Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Chính sách phát triển nhân lực từ thực tiễn các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.4 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN PHÁT

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
TỪ THỰC TIỄN CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG
TRỰC THUỘC TỈNH ỦY QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN PHÁT

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
TỪ THỰC TIỄN CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG
TRỰC THUỘC TỈNH ỦY QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ TÂM

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Chính sách công về “Chính sách phát triển nhân lực từ thực tiễn các tổ chức
Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực và không trùng
lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Huỳnh Văn Phát


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NHÂN LỰC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ................................... 7
1.1. Một số khái niệm ........................................................................................ 7
1.2. Chính sách PTNL của Đảng cộng sản Việt Nam trong thể chế chính trị
Việt Nam ......................................................................................................... 10
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN
LỰC CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG TRỰC THUỘC TỈNH ỦY QUẢNG
NAM ............................................................................................................... 28
2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, KT-XH tỉnh Quảng Nam .......... 28
2.2. Thực trạng chính sách về PTNL các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy
Quảng Nam ..................................................................................................... 30

2.3. Tổ chức thực hiện chính sách PTNL tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy .. 46
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG
TRỰC THUỘC TỈNH ỦY QUẢNG NAM ................................................. 54
3.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu về chính sách PTNL các tổ chức
Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam ............................................................. 54
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện Chính sách PTNL các tổ chức Đảng trực
thuộc Tỉnh ủy .................................................................................................. 60
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CB

: Cán bộ

CC

: Công chức

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GDP

: Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm trong nước

GRDP

: Gross Regional Domestic Product
Tổng sản phẩm trên địa bàn

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KT - XH

: Kinh tế - xã hội

NNL

: Nguồn nhân lực

PTNL

: Phát triển nhân lực

UBND

: Ủy ban nhân dân

VC

: Viên chức



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
2.1.

2.2.

2.3.

Tên bảng
Trình độ chuyên môn của CB, CC, VC các tổ chức
Đảng trực thuộc Tỉnh ủy
Trình độ lý luận chính trị của CB, CC, VC các tổ chức
Đảng trực thuộc Tỉnh ủy
Phân tích các chủ thể chính sách PTNL các tổ chức
Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam

Trang

30

31

40


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nhân tố tạo nên sự phát triển KT-XH thì nhân tố con người
có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng ta luôn luôn xác định, con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, đầu tư cho nguồn lực con
người là đầu tư cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong xu thế hội nhập
và toàn cầu hóa, sự hưng thịnh hay suy tàn của Đảng tùy thuộc rất lớn vào đội
ngũ CB, CC, VC có tâm - trí - tài, có khả năng thích nghi với môi trường đầy
biến đổi như hiện nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng đã xác định “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” [6, tr.432].
Trong những năm qua, nhận thức tầm quan trọng cũng như triển khai
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát
triển nguồn nhân lực đối với sự phát triển của đất nước, Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, cơ chế, chính sách phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh nói chung và nhân lực các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy
nói riêng.
Công tác xây dựng, PTNL các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy từ ngày
thành lập đến nay đã có những chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan
điểmm tư tưởng, được thể hiện trong cơ chế, chính sách, pháp luật từ khâu
tuyển dụng, đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển và quản lý đã từng
bước đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong điều kiện phát triển KT-XH của tỉnh
hiện nay.
Về chất lượng, phần lớn đội ngũ CB, CC, VC hiện nay đã được rèn
1


luyện, thử thách trong thực tiễn công tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với sự nghiệp cách mạng. Kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp

vụ và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ CB, CC, VC từng bước được
nâng cao về mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi
mới đất nước trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh trên, đội ngũ CB, CC, VC của
các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy còn tồn tại những hạn chế về trình độ,
chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, chất lượng chưa đồng đều, tinh thần trách
nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận CB, CC, VC còn yếu, phong
cách làm việc chậm đổi mới… Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, chất
lượng, cơ cấu đội ngũ CB, CC, VC hiện nay chưa hợp lý, vẫn còn nhiều bất
cập.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI,
nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ CB, CC, VC từ tỉnh
đến cơ sở đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý, vững vàng về
chính trị, thật sự có tâm và có tầm để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới. Thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ trên cơ sở bảo đảm
thật sự dân chủ, công khai, minh bạch. Hết sức coi trọng việc xây dựng đội
ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc
thiểu số, cán bộ khoa học và công nghệ. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm
minh những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất; đấu tranh ngăn chặn các
biểu hiện mất đoàn kết, bè phái, “lợi ích nhóm”, cá nhân chủ nghĩa và mọi âm
mưu phá hoại nội bộ Đảng của các thế lực thù địch. Tiếp tục thực hiện có hiệu
quả việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên...” [9, tr.12].
Trước yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực trong tình hình mới, việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, phân tích các yếu tố tác động đến chính
2


sách PTNL các tổ chức đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam là rất cần thiết.
Qua đó, đề xuất các giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách PTNL các tổ

chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển KT-XH của tỉnh. Chính vì
những lý do như trên, học viên đã lựa chọn nghiên cứu “Chính sách phát
triển nhân lực từ thực tiễn các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam”
để làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-05 giai đoạn 20012005 “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc làm
chủ biên đã chứng minh tính thống nhất, sự tác động qua lại rất phức tạp và
biện chứng giữa các nhân tố văn hóa - con người - nguồn nhân lực, đồng thời
đề ra các giải pháp nhằm phát triển văn hóa, con người, nguồn nhân lực trong
bối cảnh đất nước đi vào kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020 về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
PGS. TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS. TS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên, 2001) với cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” đã tập trung phân tích, lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học của
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các cấp. Từ đó đưa ra một hệ thống các quan điểm, phương hướng
và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những thập
niên đầu của thế kỷ XXI.
Từ bình diện khoa học quản lý, tác giả Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng
3


Ngân (2004) trong cuốn sách “Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” lại tập trung phân tích những cơ sở khoa học của
quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam. Những vấn đề gay cấn, chính sách, giải

pháp quản lý, phát triển NNL ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra những kinh nghiệp
quản lý, phát triển NNL của các nước Đông Á, Đông Nam Á và một số nước
phát triển khác rất hữu ích cho các nhà quản trị nhân sự khác ở Việt Nam.
Ở phạm vi nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững vùng, tác giải
Nguyễn Hồng Quang (2013) qua cuốn sách “Nguồn nhân lực với phát triển
bền vững vùng Bắc Bộ giai đoạn 2011-2020” đã tập trung phân tích vai trò và
tác động của nguồn nhân lực đối với phát triển bền vững vùng Bắc Bộ giai
đoạn 2011-2020.
PGS.TS. Lê Minh Thông và TS. Nguyễn Danh Châu đã có nghiên cứu,
đúc kết những kinh nghiệm công tác nhân sự của một số nước như Nhật Bản,
Hoa Kỳ, Cộng hoà Liên Bang Đức, Trung Quốc,...
Trong các nghiên cứu, tác phẩm, bài viết khoa học trên đây đã đề cập
đến thực trạng phát triển, quản lý nguồn nhân lực Việt Nam trong thời gian
vừa qua. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào về chính sách
PTNL các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam một cách tổng thể từ
lý luận đến thực tiễn và đạt ra những giải pháp đối với chính sách này. Bởi
vậy, học viên mạnh dạn xem đây như là cố gắng khoa học đầu tiên nghiên cứu
về “Chính sách phát triển nhân lực từ thực tiễn các tổ chức đảng trực thuộc
Tỉnh ủy Quảng Nam”. Do vậy, việc lựa chọn đề tài này là một sự khởi đầu
với hy vọng đặt nền móng và góp phần vào xây dựng các chính sách đối với
ngành tổ chức xây dựng Đảng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng chính sách PTNL, từ đó đề xuất giải pháp cơ bản
4


nhằm hoàn thiện chính sách PTNL các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy
Quảng Nam nói riêng và cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ khung lý luận của đề tài.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách PTNL từ thực tiễn
các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam.
- Các giải pháp hoàn thiện chính sách PTNL các tổ chức Đảng trực
thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Là chính sách PTNL từ thực tiễn các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy
Quảng Nam.
- Là nhân lực các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian ở tỉnh Quảng Nam;
Về thời gian từ năm 2011 đến 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp tiếp
cận khoa học chính sách công.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp tổng hợp.
+ Phương pháp phân tích, thống kê.
+ Phương pháp đánh giá hệ thống chính sách…
6. Ý nghĩa của và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần cung cấp một số luận cứ trong việc bổ sung, hoàn thiện chính
5


sách PTNL nói chung và PTNL các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng
Nam nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

+ Có thể là tài liệu cho những người nghiên cứu chủ đề có liên quan
tham khảo.
+ Cũng có thể là một nguồn dữ liệu để các chủ thể có thẩm quyền tham
khảo trong đánh giá chính sách PTNL các tổ chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy
Quảng Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh
mục bảng, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được bố cục theo 3 chương
sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách phát triển nhân lực của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển nhân lực các tổ chức Đảng
trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực các tổ
chức Đảng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam.

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho
con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của cơ thể người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia
vào quá trình lao động - con người có sức lao động.
1.1.2. Khái niệm về chính sách, chính sách công
Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các

phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách giản
đơn, chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản
lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục
đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà
họ quan tâm”.
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác
nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách
của Chính phủ, chính sách của chính quyền địa phương, chính sách của một
bộ, chính sách của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, chính sách của một doanh
nghiệp… Các tổ chức, các doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể… có thể đề ra
những chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vị một tổ chức, doanh
nghiệp, hiệp hội hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những
vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức
đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những “chính sách
7


tư”, tuy trên thực tế khái niệm “chính sách tư” hầu như không được sử dụng.
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ
máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng
được gọi là chính sách công. Khoa học chính sách nghiên cứu các chính sách
nói chung, nhưng tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu các chính sách công
nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách
công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Dưới
đây, Tác giả muốn dẫn chứng một số định nghĩa chính sách công khá tiêu
biểu của các học giả nước ngoài và trong nước để cùng tham khảo trước khi
đi đến một định nghĩa thích hợp. William Jenkin cho rằng: “Chính sách công
là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay

một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải
pháp để đạt được các mục tiêu đó” Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:
- Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là
một tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một
khoảng thời gian dài.
- Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban
hành. Nói cách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách
công.
- Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong
muốn của Nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa
chọn.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: “chính sách công là toàn bộ các hoạt
động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của
mọi công dân”. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính
sách công là Nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công
8


đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng.
TS. Đặng Ngọc Lợi trong bài viết đăng trên Tạp chí Kinh tế và dự báo
(số tháng 01/2012) tuy không đưa ra định nghĩa về chính sách công nhưng
cho rằng chính sách công là chính sách của nhà nước, của chính phủ (do Nhà
nước, do Chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và
chính sách nói chung của mỗi nước. So với các quan niệm trên thì điểm khác
căn bản trong cách tiếp cận nhận thức về chính sách công là tính công của
chính sách, tính công thể hiện trong quan niệm của TS.Đặng Ngọc Lợi là
nhà nước, Chính phủ khác với quan niệm của các học giả Âu Mỹ xem tính
công của chính sách là công cộng (công chúng, đối tượng chịu sự điều
chỉnh, tác động của chính sách). PGS.TS Lê Chi Mai cho rằng: “Cho đến
nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn là một

chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi”. Tuy vậy theo bà, chính
sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách
công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên
văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính
sách); chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong
đời sống KT-XH theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết
định chính sách có liên quan lẫn nhau. Trong bài viết của Bà còn đưa ra khái
niệm “chính sách tư” là chính sách do các cơ quan, tổ chức ban hành nhằm
giải quyết những vấn đề thuộc về nội bộ cơ quan, tổ chức, không có hiệu lực
thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan, tổ chức. Như vậy, so với các quan niệm
đã nêu ta thấy có những điểm tương đồng trong quan niệm về chính sách
công như: tính nhà nước, tính công cộng, tính hành động thực tiễn (coi quá
trình thực hiện là một phần của chính sách công). Bên cạnh việc nhìn nhận
một cách toàn diện các khía cạnh của khái niệm chính sách công từ nhiều
góc độ, khái niệm “chính sách công” được định nghĩa một cách ngắn gọn
9


như sau: “Chính sách công là những đường hướng ứng xử cơ bản của nhà
nước với những vấn đề chính sách phát sinh trong đời sống cộng đồng bằng
nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý xã
hội” [44]; hay “chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có
liên quan của nhà nước nhằm lưạ chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp
công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã
xác định’’ [31] hay “chính sách công là chương trình hành động hướng đích
của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng - tức quyền lực nhà
nước” [36].
Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công như đã
nêu trên, song điều đó không có nghĩa là chính sách công mang những bản
chất khác nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định

nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách
công. Những đặc trưng này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác
nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của
chính sách công.
1.1.3. Khái niệm về chính sách PTNL
Từ những phân tích đã nêu ở trên, có thể đưa ra khái niệm: Chính sách
PTNL là tập hợp các quyết định chính trị của chủ thể cầm quyền nhằm lựa
chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ thực hiện việc tối ưu hóa các hoạt động của
con người để đạt được mục đích nhất định.
1.2. Chính sách PTNL của Đảng cộng sản Việt Nam trong thể chế
chính trị Việt Nam
1.2.1. Đặc điểm của thể chế chính trị Việt Nam
Như đã biết thể chế chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng
cầm quyền duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam
là Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đường lối, chủ trương,
10


quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp
luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể (chính
sách công). Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của
Nhà nước, đồng thời, kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của
Đảng. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định
đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu
chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và
các tổ chức chính trị - xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
+ Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích

của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
+ Là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo
bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn;
bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát
và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống
chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động
trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá
nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm
quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
- Lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy.
11


Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Nhà nước quản lý:
+ “Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực
Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước
ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó

mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân;
giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của
Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm
sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương” [5, tr.85-86].
+ Nhà nước quản lý xã hội trước hết bằng hệ thống quy phạm pháp
luật, bằng hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước từ các bộ đến các cơ sở,
trong đó không loại trừ các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thực hiện sự
nghiêm minh của pháp luật. Nhà nước thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, xã hội, quản lý theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô
hoặc vi mô. Nhà nước thực hiện sự quản lý bằng cả chính sách, các công cụ
đòn bẩy khác... Mục tiêu của quản lý Nhà nước là phát huy mọi tiềm năng
12


sáng tạo của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho
nhân dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, phát huy sức
mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, nhằm phát triển nhanh và mạnh mẽ
lực lượng sản xuất của đất nước.
Trong thể chế chính trị Việt Nam, nói đến chính sách công cũng là nói
đến thẩm quyền, vai trò, chức năng của nhân tố lãnh đạo, quản lý, tức là của
tổ chức Đảng, Nhà nước. Có thể hiểu rằng, chính sách công là do Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính phủ) đề ra các chính
sách này là sự cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, mà các chủ
trương, đường lối đó, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: “Đảng ta là
đảng cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì
khác”.

1.2.2. Khái niệm tổ chức Đảng và hệ thống tổ chức Đảng
Theo tác giả Lê Quang Thưởng, nguyên Phó Trưởng Ban Tổ chức
Trung ương nêu tại Từ điển tổ chức và công tác tổ chức thì “Tổ chức Đảng là
tổ chức chính trị liên kết những người có giác ngộ lý tưởng, tự nguyện gia
nhập cùng nhau hành động và vì mục tiêu chung. Tổ chức của Đảng Cộng sản
Việt Nam được thành lập ở bốn cấp: cơ sở, huyện, tỉnh, Trung ương. Tổ chức
Đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng
đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức
trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương. Tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn
của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.” [19,
tr.290]. Ngoài ra, tác giả Lê Quang Thưởng còn định nghĩa về hệ thống các tổ
chức Đảng như sau: “Hệ thống các tổ chức đảng là toàn bộ các tổ chức đảng
chính trị được lập ra trong cả nước theo nguyên tắc nhất định, thích ứng với
13


tình hình đất nước và yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của đảng đó trong mỗi thời
kỳ, bảo đảm cho các hoạt động toàn đảng liên tục. Xương sống của hệ thống
đảng là cấp ủy và tổ chức đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ
chức hành chính nhà nước từ cơ sở đến các cấp huyện, tỉnh và Trung ương.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại
hội Đại biểu toàn quốc, cơ quan lãnh đạo cao nhất ở mỗi cấp là đại hội đại
biểu hoặc đại hội đảng viên; giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng
là ban chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp có ban chấp hành đảng bộ, chi bộ.
Cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy Đảng là các ban do cấp ủy cùng cấp
lập theo hướng dẫn của Trung ương. Các khối tổ chức đó của Đảng hợp lại
thành một thể thống nhất có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động lẫn nhau
để tồn tại và phát triển. Mỗi tổ chức Đảng có chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ

chức, mối quan hệ với các tổ chức khác trong và ngoài hệ thống theo các quy
định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước” [19, tr.292].
1.2.3. Khái niệm về CB, CC, VC
Ở nước ta, khái niệm công chức cũng đã được quan tâm xây dựng và
ngày càng hoàn thiện. Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
Sắc lệnh 76/ SL về “Quy chế công chức”, đây được xem là văn bản pháp luật
đầu tiên có liên quan trực tiếp đến khái niệm này. Quy chế xác định rõ nghĩa
vụ, quyền lợi của công chức, cùng các thể lệ về việc tổ chức, quản trị và sử
dụng các ngạch công chức trong toàn quốc, theo đó “những công dân Việt
Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên
trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức”.
Thời gian sau đó, chúng ta cũng đã có nhiều văn bản đề cập đến công chức,
công vụ và gần đây nhất, trước đòi hỏi của thực tiễn khách quan, ngày
13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật CB, CC. Theo
Khoản 2 Điều 4 của Luật này, “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển
14


dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.”. Cũng tại
Khoản 1 Điều 4 của Luật này quy định rõ về khái niệm cán bộ, như sau: “Cán
bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,

chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Theo quy định này, cán bộ luôn gắn
liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền
lực chính trị được nhân dân hoặc các thành viên trao cho và chịu trách nhiệm
chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tại tại Điều 3 của Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, ngày 25-01-2010 của
Chính phủ đã nêu rõ công chức trong cơ quan Đảng gồm:
“- Ở Trung ương: a) Người giữ chức vụ, chức danh cấp phó, trợ lý, thư
ký của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cục, vụ, cơ quan
thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng của Văn phòng
Trung ương Đảng, cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các ban đảng ở
Trung ương; b) Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó
người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra,
15


các ban của Đảng ủy khối và Đảng ủy ngoài nước trực thuộc Ban Chấp hành
Trung ương Đảng; c) Người làm việc trong bộ phận giúp việc của cơ quan, tổ
chức do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cơ quan do Ban Chấp hành Trung ương
Đảng quyết định thành lập.
- Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: a) Người giữ chức vụ, chức
danh người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu và người làm việc trong văn
phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban của tỉnh, thành ủy; b) Người giữ
chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người
làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban của Đảng ủy khối
trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy; c) Người làm việc chuyên trách trong văn phòng,
ban tổ chức, ban tuyên giáo, cơ quan ủy ban kiểm tra của Đảng ủy cơ sở được
giao quyền cấp trên cơ sở trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy.

- Ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Người giữ chức vụ, chức
danh người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu và người làm việc trong văn
phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban trực thuộc quận ủy, huyện ủy, thị ủy,
thành ủy trực thuộc tỉnh”.
Tại Điều 2 của Luật Viên chức 2010 quy định “Viên chức là công dân
Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại các đơn vị sự
nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, theo tác giả “CB, CC, VC trong các tổ chức Đảng” là công
dân Việt Nam được bầu cử tại đại hội đại biểu đảng bộ các cấp; được phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam; đang công tác trong các cơ quan Đảng Cộng sản
Việt Nam và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Có chức năng triển khai thực
hiện và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
Nhà nước và nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước giao.
16


1.2.4. Khái niệm về chính sách PTNL của Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ những phân tích các khái niệm đã nêu ở trên, vậy “Chính sách
PTNL các tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm nhiều hoạt động từ
tuyển dụng, tiếp nhận, đánh giá, bố trí, sử dụng, quy hoạch, điều động, luân
chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện các chế độ chính sách... đối với CB,
CC, VC để hình thành một tập thể CB, CC, VC bảo đảm về chất lượng, phù
hợp về số lượng và cơ cấu để hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ
Đảng, Hiến pháp và pháp luật”.
1.2.5. Chính sách PTNL cho hệ thống tổ chức của Đảng vừa là trách
nhiệm của Đảng vừa là trách nhiệm của Nhà nước
1.2.5.1. Yêu cầu của PTNL hệ thống tổ chức Đảng
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con

người là trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc
tế, PTNL được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi
mô hình phát triển KT-XH của đất nước; đồng thời, PTNL trở thành nền tảng
phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia, việc PTNL các tổ
chức đảng, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển tổng thể và
dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng những
định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn
chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho
giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh KT-XH trong nước và quốc tế. Để thực
hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế,
từ bối cảnh trong nước, PTNL các tổ chức Đảng phải đáp ứng những yêu cầu:
Thứ nhất, bảo đảm PTNL hệ thống tổ chức Đảng nói riêng và nguồn
nhân lực nói chung là một trong ba khâu đột phá cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Nghị quyết Đại
17


hội Đảng toàn quốc lần thứ XII: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại” [6, tr.429].
Thứ hai, xây dựng đội ngũ CB, CC, VC “vừa hồng vừa chuyên” phải
có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân,
với chế độ xã hội chủ nghĩa; đủ năng lực để điều hành và quản lý đất nước
trong tình hình mới.
Thứ ba, sự PTNL hệ thống tổ chức Đảng cần đáp ứng yêu cầu phát
triển cân bằng hơn giữa các cấp, giữa các vùng miền, phải xuất phát từ yêu
cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng để phát triển đất

nước.
1.2.5.2. Các giải pháp chính sách PTNL hệ thống tổ chức Đảng
Để chính sách PTNL của Đảng thật sự có hiệu quả cần có sự phối hợp
đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các tổ chức của Đảng để đề ra các giải pháp
hiệu quả nhất, như sau:
Thứ nhất, trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nguồn nhân lực là nhân
tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp
CNH, HĐH. Đầu tư nhân lực bằng cách cử đi học tập, đào tạo ở trong và
ngoài nước để hình thành đội ngũ có chất lượng cao. Có chính sách kêu gọi,
hỗ trợ kinh phí học tập, sáng tạo gắn với một số chế tài đảm bảo đối tượng
tham gia đào tạo trở về phục vụ cho địa phương nhất là đội ngũ đào tạo ở
nước ngoài.
Thứ hai, đổi mới chính sách tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử
dụng, trọng dụng và phát huy nhân lực. Trước hết là phải tiến hành quy hoạch
nhân lực, đây là nhiệm vụ quan trọng của các bộ, ngành và tỉnh, thành phố
18


nhằm đảm bảo cân đối về lao động cho sự phát triển của các ngành và địa
phương. Khi xác định các mục tiêu phát triển KT-XH của các địa phương,
cùng với cân đối về vốn, về đất và năng lượng, cân đối về nhân lực có vai trò
quyết định đối với thu hút đầu tư và đảm bảo hiệu quả phát triển. Đối với cấp
quốc gia và các địa phương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức các tỉnh
ủy, thành ủy là cơ quan thường trực xây dựng và giám sát triển khai quy
hoạch nhân lực quốc gia và các địa phương. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ
và thu hút nhân tài từ các nơi khác đến làm việc cho địa phương. Nâng cao
nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong việc đổi mới cơ chế, trọng dụng
nhân tài, sử dụng và phát triển tài năng của thế hệ trẻ một cách hợp lý; chống
các quan điểm tiêu cực, cục bộ trong việc bố trí và sử dụng nhân tài. Bên cạnh
đó có chính sách, chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần, chính sách tiền

lương và khen thưởng hợp lý. Đối với đội ngũ CB, CC, VC hiện có có cần tạo
điều kiện môi trường làm việc thuận lợi cho họ, việc đào tạo và đào tạo lại
cho đội ngũ CB, CC,VC thích nghi với sự phát triển của khoa học, công nghệ
của kinh tế thị trường phải được tiến hành thường xuyên nhất là đáp ứng được
yêu cầu trong tình hình mới. Tạo môi trường làm việc thông thoáng đội ngũ
CB, CC, VC.
Thứ ba, huy động các nguồn lực cho đầu tư nhân lực. Đảng, Nhà nước
cần tăng cường đầu tư cho phát triển, đẩy mạnh xã hội hóa; tăng cường thu
hút các nguồn vốn từ nước ngoài; tăng cường đàm phán, vận động và xúc tiến
đầu tư để thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài gồm vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, vốn viện trợ chính thức và tài trợ của các tổ chức, cá nhân người nước
ngoài, vốn của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư cho nhân lực.
Đồng thời, tập trung các nguồn vốn từ nước ngoài để xây dựng các trường đại
học trình độ quốc tế, cơ sở đào tạo chất lượng cao, thực hiện các dự án PTNL
trình độ cao.
19


×