Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

bai tap lam van so 2 lop 11 de 3 nhan cach nha nho chan chinh trong bai tho bai ca ngan di tren bai cat cua cao ba quat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.69 KB, 11 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Bài tập làm văn số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài
thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

A. Dàn ý bài tập làm văn số 2 lớp 11 đề 3
1. Giới thiệu khái quát về Cao Bá Quát
Một nhà nho tài năng và bản lĩnh, thể hiện nhân cách một nhà nho chân
chính.
2. Những nét chung về nhân cách một nhà nho chân chính
- Tư tưởng hành đạo, nhập thể tích cực để trị nước, giúp đời.
- Xem thường bổng lộc, danh hoa phú quý.
- Trong mọi hoàn cảnh đều giữ được khí tiết của một nhà nho.
3. Nhân cách nhà nho chân chính trong “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”
a. Chọn con đường hành đạo của người trí thức xưa: học hành- khoa cửlàm quan để giúp đời.
b. Nhận thức được thực tế xã hội: nhà Nguyễn đang đi vào giai đoạn suy
sụp với sự bảo thủ, lạc hậu, trì trệ.
c. Cái nhìn mới về con đường khoa cử- danh lợi:
- Con đường danh lợi là “cùng đồ”.
- Hình ảnh lữ khách đi trên bãi cát: Bãi cát tượng trưng cho đường đời
gian nan; sự bế tắc của con đường tiến thân mà Cao Bá Quát đang đi.
- Thấy được tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử.
- Ý thức phải thoát khỏi cơn say danh lợi.
d. Niềm khát khao được thay đổi cuộc sống.
- Trăn trở tìm một lối thoát trong hoàn cảnh bế tắc: “tính sao đây?”,
“Còn đứng làm chi trên bãi cát?”.
4. Khẳng định vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính Cao Bá
Quát.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



B. Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi
cát của Cao Bá Quát
Bài làm 1
Ta vẫn thường nghe: "Tài cao phận thấp, chí khí uất". Dường như cái tài năng
vẫn chưa đủ để con người ta tỏa sáng những còn bởi một chữ "phận". Đó cũng
chính là bi kịch cuộc đời của một con người tài hoa bậc nhất Cao Bá Quát.
Ông hiện ra là một nhà nho giỏi, đức độ với một tâm hồn văn chương và cốt
cách thanh cao. Được nhân dân tôn lên hàng thánh - thánh Quát. Vậy nhưng
đương thời Chu Thẩn lại phải trải qua biết bao khổ ải, gian truân của một chế
độ phong kiến thối nát suy tàn. Những nỗi niềm xót xa, phẫn uất của một đấng
nam nhi đã được ông gửi gắm kín đáo trong tác phẩm Sa hành đoản ca.
Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát vốn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan
niệm "chí làm trai". Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc trượng phu
đương thời, ông luôn tâm niệm va khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ
vang hiển hách cho đời, coi đó là lý tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là
món nợ phải trả - "nợ tang bồng". Ông vố đã sớm được coi như một tài năng
xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng chứng tỏ rõ
khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Tuy nhiên đứng trước một
xã hội phong kiến bảo thủ, trì trệ và khủng hoảng, con người ấy đã không thể
thỏa mãn khát vọng của mình.
Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ
nên một con đường rất dài. Bức tranh sa mạc mênh mông cát trắng với bóng
người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, vậy ra đi mà
thực ra không đi. Đó là một hình ảnh rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ.
Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác giả, cái tủi nhục của bãi cát
cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy - khó nhọc mà
xa vời. Đối với trí thức nho sĩ ngày xưa, con đường học - thi - làm quan ấy

đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và
đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình.
Suốt những năm từ lúc 14 tuổi cho đến khi 31 tuổi, Cao Bá Quát đã vào Huế
đi thi không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào ông cũng bị đánh hỏng. Không
phải vì ông không có tài mà vì lẽ cái tính cách ngông nghênh của ông vốn đã


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

quá nổi tiếng và không được lòng các vị quan triều thần. Đến đây lời thơ như
những tiếng thở dài của chính tác giả, ta thấy được trướng nhất là sự chán
ngán của Chu Thần trước thời cuộc. Bản thân ông ngày càng nhận thức được
sự lạc hậu, thoái hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển
mình của thời thế.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
"Mặt trời lặn" là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm
dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách "chưa
dừng được". Vì sao chưa dừng được? Bởi lữ đường còn dài mà đích thì chẳng
thấy đâu. Con đường cuộc đời ông đi mãi mà ông vẫn chưa tìm được cho
mình chỗ đứng trong xã họi, chưa thỏa mãn ý chí lập nên công danh. Vậy nên
bản thân ông không cho phép mình dừng lại. Nếu ở câu đầu mở ra là sự rộng
lớn của không gian thì đến lúc này, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên
tục của thời gian, tất cả những yếu tố thiên nhiên vũ trụ ấy dường như đều là
lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát. Do đó,
ông thấy mình trơ trọi cô đơn trước bãi cát hoang vu ấy và tự khóc cho số
phận dai dẳng của mình. Có thể những giọt nước mắt ấy ban đầu chỉ đơn
thuần do tác động của ngoại cảnh (gió, cát, bụi) nhưng chúng trở nên đắng
hơn, mặn hơn và xót xa hơn bởi tâm sự của tác giả. Để rồi từ đây, những cung
bậc cảm xúc của Chu Thần được đưa lên một vị trí mới:

Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối giận khôn vơi.
Chu Thần đang giận ai hay giận cái gì vậy? Ông đang giận chính bản thân
ông bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, ta có thể hiểu: trước những cảnh đời khổ cực của
nhân dân và thời thế thay đổi, ông dù một lòng trung quân ái quốc, hết mực
thương dân nhưng vẫn chưa thể làm để đem tài năng ra giúp dân giúp nước.
Ngay cả Nguyễn Công Trứ "ngất ngưởng" là thế mà con luôn tâm niệm "nghĩa
vua tôi cho vẹn đạo sơ chúng". Vậy nên ông tự trách bản thân vẫn chưa làm
tròn nhiệm vụ với giang sơn xã tắc: "Không có lấy một sách lược gì làm cho
đời được thái bình, thẹn mình là nhà nho mà lại tầm thường đến thế". Tâm sự
này của ông khiến ta cảm thấy trân trọng một con người có tấm lòng đức độ
và tâm hồn thanh cao trong thơ văn: "Nhất sinh đê thủ bái mao hoa".


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Thứ hai, ông vô cùng hổ thẹn vì dù đã đeo đuổi con đường thi cử rất lâu mà
vẫn chưa có được chức danh xứng đáng, vẫn chưa đạt được công danh để cho
người đời thán phục. Thế nên lòng người càng trở nên bế tắc, oán hận và bi
phẫn. Ông đã từng dùng hình ảnh tượng trưng để nói lên khí chất cao vời của
mình"
"Ta ngẩng đầu lên nhìn tận ngoài trời
Những muốn vịn mây mà lên cao mãi."
Ông mong muốn có được phép thần tiên kì diệu để có tiếp tục đi trên con
đường chông gai mặc cho đói khát, mệt mỏi hay buồn ngủ. Hy vọng có thể
mau chóng tìm ra cho mình một cái đích rõ ràng.
Cách hiểu cuối cùng rất sâu sắc: đó chính là sự thoát li khỏi thực tại tầm
thường. Đến như Nguyễn Công Trứ lỗi lạc là thế mà còn tìm kiếm lối thoát
bằng cách cáo quan ở ẩn. Ở đây, Cao Bá Quát giá như bản thân có thể nhắm
mắt làm ngơ, mặc cho sự đời biến đổi và mong muốn vất bỏ phiền muộn.

Nhưng không! Với lý tưởng cao cả, chí khí ngoan cường, Chu Thần không thể
thực hiện điều trái với đạo lý của bản thân. Do đó, cái "giận khôn vơi" ở đây,
càng chiếu soi, làm tỏ hiện cho ta thấy được một Chu Thần với nhân cách cao
cả, quý giá biết bao. Ông không muốn trốn tránh khó khăn nhưng luôn biết đối
đầu và khắc phục khó khăn. Thật là nhân cách đáng ngưỡng mộ.
Những câu thơ tiếp theo lại đem đến cho người đọc về cái nhìn cảu Cao Bá
Quát trước cảnh xã hội mưu cầu danh lợi:
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Con đường danh lợi cũng là một thứ rất đường đời thật gập ghềnh, trắc trở.
Công danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải
bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí đểm thảm hại chạy theo vật
chất. Học hành, độ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, con
đường lập thân, sự nghiêp ấy sao quá đỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái
gì đó lớn lao hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái
sức lôi cuốn của tiền tài. Họ chẳng khác nào những con thiêu thân, lao đầu vào
nơi có ánh sáng và đông không kể. Qua đây, Cao Bá Quát cho thấy được điểm


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

nhìn tuyệt vời của mình. Đó là cái nhìn bao quát thực tại bình thường, vượt ra
cả không gian và vượt lên trên thời gian. Những suy nghĩ ấy đã đi trước thời
cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên bác vượt bậc của danh sĩ họ Cao.
Cũng có thể thấy được thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan
niệm của các sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người
say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo con đường này. Trong tâm
trí đang tự hỏi mình "tỉnh" hay "say"? Để rồi lại trút tiếng thở dài vô vọng:

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít.
Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc,
lòng luôn thao thức câu hỏi: "tính sao đây?". Khó khăn tiếp nối khó khăn, nhìn
bốn bể, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Lúc này,
Chu Thần đã bị đẩy vào "đường cùng". Dường như, trongong đang có sự đấu
tranh quyết liệt, ông dậm chân tại chỗ. Cao Bá Quát không muốn đi tiếp vì
biết đường gian khổ mà vô định. Nhưng có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng
thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời.
Vì không còn một con đường nào khác cho bất cứ một ai, kể ra những người
có chí lớn vượt ra ngoài sự nghiêp công danh. Bi kịch của Chu Thần không
chỉ là của riêng Chu Thần, nhưng còn là bi kịch của thời đại, một thời đại sắp
đi đến phút cáo chung.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả
lời cho mâu thuân nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính
chất vô nghĩa của con đường "bãi cát" ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình:
cái nhìn sáng suốt và đầy đạo đức: từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới.
Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn: "Trên thế gian làm gì có đường,
người ta đi mãi thì thành đường thôi." Quả thật vậy, câu hỏi tu từ: "Anh đứng
làm chi trên bãi cát?" như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối
đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mỹ Lương, chống lại triều đình nhà
Nguyễn - việc làm để lại tiếng danh muôn đời và khiến thế hệ sau nể phục
khôn nguôi.
"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là bài thơ ngắn mà dài, hiện thực mà đầy tượng
trưng, trữ tình mà đầy bi phẫn với ý thơ hàm súc, đa nghĩa. Ẩn chứ trong tác
phẩm là những suy nghĩ kín đáo của tác giả, là tâm tình da diết với đất nước,
là khí phách hiên ngang của chí làm trai, là trí tuệ thông thái, là cái nhìn vượt
thời gian, là ước muốn cải cách xã hội và cũng là nhân cách cao đẹp của nhà
nho chân chính Cao Bá Quát.
Bài làm 2
Bãi cát lại bãi cát dài
Đi 1 bước như lùi 1 bước.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được.
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Ẩn dụ về con đường duy nhất để "lên đời" trong xã hội pk thối nát. Ngay từ
đầu bài thơ ta đã bắt gặp hình ảnh lộ- đồ- con đường. Đường đi trên cát mang
ý nghĩa biểu tượng cho con đường đời, con đường ấy dài vô cùng tận, đầy rẫy
những khó khăn, chông gai, mờ mịt ko biết chọn ngả nào, hướng nào. Để đạt
được chân lí của cuộc đời, nta phải vượt qua muôn ngàn khó khăn
Người đi đường là nv trữ tình, là người kẻ sĩ đi tìm chân lí giữa cuộc đời mờ
mịt, hay đó chính là hiện thân ủa Cao bá Quát
Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Điển tích (SGK có) Đây là lời tự bạch, nỗi cay đắng, những suy nghĩ đầy mâu
thuẫn giữa mơ ước khát vọng sống cao đẹp với hiện thực mờ mịt, giữa tinh
thần xông pha trên con đường đi tìm lí tưởng với nhu cầu hưởng lạc cầu an lúc
bấy giờ, Ngưòi đi đường hiểu rằng phải học để đi thi, nhưng khi đỗ đạt làm
quan như bao phường danh lợi khác thì học và thi để làm gì? Tác giả những
mong mình học được tiên ông cái phép ngủ, cái phép "thụy du" như thái độ
Ng Công Trứ

Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Không quan tâm đến người đời nói gì, nghĩ gì, sống thảnh thơi nhàn hạ, vô ưu,
thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với
những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi
trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất
chồng.
Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời.
Ý muốn nói với ta rằng cuộc đời đầy những bọn danh lợi chen chúc, chúng
mưu sinh, hưởng thụ say sưa và ko ai đi cùng m trên con đường mờ mịt trên
cát, chỉ có 1 mình đơn độc biết bao!
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Chuyện mưu cầu danh lợi cũng như chyện thưởng thức rượu ngon, ít ai tránh
được sự cám dỗ
Cách nói ấy nhằm mục đích làm nổi rõ mình với đông đảo những người chạy
theo danh lợi và để khẳng định mình ko thể hòa trộn với chúng
Cách nói ấy chứng tỏ người đi đường đã tỏ thái độ khinh thường với phường
danh lợi. Ông là kẻ cô đơn ko có đồng hành và sự thực ấy làm người đi đường
rất cay đắng.
Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ
nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng.
Trước hoàn cảnh ấy, người đi đường đặt ra câu hỏi day dứt: Đi tiếp hay dừng
lại?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi !

Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Và dĩ nhiên ông đã ko dừng lại mà tiếp tục bước đi...
Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần
trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên
ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp,
cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột:


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Hãy nghe ta hát khúc " đường cùng ",
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phái nam núi Nam, sóng dào dạt.
Người đi đường nhận ra rằng m ko chỉ cô độc trên đường đời mà còn đang đi
trên con đường cùng, sự bế tắc trên đường đời, nhìn về phía bắc thì thấy núi
non muôn trùng, nhìn về phía nam thì núi sau lưng, sông trước mặt, khó khăn
và gian nan, nguy hiểm.Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi
không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như
dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô
đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài
thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm: người hành nhân ấy vẫn cứ
đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng
sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây
phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình
mình đứng trơ trên bãi cát. Đi tiếp hay lùi lại? Tiến thoái lưỡng nan! Người đi
đường chỉ còn biết đứng chôn chân trên cát
Anh đứng làm chi trên bãi cát? ( Câu hỏi mở, gần giống với câu: Sống trên đời,
kẻ ko học thức cả kẻ có học đều tự biến mình thành ra 1 lũ bò sáng ăn, tối ngủ,
chỉ khư khư làm theo lời chủ và cây roi. Như Thế có phải là cách sống đúng

nghĩa đối với 1 con người?)
=> Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời
gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn
có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu
cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu: trong cảnh ngộ tuyệt
vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi
vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.
Thêm: Cao Bá Quát đã từng chia trí thức ra làm ba loại, ứng với ba loài chim.
Loại thứ nhất là hồng hộc bay giữa trời xanh. Loại thứ hai là hạc đen ẩn mình
bên sườn núi. Loại thứ ba là hoàng yến luẩn quẩn ở chốn lâu đài của kẻ quyền
quý. Khỏi phải nói con người cả đời chỉ biết bái tạ cành hoa mai như Cao Bá
Quát thích loại chim nào và khinh loại nào. ==> Quan điểm của ông ==>
Nhân cách của ông
Bài làm 3


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Phải nói rằng có những nhà thơ, nhà văn mà bóng dáng của họ giờ chỉ là niềm
hoài cổ, dĩ vãng xa xưa. Nhưng ngược dòng thời gian, vẻ đẹp tâm hồn của
những con người ấy vẫn mãi toả sáng, vĩnh hằng. Chúng ta càng thấm thía hơn
điều đó khi đến với”bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát và “bài ca
ngất ngưỡng” cuă Nguyễn Công Trứ- hai tác phẩm thấm đẫm vẻ đẹp nhân
cách của nhà nho chân chính.
Trước hết, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm đều là sự
thể hiện quan điểm của mình về con đường danh lợi. Tuy nhiên mỗi người lại
có một cách bộc lộ khác nhau về ước mơ thời đại ấy. Cao Bá quát chán ghét
thốt lên rằng:
“Bãi cát dài bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khấch trên đường nước mắt rơi”
Phẳi chăng do quá lận đạn với dường danh lợi nên ông đx không mấy khất
khao khi nhắc đến nó? Với ông dường như sự nghiệp đậu đạt làm quan là quá
gập ghềnh, trắc trở. Nói diều ấy không có nghĩa Cao Bá Quát không có tài mà
ngược lại, ông là một người có học vấn uyên thâm. Nguyên ngân chủ yếu làm
mất đi một nhân tài đất nước như ông cũng là vì sự suy thoái cử xã hội, sự
khủng hoảng của thời đại. Với cách sử dụng hình tượng bãi cát đầy tính gợi
hình, và hình ảnh người đi trên bãi cát vô cùng tinh tế, Cao Bá Quát đã miêu
tả rất thành công sự mệt nhọc, vất vả của người đi trên con dường danh lợi.
Con dường ấy dài lắm, khó đi lắm đến nỗi giọt nước mắt của những người trí
thức phải tuôn rơi. Giọt nước mắt đó là tiếng khóc cho sự vất vả, mệt mỏi, giọt
nước mắt khóc thương cho biết bao năm đèn sách không là gì cả mà hơn nữa,
đó là tiếng khóc của thời đại, tiếng lòng bi thương cho một xã hội suy đồi.
Còn đến với Nguyễn Công Trứ, ta lại cảm nhận một suy nghĩ khác:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”
May mắn hưon Cao Bá Quat, Nguyễn Công Trứ rất thành công trong sự
nghiệp của mình, nhưng không vì thế mà ông đề cao con đường làm quan.
Dường như có một sự tương đồng nho nhỏ trong suy nghĩ của hai nhà nho lớn
khi Nguyễn Công Trứ cũng camt thấy bị gò bó, ép buộc chốn quan trường.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua từ “vào lồng”. Có lẽ rằng sống trong thời
đại đó thì cái đíh phấn đấu cuối cùng của nhà nho là một chức quan. Với họ,
học là để thi cử, dèn sách là để được vinh danh. Nhưng chúng ta không nên
quá phê phán lối suy nghĩ ấy bởi đó là mục đích sống của cả một thế hệ. Nếu
nhue không đi theo con đường ấy, họ sẽ chẳng có một lối rẽ nào khác cả.

Không dừng lại ở đó, cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại một dáu
ấn riêng qua Tác phẩm của mình để khẳng định phong cách . Với Cao Bá Quát,
phong cách nhà nho chân chính thật sự toả sáng kho ông có quan niệm sống
vô cùng tiến bộ.
Con đường danh lợi gập ghềnh đến thế thì bạn hãy tự thoát ra. Một bước đi để
đường đời thay đổi, để không còn phải vất vả bon chen, hướng tới một tương
lai tốt đẹp hơn. Đâu phải chỉ có làm quan mới là con đường duy nhất đi tới
thành công, hãy chọn cho mình một lối rẽ riêng, không xô bồ, chen lấn.Đừng
để vòng xoáy danh lợi nhấn chìm những con người tài giỏi vào hố sâu, dũng
cảm bước ra khỏi vòng xoáy ấy mới là quyết định sáng suốt nhất. Cao Bá
Quát đã có một quan niệm rất đúng đắn, vượt qua thời đại để hướng con người
tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Đó cũng là bước đi đầu tiên để làm thay đổi
xã hội, thoát khỏi sự lũng đoàn, suy đồi. Từ đó, Cao Bá Quát đã trở thành một
biểu tượng của nhà nho chân chính, rất khác biệt so với các thế hệ trước. Cũng
là một nhà nho chan chính, vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Công Trứ thể hiện
qua phong cách, bản lĩnh cá nhân của mình.
… “Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nen dạng tằ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng “ngất ngưởng”. Ông luôn làm
những điều khác thường, không giống người trong khi mình là một vị quan
trên muôn dân. Không những thế, ông còn khoe khoang tự đại về thành tích,
công lao của mình, rồi coi mình cao hơn người khác. Hơn thế nữa, Nguyễn
công Trứ còn có một cuộc sống vô cùng tự do,phóng khoáng. Vượt lên cả
những lời đồn thổi tầm thường, ông sống mà không để ý đến xung quanh. Một



VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

cuộc sông đúng với choính mìn, sống thật với bản thân. Nhưng ông mãi sống
trong lòng nhân dân với một hình ảnh vô cùng tốt đẹp, rất đáng kham phục.
Cũng bởi vì ông đã công hién rất nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước, có
những tháng ngày sống hết mình vì nhân dân. Cành đáng trân trọng hơn nữa
đó là ông đã dám thể hiện cái “tôi” cá mhân của mình. Một cái tôi bản ngã vượt lên thời đại. Một nhà nho chân chính là người dám nói, dám thể hiện bản
lĩnh của mình trước thiên hạ. Và ông đã làm được điều đó, xứng đáng với vị
trí của mình trong đất nước.
Đúng vậy, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua 2 tác phẩm “Bài ca ngăn
đi trên bãi cát” và “Bài ca ngất ngưỡng” được thể hiện rất thành công. Tuy
mỗi người có một phong cách riêng nhưng nó đều đã trỏ thành một nốt nhấn
thời đại, trở thành điểm sáng thẩm mĩ trong lòng người đọc bởi ấy là vẻ đẹp
biểu tượng của con người Việt Nam trong thời đại dĩ vãng, xa xưa.



×