thỏa mãn chỉ cung cấp một cái nhìn rất
hạn chế liên quan đến tác động có thể có của các quyết định về giá lên sự thỏa mãn
của người tiêu dùng. Từ đó, Voss và các đồng nghiệp (1998) đã xác định vai trò của
giá đối với sự thỏa mãn. Họ cho rằng các cảm nhận về giá sau khi mua có tác động

dương lên sự thỏa mãn và bản thân nó chịu ảnh hưởng dương của các cảm nhận về
giá trước khi mua, mặt khác cảm nhận giá trước khi mua cũng có tác động dương
lên sự thỏa mãn.
Mối quan hệ giữa kinh nghiệm đi du lịch; học vấn và sự thỏa mãn của du
khách
Kinh nghiệm trước đó của con người có ảnh hưởng rất nhiều đến sự kì vọng
của họ. Kinh nghiệm có đuợc do học hỏi và sự từng trải, mức độ kinh nghiệm gia
tăng thì kì vọng cũng tăng theo. Tương tự vậy, khi trình độ học vấn càng cao thì
người ta càng kì vọng nhiều hơn vào chất lượng của các dịch vụ. Mặt khác, dịch vụ
nhận được là những gì mà khách hàng thực sự nhận được khi họ sử dụng xong dịch
vụ. Do dịch vụ có tính vô hình, không đồng nhất, không lưu giữ và tiêu thụ đồng
thời nên khách hàng nhận biết được dịch vụ sau khi đã so sánh với kì vọng của
mình, qua đó nhận thức về chất lượng các dịch vụ mà mình đã sử dụng. Chính vì
vậy, khi mức độ kì vọng càng cao, người ta thường có xu hướng đánh giá về chất
lượng dịch vụ khắt khe hơn những đối tượng khác.
Loại du khách ảnh hưởng đến nhân tố sự thỏa mãn
Nơi cư trú thường xuyên của du khách là cơ sở để chúng ta phân loại khách
(gồm 2 loại là khách quốc tế và khách nội địa). Khoảng cách giữa nơi cư trú thường


11

xuyên của du khách với điểm đến du lịch là một trong những nhân tố ảnh hưởng
mạnh mẽ đến sự thỏa mãn và các nhận định khác của khách. Bởi lẽ, khi khoảng
cách càng lớn thì sự khác biệt về khí hậu, thời tiết, văn hóa, phong tục tập quán, tính
cách dân tộc… sẽ càng lớn. Do vậy du khách thường có tâm lý đánh giá cao các giá
trị vật chất - tinh thần mà đối với họ đó thật sự là những điều mới lạ. Điều này cũng
đã được kiểm chứng thông qua nghiên cứu của 2 tổ chức là ISTC và ATLAS:
“Không hề ngạc nhiên rằng văn hóa dường như là một phần quan trọng tạo nên sự
thỏa mãn của mọi người sau khi du hành bởi lẽ khám phá những nền văn hóa khác

là động cơ quan trọng nhất của các chuyến đi. Đặc biệt, những người từng trải hơn
cả cho biết họ hiểu biết hơn về các nền văn hóa khác qua các chuyến đi và thường
thích tiếp xúc với người dân địa phương”.
Thu nhập du khách liên quan đến sự thỏa mãn của họ khi đi du lịch
Theo John Maynard Keynes thì quy luật tâm lý cơ bản là ở chỗ con người có
thiên hướng tăng tiêu dùng cùng với tăng thu nhập, nhưng không tăng theo cùng
một tốc độ của tăng thu nhập. Nhìn chung phần đông du khách có thu nhập cao sẽ
chi cho các dịch vụ nhiều hơn. Và khi đó họ cũng mong muốn được nhận lại sự
phục vụ có chất lượng cao. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng sự kì vọng, và
như vậy sự thỏa mãn sẽ khó đạt được hơn.
Mối quan hệ giữa tuổi của du khách và sự hài lòng của du khách
Mỗi một lứa tuổi mang một tâm lý đặc trưng, tức là tâm lý ở các nhóm tuổi
khác nhau là khác nhau. Chẳng hạn, du lịch Cần Thơ chỉ phát triển loại hình du lịch
sinh thái – văn hóa, loại hình này thường thích hợp với những người ở tuổi trung
niên trở lên, họ muốn được nghỉ dưỡng và tìm hiểu văn hóa dân tộc, cội nguồn. Còn
nhóm tuổi thanh thiếu niên hiếu động lại thiên về xu hướng du lịch khám phá, tham
gia các trò chơi mạo hiểm, cảm giác mạnh…Do đó, nghiên cứu này mong đợi tồn
tại mối quan hệ cùng chiều giữa tuổi và sự hài lòng của du khách.
Riêng đối với yếu tố “giới tính”, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng
minh được sự khác biệt trong quá trình cảm nhận chất lượng dịch vụ giữa hai giới
nam và nữ.


12

1.2.2. Phát triển loại hình du lịch sinh thái
1.2.2.1. Khái niệm loại hình du lịch
“Loại hình du lịch là một tập hợp các sản phẩm du lịch có đặc điểm
giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn các nhu cầu, động cơ du lịch tương tự nhau,
hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách

phân phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc chúng được xếp chung theo một mức
giá bán nào đó” [03, tr 64 ]
1.2.2.2. Điều kiện phát triển loại hình Du lịch sinh thái
a. Điều kiện về sự phát triển kinh tế - xã hội
Để đảm bảo có thể thu hút và khai thác khách du lịch nói chung và khách du
lịch sinh thái nói riêng thì điều quan trọng là chính trị ổn định và an ninh đảm bảo.
Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cũng làm cho nhu cầu du lịch sinh thái tăng
lên.
b. Điều kiện về con người
Trong du lịch, thì ngoài các yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc khai thác và
phục vụ khách thì yếu tố quan trọng và quyết định cho sự thành công của các doanh
nghiệp lữ hành đó chính là con người. Chính sự sáng suốt, năng động cũng như sự
hiểu biết và nhanh nhẹn của các nhân viên là yếu tố để doanh nghiệp thành công.
Nguồn nhân lực phục vụ du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái phải có đầy đủ
những kiến thức về môi trường, sinh thái cũng như nghiệp vụ lành nghề của nhân
viên phục vụ du lịch và trình độ ngoại ngữ cao. Có như vậy mới đảm bảo chất
lượng dịch vụ phục vụ du khách. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục
vụ du lịch sinh thái là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển
du lịch sinh thái.
Hiểu biết và đánh giá đúng cũng như biết huy động tối đa các nguồn lực sẽ
thúc đẩy quá trình phát triển du lịch sinh thái ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Để
phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững cần phát hiện và sử dụng hợp lý,
hiệu quả các nguồn lực sẵn có và tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài


13

Do vậy, các doanh nghiệp lữ hành cần phải biết quan tâm đến nhân viên của
mình, đưa ra những đãi ngộ, những tưởng thưởng xứng đáng cho những nhân viên
làm việc tốt, nhiệt tình và những biện pháp phạt cho những nhân viên cố tình gây

tổn thất cho doanh nghiệp.
c. Điều kiện về tài nguyên du lịch
Đây là yếu tố cần thiết để phát triển chương trình du lịch sinh thái. Tài
nguyên du lịch sinh thái là một bộ phận cấu thành trong tài nguyên du lịch, bao gồm
các giá trị của tự nhiên thể hiện trong một hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hóa
bản địa tồn tại và phát triển không tách rời khỏi hệ sinh thái tự nhiên đó. Một số loại
tài nguyên du lịch sinh thái chính thường được khai thác và phục vụ nhu cầu của
khách như:
- Các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù: vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên
nhiên, các khu dự trữ sinh quyển,...
- Hệ sinh thái nông nghiệp: vườn trái cây, làng hoa,...
- Các giá trị văn hóa bản địa có sự hình thành và phát triển gắn liền với sự
tồn tại và phát triển của hệ sinh thái tự nhiên: phương thức canh tác, lễ hội, sinh
hoạt truyền thống dân tộc,...
d. Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ khách du lịch
Bao gồm nguồn vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ, cơ sở hạ tầng và vật
chất kỹ thuật phục vụ du lịch như hệ thống vận tải, giao thông, đường sá, nhà hàng,
khách sạn, các khu vui chơi giải trí phục vụ nhu cầu du khách, các chính sách phát
triển du lịch của các đơn vị kinh doanh du lịch từ nhà hàng, khách sạn, công ty lữ
hành cho đến các chính sách của cơ quan, chính quyền địa phương. Các chính sách
đóng vai trò quan trọng để lựa chọn chiến lược phát triển du lịch phù hợp với từng
điều kiện trong từng giai đoạn cụ thể.
1.2.2.3. Sự cần thiết và xu hướng phát triển loại hình du lịch sinh thái
Ngày nay, xu hướng chung của toàn thế giới coi du lịch nói chung và du lịch
sinh thái nói riêng như là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Du lịch sinh thái đã
và đang trên đà trở mình và đã trở nên phổ biến đối với những người yêu thiên


14


nhiên. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời sống con người ngày càng
được nâng cao nhưng họ thường làm việc trong môi trường rất căng thẳng, thường
dễ dẫn đến sự mệt mỏi. Chính vì những lý do đó mà họ thích tham gia vào những
chuyến du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái. Vì thời gian thường hạn hẹp, tình trạng
ô nhiễm môi trường, thời tiết ngày càng khắc nghiệt nên họ thường tìm đến các khu
du lịch sinh thái hoặc mua các chương trình du lịch sinh thái thông qua công ty lữ
hành. Đó là điều kiện để phát triển và mở rộng loại hình này.
1.3. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH SINH THÁI
Phát triển DLST không thể tách rời với việc khai thác các tài nguyên thiên
nhiên. Vì vậy định hướng phát triển DLST phải bắt nguồn từ những đặc điểm riêng
có, những sản phẩm đặc thù có thể có từ tài nguyên du lịch. Dù vậy, chúng ta không
thể tạo ra một sản phẩm để du khách tự tìm đến mà trên cơ sở phân tích nhu cầu thị
hiếu của thị trường để có phương thức khai thác tài nguyên du lịch phù hợp với nhu
cầu thị trường du lịch.
Đây chính là quan điểm marketing hướng đến thị trường và là đặc điểm của
marketing hướng đến thị trường của một khu du lịch.
Đối với việc phát triển một khu du lịch sinh thái mang tính đặc thù cao thì
việc tiếp cận hướng tới thị trường cần phải được xem xét từ những giá trị độc đáo
riêng có của tài nguyên du lịch. Những sản phẩm du lịch này không thể thay đổi, chỉ
có thể làm cho tốt hơn, sâu sắc hơn, ấn tượng hơn bằng việc nâng cao chất lượng
sản phẩm thông qua việc nâng cao trình độ tổ chức, các dịch vụ thông tin chỉ dẫn.
Cùng với việc tổ chức cung ứng tốt các dịch vụ thiết yếu nêu trên phù hợp với nhu
cầu thị trường sẽ cho phép chúng ta khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên của
một khu du lịch sinh thái. Do đó nội dung chủ yếu để khai thác tiềm năng của khu
du lịch sinh thái đặc thù là:
1.3.1. Xác định xứ mệnh của khu Du lịch sinh thái
Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch với ưu thế nổi bật về cảnh quang
thiên nhiên, được quy hoạch đầu tư phát triển nhằm thảo mãn nhu cầu đa dạng của
khách du lịch, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường (khoản 5 điều 10 –
Pháp lệnh du lịch)



15

Theo cách phân loại hiện nay của Tổng cục Du lịch, thì có hai loại khu du
lịch:
- Khu du lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế: Là khu du lịch có khả năng thu
hút khách quốc tế và khách từ các vùng khác nhau của đất nước bởi sự độc đáo về
tài nguyên du lịch.
- Khu du lịch có ý nghĩa vùng và địa phương: là khu du lịch chỉ có khả năng
thu hút khách du lịch trong nước đến từ các địa phương trong tỉnh hoặc vùng bởi tài
nguyên du lịch không thật đặc sắc hoặc khoảng cách đến trung tâm gởi khách quá
xa.
Khu du lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế do TCDL xác định. Khu du lịch
có ý nghĩa vùng và địa phương do tỉnh, thành trực thuộc TW xác định. Việc xác
định tính chất của khu du lịch trên được thể hiện trong Quy hoạch tổng thể phát
triển Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch các vùng, các địa phương
đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đây chính là xứ mệnh của khu du lịch
1.3.2. Đánh giá tài nguyên và khả năng phát triển của khu du lịch sinh
thái
1.3.2.1. Xác định thị trường mục tiêu
a. Phân đoạn thị trường
Phân đoạn thị trường là một quá trình phân chia một thị trường tổng thể
thành một số đơn vị nhỏ khác biệt với nhau (gọi là khúc, đoạn, lát thị trường).
Nhưng trong mỗi đơn vị lại có sự đồng nhất với nhau về nhu cầu, đặc tính hoặc
hành vi ứng xử của khách hàng. Như vậy, mỗi đoạn thị trường sẽ tập hợp và bao
gồm một số người tiêu dùng có những phản ứng tương tự hoặc giống nhau dưới
những tác động và kích thích nhất định từ phía doanh nghiệp.
Việc phân chia thị trường theo những nhóm người tiêu dùng khác nhau cho
phép doanh nghiệp tập trung nỗ lực hướng vào việc thỏa mãn một số nhu cầu nhất

định của một hoặc một số phân đoạn thị trường nhất định. Nó là cơ sở để doanh
nghiệp lựa chọn chính xác thị trường mục tiêu và đánh giá kịp thời các cơ hội thị


16

trường. Đồng thời tạo ra những căn cứ và điều kiện cho sự nghiên cứu và xác lập
các chính sách Marketing thích ứng, phù hợp với từng phân đoạn lựa chọn.
Để tiến hành phân đoạn thị trường, người ta thường căn cứ vào 2 nội dung
chủ yếu là: Xác định các tiêu thức phân đoạn và xác định yêu cầu và phương pháp
phân đoạn.
b. Lựa chọn thị trường mục tiêu
- Đánh giá các phân đoạn thị trường:
Quá trình đánh giá lợi ích tiềm tàng của các phân đoạn thị trường thường dựa
trên các nhân tố cơ bản sau:
+ Qui mô và tốc độ phát triển của phân đoạn thị trường: Cần đánh giá được
qui mô tiềm tàng và qui mô hiện tại của nhu cầu trên từng đoạn thị trường qua từng
thời kỳ và dự đoán được tốc độ tăng trưởng của chúng so với tốc độ bình quân
chung của thị trường.
+ Cơ cấu và sự thu hút của các đoạn thị trường: Tính hấp dẫn của mỗi đoạn
thị trường còn tiềm ẩn và phụ thuộc rất lớn vào sự tác động của các tác nhân chủ
yếu trong nó, đó là:
. Sức mạnh của nhà cung ứng.
. Rào chắn của sự thâm nhập và thoát ly.
. Sức mạnh và cơ cấu của các đối thủ cạnh tranh.
. Vai trò và sức mạnh quyền lực của khách hàng...
. Mục đích kinh doanh và nguồn tài lực của doanh nghiệp trong mối quan hệ
với từng phân đoạn:
Trong thực tế, nhiều phân đoạn thị trường hấp dẫn, có tầm cỡ vẫn có thể bị
loại trừ nếu chúng không phù hợp với mục đích kinh doanh lâu dài của doanh

nghiệp, không làm tăng sức mạnh tổng hợp của họ trong tương lai và thậm chí vượt
quá năng lực cần thiết hiện có của doanh nghiệp. Không nên gia nhập môt phân
đoạn, một thị trường nào đó mà doanh nghiệp không thể thành công, không thể phát
huy được những lợi thế hơn hẳn so với đối thủ và không thể đưa ra được những sản
phẩm có giá trị vượt trội, hơn hẳn trên đoạn thị trường đó.


17

- Lựa chọn thị trường mục tiêu:
Dựa trên kết quả phân tích và đánh giá tiềm năng của mỗi phân đoạn thị
trường, doanh nghiệp quyết định chọn lựa một hoặc một số phân đoạn có triển vọng
nhất để quyết định thâm nhập và phục vụ.
- Định vị trong thị trường mục tiêu:
Sau khi đã chọn lựa được những khúc tuyến trọng điểm, doanh nghiệp cần có
những quyết định cụ thể về vị trí và chiến lược thâm nhập, nhằm đạt được những
mục tiêu xứng đáng và lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Định vị thị trường, về thực chất, là những hành động nhằm hình thành tư thế
cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp, là những cố gắng xếp đặt để những
cống hiến của doanh nghiệp chiếm được những vị trí xứng đáng trên thị trường và
khắc họa được những hình ảnh đậm nét, khó quên trong tâm trí những khách hàng
trọng điểm mà mình đặc biệt chú ý và lựa chọn phục vụ, trong sự so sánh tương
quan với các cống hiến của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Vị trí của một sản phẩm là một tập hợp những ấn tượng, khái niệm và cảm
giác của khách hàng về loại sản phẩm đó so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại.
Để cho vị trí sản phẩm cạnh tranh của doanh nghiệp không bị phó mặc may rủi cho
khách hàng định đoạt, những chuyên gia Marketing cũng cần có kế hoạch chủ động
định vị trí sản phẩm với những lợi thế cạnh tranh nhất định trong những khúc tuyến
thị trường trọng điểm đã lựa chọn, đồng thời dự kiến những chiến lược và chính
sách Marketing thích hợp để đạt được những vị trí dự kiến đó.

c. Định vị sản phẩm trong thị trường mục tiêu
Kế hoạch định vị cho một sản phẩm mới hay một sản phẩm đang lưu hành
của doanh nghiệp cần tuân thủ những bước chủ yếu sau :
- Bước 1: Phân tích và đánh giá vị trí hiện tại của sản phẩm doanh nghiệp và
sản phẩm cạnh tranh trên các mặt: Đặc tính chủ yếu của sản phẩm; đặc điểm của
khách hàng mục tiêu; sự thích ứng giữa những yêu cầu của khách hàng với những
đặc tính nổi bật của sản phẩm.


18

- Bước 2: Dự đoán độ lớn của nhu cầu về những kết hợp có thể có trong các
thuộc tính khác nhau của sản phẩm tương ứng với vị trí hoặc doanh số của các đối
thủ cạnh tranh. Cụ thể là lựa chọn các thuộc tính kết hợp, vị trí sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh và độ lớn về nhu cầu từng loại của họ.
- Bước 3: Lựa chọn vị trí cho sản phẩm doanh nghiệp, có thể chọn một trong
hai vị trí sau:
+ Định vị kế sau các đối thủ và tìm mọi cách tăng tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.
Giải pháp này rất hữu hiệu khi doanh nghiệp có thể đưa ra một loại sản phẩm tốt
hơn đối thủ, thị trường đủ lớn cho cả hai doanh nghiệp cùng khai thác, doanh
nghiệp có nguồn tài nguyên mạnh hơn đối thủ hoặc vị trí này thích hợp với thế
mạnh của doanh nghiệp.
+ Định vị bằng cách đưa ra một sản phẩm mới chưa hề có mặt trên thị
trường. Khi lựa chọn giải pháp này cần phân tích: Về mặt tính chất, đặc điểm doanh
nghiệp cho phép đưa ra loại sản phẩm đó, về mặt kinh tế đảm bảo cho sản phẩm có
giá cả hợp lý, về mặt khách hàng có đủ lượng đáng kể, ưa thích sử dụng và chấp
nhận sản phẩm mới...
- Bước 4: Quyết định chiến lược định vị sản phẩm
Doanh nghiệp có thể dựa trên một trong số các chiến lược định vị chủ yếu
sau:

+ Đinh vị theo sản phẩm: dựa vào một thuộc tính nào đó, hoặc một lợi ích
mang lại cho khách hàng, hoặc một công dụng nhất định của sản phẩm...
+ Định vị theo tầng lớp người sử dụng sản phẩm
+ Định vị theo đối thủ cạnh tranh bằng cách so sánh trực tiếp với một số đối
thủ nào đó, hoặc nhằm thay thế cho sản phẩm cạnh tranh.
+ Định vị theo các sản phẩm liên quan khác...
1.3.2.2. Phát triển điểm, tuyến du lịch sinh thái
a. Phát triển điểm du lịch sinh thái
Theo nghĩa chung nhất, điểm du lịch là một địa danh du lịch mà khách du
lịch hướng đến và lưu lại.


19

Như vậy điểm du lịch khác với điểm tham quan ở chỗ có sự lưu lại.
Cũng theo định nghĩa trên thì để được thừa nhận là điểm du lịch phải bao
gồm 3 yếu tố cơ bản sau:
+ Là nơi tập trung một loại tài nguyên du lịch nào đó (tự nhiên, văn hóa hặc
kinh tế xã hội)
Đây là yếu tố hấp dẫn, thu hút du khách (khách hướng đến)
+ Thuận lợi cho việc đi lại đảm bảo giao thông cho khách đến điểm du lịch
+ Có cơ sở hạ tầng và xã hội bảo đảm việc lưu lại của khách và hoạt động
của các doanh nghiệp du lịch. Đó là các cơ sở ăn uống, cơ sở lưu trú và các cơ sở
phục vụ vui chơi giải trí.
* Xây dựng một điểm du lịch cần lưu ý
Như chúng ta đã biết, điểm du lịch không đơn giản là một điểm tài nguyên.
Đi với điều kiện tài nguyên ấy là những điều kiện về đi lại, lưu trú, mặt khác điểm
du lịch bao giờ cũng chiếm một diện tích không gian thuộc phạm vi lãnh thổ một
địa phương, một vùng, một quốc gia. Hơn nữa khi nói đến điểm du lịch không thể
không thể đề cập đến tình hình hoạt động du lịch diễn ra ở đó và hiệu quả kinh tế

xã hội đem lại.
Vì tất cả những lý do trên, khi xây dựng một điểm du lịch cần phải tính đến
những khía cạnh sau một cách trọn vẹn:
* Tài nguyên du lịch (điều kiện cần)
Điều kiện tất yếu phải có:Tài nguyên du lịch là một đại lượng xác định không
đổi.
Cần xem xét khả năng tài nguyên du lịch có đến đâu thông qua số lượng,
chất lượng của nó. Liệu có đủ sức hấp dẫn du khách không? Xác định quy mô điểm
du lịch ra sao với khối lượng, chất lượng tài nhuyên thực có.
b. Phát triển tuyến du lịch sinh thái
Là một hành trình qua nhiều điểm tham quan và điểm du lịch.
Các tuyến du lịch có thể là tuyến nội vùng (á vùng, tiểu vùng, trung tâm)
hoặc tuyến liên vùng.


20

Khái niệm tuyến du lịch thường đi liên với khái niệm chương trình du lịch.
Chương trình du lịch thường phản ảnh tính chất đặc trưng của một loại tuyến. Song
trên một tuyến cũng có thể có nhiều chương trình.
Do tính chất phong phú của tài nguyên du lịch (tao nên sự đa dạng của các
điểm du lịch) cùng với tính đa dạng của nhu cầu du lịch, thể loại du lịch nên tuyến
du lịch với những chương trình du lịch gắn liền với tuyến cũng được hình thành một
cách phong phú, đa dạng.
Sự khác nhau của mỗi loại chương trình du lịch biểu hiện ở các yếu tố sau:
- Thời gian của cuộc hành trình
- Không gian những điểm du lịch, tham quan có trong chương trình
- Nội dung chương trình
- Chất lượng và giá cả các dịch vụ cung ứng.
Khi xây dựng một tuyến du lịch với chương trình cụ thể phải đảm bảo được

những yêu cầu cơ bản:
- Phù hợp với yêu cầu của thị trường
- Có tính khả thi cao
- Phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp
Căn cứ vào nguôn gốc phát sinh sẽ có một số loại tuyến gắn với chương trình
du lịch như:
1. Tuyến du lịch bị động: Hình thành từ nhu cầu, nguyện vọng của khách,
khách đề ra yêu cầu sau đó công ty lữ hành dựa trên cơ sở này để xây dựng tuyến,
chương trình.
2. Tuyến du lịch chủ động: Công ty lữ hành chủ động nghiên cứu tuyến du
lịch.
c. Phát triển sản phẩm du lịch sinh thái
Sản phẩm du lịch thường giống nhau đối với những khu vực có điều kiện tự
nhiên tương tự tạo nên sản phẩm đơn điệu, nhàm chán, khó hấp dẫn được du khách.
Vì vậy cần xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương. Trên cơ sở sản
phẩm du lịch đã được khai thác, đặc điểm đối tượng khách tiềm năng cùng lợi thế
về điều kiện tự nhiên, văn hoá xã hội.


21

1.3.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch sinh thái
Cơ sở hạ tầng nhìn chung có vai trò đặc biệt đối với việc đẩy mạnh du lịch
(như là khai thác tiềm năng du lịch, nâng cao chất lượng phục vụ du lịch,…)
Mạng lưới và phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống các công
trình cấp điện nước, các cơ sở y tế, hệ thống các cửa hàng thương nghiệp, các dịch
vụ ngân hàng,… là những nhân tố quan trọng trong cơ sở hạ tầng của hoạt động du
lịch.
Cơ sở hạ tầng là một điều kiện quan trọng để đón tiếp và phục vụ du khách,
để xây dựng loại hình du lịch trở thành một khu du lịch sinh thái tổng hợp.

- Mạng lưới và phương tiện giao thông
Du lịch gắn với việc di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất
định. Sự đi lại này phụ thuộc vào mạng lưới đường xá và phương tiện giao thông.
Không thể khai thác một đối tượng du lịch khi thiếu yếu tố giao thông. Mạng lưới
đường giao thông mở rộng, sự tăng nhanh số lượng, chất lượng phương tiện vận
chuyển (ô tô, tàu thuỷ, máy bay…), sự an toàn cao, tiện lợi, tốc độ nhanh, giá rẻ…
sẽ tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy con người đi du lịch. Mạng lưới và phương
tiện giao thông càng hoàn thiện thì càng giảm bớt thời gian đi lại, tăng thời gian
nghỉ ngơi và du lịch.
- Thông tin liên lạc: Điện thoại, điện tín, telex, fax… là điều kiện đảm bảo
giao lưu, liên lạc cho du khách trong nước và quốc tế một cách nhanh chóng, kịp
thời, chính sác.
- Hệ thống các công trình cấp, điện, nước
Phục vụ trực tiếp cho nghỉ ngơi giải trí của du khách, đòi hỏi phải đủ, phải
sạch.
- Cơ sở y tế: Phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ sung tại các
điểm du lịch.
- Hệ thống cửa hàng thương nghiệp phong phú, đa dạng, chất lượng hàng
hoá tốt.
- Hệ thống dịch vụ ngân hàng


22

1.3.4. Tuyên truyền quảng bá, an ninh trật tự, vệ sinh môi trường
Công tác xúc tiến du lịch vừa nhằm quảng bá hình ảnh, sản phẩm du lịch sinh
thái để thu hút khách; vừa góp phần lưu giữ khách du lịch.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến du lịch dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng
để thu hút lượng khách du lịch đến với loại hình du lịch sinh thái ngày càng tăng.
Phát triển các chuyến bay

Xúc tiến, quảng bá hình ảnh du lịch sinh thái đến với nhân dân các địa
phương trong nước thông qua các phương tiện khác nhau, hình thức khác nhau.
Tìm hiểu và xác định thị trường tiềm năng, thị trường mới ở khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. Mỗi thị trường cần xúc tiến quảng bá theo cách khác nhau, phù
hợp với văn hóa, tập quán của người dân địa phương.
Ứng dụng những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt, tiến bộ của CNTT
vào công tác xúc tiến, quảng bá du lịch.
Nâng cao trình độ ngoại ngữ, khả năng hiểu biết về văn hóa, tập quán của
người dân trong và ngoài nước cho cán bộ, nhân viên làm công tác xúc tiến, quảng
bá du lịch.
1.3.5. Phối hợp liên ngành
1.3.5.1. Công tác tổ chức
Tồn tại một nhóm gồm 3 thành phần.
* Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến
địa phương
+ Cấp TW (Bộ): Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch; Tổng cục du lịch và
UBQG về du lịch.
+ Cấp địa phương: Sở Du lịch; Sở Thương mại và Du lịch; Phòng VH- TTDL
+ UBND các cấp tương ứng (quản lý ngạch ngang, quản lý địa bàn)
* Khách thể quản lý: Tồn tại các doanh nghiệp kinh doanh du lịch (Vận
chuyển lữ hành, khách sạn, các dịch vụ khác), các doanh nghiệp này có thể là
những doanh nghiệp chuyên kinh doanh du lịch hoặc có thể là doanh nghiệp kinh
doanh tổng hợp.


23

* Công cụ quản lý:
+ Việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển du lịch.
+ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch

+ Công cụ khác như: Công cụ kinh tế (đòn bẩy kinh tế, lương, thuế)
+ Pháp luật có liên quan đến việc phát triển du lịch.
(Hiến pháp, luật, văn bản dưới Luật như Nghị định, Nghị quyết, Chỉ thị và
Luật du lịch,…)
1.3.5.2. Đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật
Phải tồn tại một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch để đảm bảo
mọi tiện nghi và làm dễ dàng cho khách trong quá trình du lịch. Cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ du lịch bao gồm CSHTXH và CSVCKT ngành du lịch. [03, tr 167170 ]
* CSVCKT ngành du lịch: Là toàn bộ điều kiện về vật chất tham gia vào quá
trình sản xuất, phục vụ nhằm tạo ra các hàng hoá, dịch vụ thoả mãn nhu cầu của du
khách.
Nếu phân theo chức năng thì CSVCKTDL có cấu trúc 5 thành phần cơ bản:
- CSVCKT phục vụ lưu trú: Khách sạn; Motel; Bungalow; Camping; Nhà
nghỉ…
- CSVCKT phục vụ ăn uống: Nhà hàng, bar…
- CSVCKT phục vụ dịch vụ vận chuyển, điều kiện vật chất (Nhà ga, bến
cảng…, phương tiện vận chuyển.
- CSVCKT phục vụ trung gian: Thường thuộc về lữ hành như Văn phòng đại
diện du lịch, đại lý du lịch với nhà cửa, trang thiết bị cần có.
- CSVCKT phục vụ các dịch vụ bổ sung như cơ sở vật lý trị liệu, thẩm mỹ,
khu tập thể dục thể thao, vui chơi… Phòng, hiệu cắt tóc, giặt là, cơ sở y tế…
Các điều kiện vật chất kỹ thuật du lịch có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
ra và thực hiện toàn bộ sản phẩm du lịch, kết hợp đồng bộ các điều kiện VCKTDL
sẽ góp phần nâng cao tính đồng bộ của sản phẩm du lịch, tính hấp dẫn của điểm du
lịch.


24

1.3.6. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương

- DLST nên khởi đầu với sự giúp đỡ của những thông tin cơ bản nhưng đa
dạng của cộng đồng và cộng đồng nên duy trì việc kiểm soát sự phát triển của du
lịch.
- Sử dụng và bảo vệ tài nguyên một cách bền vững: bao gồm cả tài nguyên
thiên nhiên, xã hội, văn hóa. Việc sử dụng bền vững tài nguyên là nền tẳng cơ bản
nhất của việc phát triển DLST.
- Chương trình giáo dục và huấn luyện để cải thiện, quản lý di sản và các tài
nguyên thiên nhiên nên được thành lập. Giảm tiêu thụ, giảm chất thải một cách triệt
để nhằm nâng cao chất lượng môi trường.
- Duy trì tính đa dạng về tự nhiên, văn hóa...
- Lồng ghép các chiến lược phát triển du lịch của địa phwuowng với quốc
gia.
Phải hỗ trợ kinh tế địa phương, tránh gây thiệt hại cho các hệ sinh thái ở đây.
- Phải thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương. Điều này không chỉ
đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường sinh thái mà còn nhằm tăng cường
khả năng đáp ứng các thị hiếu của du khách.
- Phải biết tư vấn các nhóm quyền lợi và công chúng. Tư vấn giữa công
nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan, nhằm đảm bảo
cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.
- Đào tạo các cán bộ, nhân viên phục vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
Nghiên cứu hỗ trợ cho du lịch. Phải cung cấp cho du khách những thông tin
đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường
tự nhiên, xã hội và văn hóa khu du lịch, qua đó góp phần thỏa mãn các nhu cầu của
du khách.


25

Tiểu kết Chương 1

Chương 1 của luận văn đã giải quyết được ba vấn đề: Cơ sở lí luận về du lịch
sinh thái, loại hình du lịch và nội dung phát triển loại hình du lịch sinh thái
Trong phần cơ sở lý luận, tác giả đã nhấn mạnh giải quyết khái niệm về du lịch
sinh thái, các điều kiện để phát triển du lịch sinh thái và đưa ra một số khái niệm
thống nhất làm nền tảng lý luận cho luận văn đồng thời tác giả cũng tập trung vào
các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển loại hình du lịch sinh thái. Đồng thời tác
giả nhấn mạnh đến việc đánh giá một số yếu tố tác động đến phát triển du lịch bền
vững mà trong đó du lịch sinh thái là một sản phẩm du lịch đặc biệt, là công cụ hữu
ích trong tiến trình phát triển du lịch bền vững.
Tác giả cũng phân tích được để phát triển cho một khu du lịch nào thì cần phải
phát triển loại hình, sản phẩm, tuyến điểm, hệ thống cơ sở lưu trú…vấn đề quan
trọng trong việc phát triển du lịch sinh thái trên lãnh bán đảo. Với việc phân tích tài
nguyên du lịch bán đảo tuy đa dạng nhưng rất dễ bị tổn thương để từ đó đưa ra việc
phát triển du lịch sinh thái trên lãnh thổ bán đảo phải gắn với bảo tồn và phát triển
bền vững.


×