Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế từ thực tiễn tập đoàn công nghiệp cao su việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.76 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC THÁI

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
TỪ THỰC TIỄN TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC THÁI

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
TỪ THỰC TIỄN TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI - 2017
HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
TÊN TÁC GIẢ

NGUYỄN QUỐC THÁI


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ ............................................................ 7
1.1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ............................. 7
1.2. Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ......................12
Chương 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ TỪ THỰC TIỄN TẬP ĐOÀN
CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM..................................................................... 32
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ................................................................................................................... 32
2.2. Thực tiễn giao kết Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Tập đoàn công
nghiệp cao su Việt Nam ................................................................................................ 54
Chương 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO

KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY .............................................................................................................................. 64
3.1. Những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế .................................................................................64
3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế .................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống pháp luật thương mại của mỗi nước cũng như trong các điều
ước, tập quán quốc tế về thương mại, chế định hợp đồng mua bán hàng hoá có vị trí
quan trọng. Đây là công cụ pháp lý bảo đảm có hiệu quả quyền lợi của các bên, là
cơ sở cho việc giải quyết những bất đồng phát sinh khi thực hiện hợp đồng.
Để bảo đảm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã chủ động xây dựng và
ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ về thương mại, dân sự, kinh
tế có yếu tố nước ngoài. Nhà nước ta cũng tham gia, ký kết nhiều điều ước quốc tế về
kinh tế, thương mại... với nhiều tổ chức quốc tế và với nhiều quốc gia. Tuy nhiên, các
quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài vẫn còn là lĩnh vực phức tạp và mới mẻ cả về phương diện lập pháp và áp
dụng trong thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên cứu. Nhiều quy định của pháp luật về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài vẫn chưa tạo ra cơ
sở pháp lý quan trọng cho việc xác lập quan hệ mua bán hàng hoá với nước ngoài,
chưa thực sự thể hiện được đầy đủ chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập. Những bất cập này cần phải được loại bỏ để
phát huy hơn nữa vai trò của pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài trong giai đoạn mới, thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế

quốc tế.
Từ thực tiễn và kinh nghiệm của các nước nói chung và của Việt Nam nói
riêng, chúng ta ngày càng nhận ra vai trò to lớn của pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, đặc biệt từ thực tiễn Tập đoàn công nghiệp cao su Việt
Nam trong tiến trình phát triển nền kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về
mặt lý luận các vấn đề liên quan đến việc giao kết loại hợp đồng này để trên cơ sở đó
đánh giá thực trạng và xác định phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá mua bán hàng hoá quốc tế, đặc biệt từ thực tiễn
Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam trong điều kiện hiện nay đang là vấn đề có ý

1


nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Điều này không chỉ góp phần điều chỉnh có hiệu quả
về mặt pháp lý đối với hoạt động thương mại mà còn góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật thương mại nói riêng và hệ thống pháp luật kinh tế ở Việt Nam nói chung.
Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
từ thực tiễn Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam” để nghiên cứu và làm Luận
văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá là bộ phận pháp luật có vị trí quan
trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hoá chỉ thực sự được định hình với các quy định của Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế năm 1989 và đặc biệt sau đó là Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật
Thương mại năm 1997. Vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng
hoá nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài nói riêng
đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu nhằm phân
tích, luận giải và đưa ra những kiến nghị.
Về quan niệm và việc xác định các tiêu chí của hợp đồng mua bán hàng hoá
với thương nhân nước ngoài, đã có nhiều công trình đề cập trong đó tiêu biểu là

Giáo trình Luật Thương mại, Giáo trình Tư pháp quốc tế của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005); Giáo trình Luật
Thương mại quốc tế của Khoa Luật, Đại học Kinh tế quốc dân (Nhà xuất bản Lao
động - Xã hội, Hà Nội, 2002), cuốn sách “Làm thế nào để tránh rủi ro pháp lý khi
mua bán” (Nhà xuất bản Pháp lý Hà Nội, 2003). Những nghiên cứu trong các công
trình này đã đưa ra quan niệm và xác định tương đối rõ các tiêu chí của hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài.
Việc lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng cũng được đề cập trong nhiều
công trình, trong đó nổi bật là các công trình như “Xuất khẩu và hợp đồng xuất
khẩu”, (Nhà xuất bản Trẻ năm 1999), “International Business Contract” (Nhà xuất
bản Thống kê năm 1997),

“California’s Approach to Choice of Law in the

Absence of an Effective Choice by the Parties” được xuất bản bởi Nevada
Corporate Planners (Las Vegas, Hoa Kỳ), “Preparing the contract” được xuất bản

2


bởi Trung tâm Thương mại Quốc tế (Thuỵ Sĩ)... Nhìn chung, các công trình này đều
thống nhất về cách thức lựa chọn luật áp dụng là lựa chọn hệ thống pháp luật của một
nước, một khu vực, một điều ước quốc tế, thậm chí là một nguyên tắc hoặc tập quán
quốc tế. Cách lựa chọn luật phổ biến được chỉ ra là lựa chọn pháp luật của một nước
làm luật điều chỉnh hợp đồng.
Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài, nhiều nhà khoa học như PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, PGS.TS. Phạm Duy
Nghĩa... trong các Giáo trình Luật Thương mại và Giáo trình Tư pháp quốc tế nêu
trên đã nêu bật các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá với thương
nhân nước ngoài. Trong nghiên cứu của mình, PGS.TS. Nguyễn Bá Diến chỉ ra rằng,

pháp luật mỗi nước có những quy định khác nhau về các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng và khi giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện hiệu lực của hợp đồng,
pháp luật nước ngoài áp dụng luật riêng biệt của hợp đồng.
Về các giai đoạn của giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài, đã có nhiều công trình đề cập trong đó tiêu biểu là cuốn sách
‘International Business Law’ tại Nhà xuất bản Prentice Hall (Hoa Kỳ) năm 1993 và
Giáo trình Luật Thương mại của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà nội năm 2002...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về vấn đề này đều quan niệm quá trình giao
kết phải trải qua hai giai đoạn là đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng. Nhiều nhà khoa học đã tiếp cận một số chủ đề riêng biệt liên quan
đến giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, ví dụ
PGS.TS Trần Đình Hảo đề cập đến thương nhân trong thương luật Mỹ, PGS.TS
Phạm Hữu Nghị đề cập tới pháp luật xuất, nhập khẩu của Mỹ trong cuốn sách:
‘‘Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ’’ tại Nhà xuất bản Khoa học xã hội
năm 2002 do GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên, PGS.TS Nguyễn Như Phát,
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa đã đề cập đến Điều kiện chung về mua bán hàng hoá
trong Giáo trình Luật Thương mại của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà nội và trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, GS.TS Lê Hồng Hạnh đề cập đến khái niệm
thương mại trong pháp luật Việt Nam trên Tạp chí Luật học, PGS.TS Dương Đăng
Huệ bàn về vấn đề hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam trên Tạp chí Nhà

3


nước và Pháp luật, TS. Nông Quốc Bình đề cập tới nguyên tắc trung thực trong
thương mại trên Tạp chí Luật học...
Do tính chất thời sự của chủ đề nghiên cứu, nhiều nghiên cứu sinh, học viên
cao học luật đã tiếp cận nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài như luận án của Lê Hoàng Oanh: “Hoàn thiện pháp luật thương mại hàng
hoá ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, các luận văn của Thái Tăng

Bang: “Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá”, Vũ
Tiến Đức: “Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá”... Những
công trình này đã tiếp cận ở các góc độ khác nhau như thực trạng pháp luật về thương
mại hàng hoá, nguồn luật điều chỉnh, xử lý vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài... Tuy nhiên, nhiều nội dung liên quan đến giao kết hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài chưa được các công trình nêu
trên khai thác như quan hệ tiền hợp đồng, vấn đề lựa chọn luật áp dụng và điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng… đặc biệt từ thực tiễn hoạt động của Tập đoàn công nghiệp
cao su Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế; thực trạng và
thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế từ thực tiễn Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam, để từ đó đề xuất những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường và xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được
xác định cụ thể gồm:
+ Nghiên cứu để làm rõ hơn những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế theo pháp luật Việt Nam dựa trên cơ sở chỉ rõ những điểm tương
đồng và khác biệt giữa vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và hợp
đồng mua bán hàng hoá trong nước.

4


+ Phân tích một cách toàn diện hơn thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật
Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, từ thực tiễn Tập đoàn
công nghiệp cao su Việt Nam từ đó đưa ra những kết luận về thực trạng nội dung

điều chỉnh và những vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề đó.
+ Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần đổi mới, hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu của luận án là các tư liệu về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài và các quy định của pháp luật Việt Nam
về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu
của luận án còn có các văn kiện của Đảng, Nhà nước liên quan đến xây dựng pháp
luật thương mại Việt Nam, các báo cáo tổng kết hoạt động thực tiễn của các cơ quan
chức năng có liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế.
+ Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế từ thực tiễn của Tập đoàn công nghiệp cao
su Việt Nam mà không đi sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, không nghiên cứu vấn đề giao kết hợp đồng trong giao
dịch thương mại điện tử.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới,
luận án tập trung sử dụng một số phương pháp chủ yếu: phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp so sánh luật học. Các phương pháp này
được vận dụng trong nhiều phần khác nhau của luận án như phân tích làm rõ sự
khác biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, về khung pháp luật đối với
quan hệ tiền hợp đồng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ngoài
ra, luận án còn được nghiên cứu trên cơ sở xem xét, so sánh tính phổ biến của pháp
luật và thông lệ quốc tế về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với tính đặc thù của
pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam do các điều

5



kiện kinh tế, lịch sử cụ thể chi phối. Luận án cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và
thực tiễn trong việc nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung thêm những luận cứ khoa
học về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo pháp luật Việt Nam dựa trên
cơ sở chỉ rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế và hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.
Kết quả nghiên cứu của luận ăn cũng có thể là tư liệu tham khảo có giá trị
trong quá trình nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, là tư liệu cho công tác thực tiễn và giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo về pháp luật và kinh tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thực hiện theo cơ cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế từ thực tiễn Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam hiện nay

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ

1.1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

1.1.1. Hàng hoá và hành vi mua bán hàng hoá trong quan hệ mua bán
hàng hoá quốc tế
Đối tượng của quan hệ mua bán hàng hoá nói chung và mua bán hàng hoá
với thương nhân nước ngoài nói riêng là hàng hoá. Hàng hoá với tư cách là sản
phẩm mua bán là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của quan hệ mua bán hàng hoá.
Một hợp đồng mua bán hàng hoá không thể được xác lập nếu thiếu yếu tố cơ bản là
hàng hoá. Dưới góc độ pháp luật, dựa vào đặc trưng của từng loại mà hàng hoá được
phân thành bất động sản (gồm đất đai, nhà ở, công trình xây dựng, tài sản gắn liền với
đất đai) và động sản, tài sản hữu hình và tài sản vô hình hoặc các quyền tài sản. Hàng
hoá có thể là vật, là lao động của con người, là các quyền tài sản mang tính vô hình
[45, tr 111].
Thông thường, các nước đều xác định những đối tượng nào được coi là hàng
hoá. Ví dụ, theo Luật Mua bán hàng hoá của Vương quốc Anh năm 1973, hàng hoá
gồm hoa lợi và những vật dụng gắn liền hoặc hình thành một phần của đất đai đã
được thoả thuận sẽ tách ra trước khi bán hoặc theo hợp đồng mua bán[57].
Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (UCC) (điều 2-105) định nghĩa:
“Hàng hoá nghĩa là tất cả các vật (bao gồm cả những hàng hoá đặc biệt) mà có thể
chuyển dịch vào thời điểm xác định đối với hợp đồng mua bán hàng hoá, ngoại trừ
tiền tệ theo đó giá được trả, các chứng khoán đầu tư (Điều 8) và các vật đang trong
quá trình kiện tụng. Hàng hoá cũng bao gồm con chưa sinh ra của động vật và mùa
màng đang trồng cấy và những vật xác định khác gắn liền với hiện thực như được
mô tả trong phần về hàng hoá gắn liền với bất động sản được mô tả trong phần về
hàng hoá được tách biệt với bất động sản”. Hàng hoá phải tồn tại và được xác định
trước khi có bất kỳ lợi ích nào có thể chuyển giao. Hàng hoá mà không tồn tại và
không được xác định là hàng hoá tương lai. Điều này có nghĩa là hàng hoá phải có

7


sự tồn tại hữu hình về khía cạnh vật lý, có thể sờ nắm và nhìn thấy. Các tài sản vô

hình như chứng khoán, bằng sáng chế và quyền tác giả… chỉ có sự tồn tại về mặt
khái niệm và do đó không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 2 Bộ luật Thương mại
Thống nhất.
Cùng với những quy định pháp luật quốc gia về hàng hoá và những đối
tượng không được coi là hàng hoá, pháp luật và thông lệ quốc tế cũng xác định
những đối tượng là hàng hoá và đối tượng không được coi là hàng hoá trong quan
hệ mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài. Ví dụ, Công ước Viên về mua
bán hàng hoá quốc tế năm 1980 (sau đây gọi tắt là Công ước Viên) có sự hạn chế
nhất định đối với hàng hoá được mua bán, theo đó, Công ước Viên không áp dụng
đối với mua bán hàng tiêu dùng, mua bán tàu thuỷ, máy bay, điện năng, các giao
dịch chứng khoán và các giao dịch trong đó phần dịch vụ chiếm chủ yếu. Công ước
Viên còn ghi nhận cả mua bán hàng hoá tương lai, cụ thể là hàng hoá có thể được
sản xuất và được bán cũng được coi là hàng hoá.
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài phải thuộc diện đối tượng có thể giao dịch được, không thuộc loại
hàng hoá bị cấm xuất khẩu, nhập khẩu, không thuộc diện bị hạn chế xuất khẩu,
nhập khẩu. Như vậy, hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá vơí
thương nhân nước ngoài có nét tương đồng với hàng hoá là đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hoá trong nước ở chỗ đều phải là đối tượng có thể giao dịch
được, tuy nhiên để có thể xuất khẩu, nhập khẩu thì hàng hoá phải không thuộc
diện đối tượng bị cấm hoặc bị hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu.
Theo quan niệm của hầu hết luật pháp ở các nước trên thế giới, hành vi
mua bán được hiểu là hành vi theo thoả thuận trong đó một bên là người bán có
nghĩa vụ chuyển giao vào quyền sở hữu của người mua một tài sản nhất định gọi
là hàng hoá (đối tượng của hợp đồng), còn người mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá
và trả tiền.
Ví dụ, theo mục II điều 2 (1) Luật Mua bán hàng hoá của Anh năm 1979
(sửa đổi Luật Mua bán hàng hoá của Anh năm 1973), hợp đồng mua bán hàng
hoá được xác định: “Hợp đồng mua bán hàng hoá là hợp đồng mà theo đó người


8


bán chuyển giao hay đồng ý chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá cho người
mua và người mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả theo giá đã thoả thuận”. Điều
cần khẳng định ở đây là không phải mọi biểu hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài
thế giới khách quan đều có thể được coi là hành vi.
Hành vi mua bán hàng hoá có một số đặc trưng sau đây: (i) Hành vi mua bán
hàng hoá thực hiện theo sự thoả thuận của các bên giao kết. Hình thức của thoả
thuận này có thể bằng miệng, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể; (ii) Chủ thể của
hành vi mua bán hàng hoá là thương nhân. Đặc điểm này cho phép phân biệt giữa
hành vi dân sự và hành vi thương mại. Hành vi dân sự có thể do chủ thể là thương
nhân hoặc không phải thương nhân thực hiện, nhưng đã là hành vi thương mại thì
hành vi đó phải do thương nhân thực hiện; (iii) Hành vi mua bán hàng hoá làm
chuyển dịch quyền sở hữu đối với hàng hoá. Mọi việc mua bán (trừ việc mua bán
quyền sử dụng đất) đều làm chuyển dịch quyền sở hữu đối với hàng hoá. Tuy nhiên,
khác với các hành vi mua bán khác, hành vi mua bán hàng hoá do thương nhân thực
hiện với tư cách thương nhân làm thay đổi chủ sở hữu hàng hoá là loại tài sản thuộc
phạm vi áp dụng các quy định của pháp luật thương mại.
Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài cũng có đầy đủ
những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Tuy nhiên, có thể thấy
hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài có những đặc trưng riêng
so với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Những nét đặc thù này có thể nhận
thấy thông qua nhiều yếu tố như về luật điều chỉnh, về chủ thể của hợp đồng…
Ví dụ, về luật điều chỉnh, nếu luật điều chỉnh với hợp đồng mua bán hàng hoá
trong nước là luật quốc gia, thì luật điều chỉnh với hợp đồng mua bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài có thể là điều ước quốc tế, luật quốc gia…
Sự khác biệt này dẫn đến nhiều vấn đề quan trọng cần xác định rõ trong quan
hệ giữa các bên của hợp đồng như thông tin về đối tác, xác định luật điều chỉnh hợp
đồng, xác định cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp… Điều này

khẳng định sự cần thiết của việc tìm hiểu và làm rõ những đặc trưng của hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế.

9


1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là một nội dung
quan trọng của pháp luật thương mại quốc tế. Hiện nay, quan niệm về hợp đồng
có yếu tố nước ngoài nhìn chung chưa thực sự được định hình thống nhất. Các
tài liệu và nghiên cứu có liên quan vẫn còn đề cập đến loại hợp đồng này với
nhiều quan niệm khác nhau dưới những tên gọi khác nhau như hợp đồng mua
bán hàng hoá ngoại thương, hợp đồng xuất, nhập khẩu, hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
Là một nội dung quan trọng của pháp luật thương mại quốc tế, hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài được ghi nhận trong nhiều điều ước,
thoả thuận quốc tế cũng như trong pháp luật quốc gia. Theo Điều 1 Công ước La
Hay năm 1964 về mua bán động sản hữu hình thì hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế là hợp đồng mua bán hàng hoá trong đó các bên giao kết có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau, hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc
trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên giao kết được thiết lập ở các nước khác
nhau [94]. Công ước Viên về mua bán hàng hoá quốc tế năm 1980 chỉ đưa ra một
tiêu chuẩn để khẳng định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau
[88, điều 1]. So sánh phạm vi áp dụng của Công ước La Hay năm 1964 và Công
ước Viên năm 1980, có thể dễ dàng nhận thấy Công ước Viên đã loại bỏ nhiều điều
kiện trong Công ước La Hay. Tuy nhiên, điều này rõ ràng không có nghĩa là phạm
vi áp dụng của Công ước Viên rộng hơn Công ước La Hay. Điều cần khẳng định là
cả hai công ước này đều có mục đích chung là tạo ra một sự điều chỉnh pháp luật
chung đối với mua bán hàng hoá quốc tế.

Công ước Liên châu Mỹ về luật áp dụng đối với các hợp đồng quốc tế năm
1994 được thông qua tại Hội nghị Liên châu Mỹ lần thứ năm về Tư pháp quốc tế
xác định một hợp đồng là hợp đồng quốc tế nếu các bên tham gia hợp đồng có nơi
cư trú hoặc nơi có trụ sở của họ tại các nước thành viên khác nhau hoặc nếu hợp
đồng có mối quan hệ về mặt đối tượng với trên một nước thành viên [70].

10


Sự ra đời của những công ước trên cho thấy, các nước trên thế giới đã có
nhiều nỗ lực trong việc thống nhất hoá và hài hoà hoá pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế. Điểm chung trong việc định danh hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế của các công ước nói trên là lấy tiêu chí các bên giao kết hợp đồng có
trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau.
Bên cạnh việc ghi nhận trong các điều ước quốc tế, pháp luật các nước cũng
có những quy định xác định quan niệm về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Ví dụ,
theo Luật Hợp đồng Ngoại thương Trung Quốc ngày 21/3/1985 (đã được thay thế
bằng Luật Hợp đồng năm 1999), bất kỳ hợp đồng nào được xác lập giữa các doanh
nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác của Trung Quốc với doanh nghiệp, tổ chức và
cá nhân nước ngoài được coi là hợp đồng ngoại thương [95]. Pháp luật Việt Nam
hiện hành sử dụng thuật ngữ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế để chỉ hợp đồng
mua bán có yếu tố nước ngoài. Theo đó, mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện
dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và
chuyển khẩu. Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng
hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm
trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp
luật. Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc từ
các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan

riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt
Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam. Tạm xuất, tái
nhập hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực
đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập
khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam. Còn chuyển khẩu hàng hóa là việc mua
hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh
thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục
xuất khẩu ra khỏi Việt Nam. Như vậy, cách tiếp cận hiện hành của Việt Nam có nét

11


khác biệt với pháp luật và thông lệ quốc tế ở chỗ, ngoài quan niệm là hàng hoá được
chuyển dịch qua biên giới quốc gia, cũng coi là mua bán hàng hoá quốc tế nếu hàng
hoá được đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng, còn pháp luật và thông lệ quốc tế quan niệm rằng loại hợp đồng này
phải được thiết lập giữa các chủ thể có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau.
Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài có nét đặc thù
riêng là có sự hiện diện của thương nhân nước ngoài. Như đã phân tích ở trên,
thương nhân nước ngoài được pháp luật một nước quan niệm là thương nhân
thành lập, tồn tại và hoạt động hợp pháp và hợp lệ bên ngoài lãnh thổ nước đó. Tư
cách pháp lý của thương nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước
nơi thương nhân đó được thành lập. Như vậy, đối với hợp đồng mua bán hàng hoá
với thương nhân nước ngoài, ngoài tiêu chí về trụ sở thương mại, một tiêu chí cần
được xét đến là quốc tịch của các bên là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế.
Như vậy, có thể hiểu, “hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thoả
thuận nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa
các thương nhân có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và/hoặc có quốc

tịch khác nhau”. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng chứa nhân tố
nước ngoài trong quan hệ giữa các bên. Nhân tố nước ngoài được quan niệm không
giống nhau tuỳ theo pháp luật từng nước. Theo pháp luật của nhiều nước, dấu hiệu
của yếu tố quốc tế là cơ sở kinh doanh của người bán và người mua ở các nước
khác nhau. Yếu tố quốc tịch của các bên trong hợp đồng đối với các nước này
không phải là yếu tố để phân biệt các loại hợp đồng kinh doanh trong nước và hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
1.2. Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế
Như trên đã phân tích, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất
về ý chí giữa thương nhân một nước và thương nhân nước ngoài trong quan hệ mua
bán hàng hoá mà thông qua đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và

12


nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó với nhau. Tuy nhiên, thoả thuận của các bên
phải được thể hiện dưới hình thức nhất định nào đó như lời nói, hành vi, văn bản.
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được hiểu là quá trình thể hiện
và trao đổi ý chí giữa các thương nhân có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau
và/hoặc có quốc tịch khác nhau, mà kết quả cuối cùng của quá trình đó là sự thống
nhất ý chí của các bên về các nội dung cần giao dịch dưới hình thức nhất định.
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là quá trình tuyên
bố ý chí của các chủ thể trong giao dịch mua bán hàng há quốc tế. Khác với các
hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế thường là một quá trình dài. Điều này xảy ra là do sự xuất hiện của yếu tố
nước ngoài trong giao dịch với thương nhân nước ngoài, sự đan xen của nhiều hệ
thống và truyền thống pháp luật cũng như sự khác nhau về cách tư duy và quan

niệm trong hoạt động kinh doanh, do đó, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế thường là một quá trình dài hơn so với giao dịch kinh doanh trong nước.
Thứ hai, chủ thể là thương nhân các nước khác nhau. Đây là nét đặc trưng
nổi bật của giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Sự xuất hiện của thương
nhân nước ngoài trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế làm cho giao
dịch có nhiều nét khác biệt so với giao dịch kinh doanh trong nước và các giao dịch
có yếu tố nước ngoài khác. Sự hiện diện của thương nhân nước ngoài làm tăng tính
phức tạp của giao dịch, làm hình thành mối quan tâm của các bên về việc lựa chọn
luật áp dụng đối với hợp đồng, sự điều chỉnh pháp luật đối với hàng hoá được xuất
khẩu và nhập khẩu theo hợp đồng, sự điều chỉnh pháp luật các nước đối với các
thương nhân là các bên của hợp đồng, thẩm quyền của cơ quan tài phán trong giải
quyết tranh chấp, cũng như tìm kiếm thông tin về đối tác… Các bên cũng có khả
năng phải đối mặt với nhiều rủi ro như khả năng không được thanh toán cũng như
những rủi ro ngoài dự kiến. Vì thế, sự thoả thuận về các loại hình bảo hiểm, các thể
thức thanh toán, cũng như điều khoản hoàn cảnh khó khăn trở nên là một trong
những điều khoản cần thiết đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ngoài ra,
việc nắm bắt và vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc cơ bản của quan hệ thương

13


mại quốc tế khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài
như nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc, nguyên tắc tiếp
cận thị trường, nguyên tắc minh bạch… có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh
nghiệp khi tham gia vào hoạt động thương mại với nước ngoài.
Thứ ba, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có sự thống nhất ý chí
của các bên về các nội dung cần giao dịch, ví dụ, giá cả, điều kiện giao hàng, điều
kiện thanh toán, bảo hiểm, hợp đồng mẫu, điều khoản chất lượng... Thực tế cho
thấy, sự giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là kết quả của nhiều loại giao
dịch đa phương. Song song với những cuộc đàm phán nhằm giao kết hợp đồng mua

bán hàng hoá quốc tế là những thoả thuận với các bên thứ ba có liên quan, chẳng
hạn, các hãng vận chuyển, các công ty bảo hiểm, các ngân hàng, tổ chức tín dụng,
các nhà cung cấp, thậm chí với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ các yêu
cầu về hàng rào kỹ thuật, về vệ sinh dịch tễ, về thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập
khẩu của nhà nước, yêu cầu về xuất xứ của hàng hoá... Đây là một trong những yếu
tố quan trọng làm cho các giao dịch thương mại quốc tế trở nên phức tạp hơn so với
các giao dịch kinh doanh trong nước.
Thứ tư, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được xác lập dưới hình thức
nhất định. Cũng như hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước, hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế cũng có thể được xác lập dưới những hình thức là bằng văn bản,
bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, những đòi hỏi về hình thức của
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thông thường được quy định ngặt nghèo hơn so
với các quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.
Dưới góc độ luật học, để làm rõ quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế, cần quan tâm các vấn đề sau đây: (i) Xung đột pháp luật trong giao kết
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế; (ii) Luật áp dụng và lựa chọn luật áp dụng
trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế; (iii) Quan hệ tiền hợp đồng
trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế; (iv) Điều kiện hiệu lực của hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Việc làm rõ bốn nhân tố nêu trên cho phép xác định rõ những giai đoạn cơ
bản trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và thể hiện được những nét

14


đặc thù của giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ngoài ra, việc thoả thuận
các điều khoản cụ thể của hợp đồng như điều khoản giá cả, điều kiện giao hàng,
thanh toán, bảo hiểm, điều khoản chất lượng hàng hoá, điều khoản ngôn ngữ ưu
tiên… cũng có tầm quan trọng nhất định trong việc giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế. Nhìn chung, việc thoả thuận các điều khoản cụ thể và ghi nhận

nội dung của chúng thường là công việc cụ thể của giới doanh nhân.
1.2.2. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài sau khi được giao
kết hợp pháp sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Nói một cách khác, khi hợp
đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện mọi cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng.
Pháp luật các nước thông thường đều quy định những điều kiện nhất định để hợp
đồng có hiệu lực pháp lý. Điểm chung trong cách tiếp cận của các nước về điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng là đều xác định hợp đồng phải có yếu tố thoả thuận của
các bên và phải có đối tượng hợp pháp.
Theo pháp luật Pháp, để hợp đồng có hiệu lực cần tuân thủ đầy đủ bốn điều
kiện: (i) Có sự thoả thuận của các bên cam kết; (ii) Có năng lực giao kết hợp đồng;
(iii) Sự cam kết có đối tượng xác thực; (iv) Nghĩa vụ có căn cứ hợp pháp. Sự thoả
thuận sẽ không có giá trị nếu đạt được do bị nhẫm lẫn, bị đe doạ, bị lừa dối. Sự
nhầm lẫn chỉ là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi là nhầm lẫn về bản chất của
vật hoặc sự việc là đối tượng của hợp đồng. Sự nhầm lẫn không thể là căn cứ làm
cho hợp đồng vô hiệu nếu là sự nhầm lẫn về người mà mình có ý định giao kết, trừ
trường hợp việc xem xét nhân thân người đó là căn cứ chính của việc giao kết hợp
đồng. Hành vi được coi là đe doạ nếu nó tác động tới một người có khả năng nhận
thức thông thường và làm cho người đó lo sợ có thể bị một thiệt hại nghiêm trọng
đối với tính mạng hoặc tài sản của mình. Sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng bị
vô hiệu khi các thủ đoạn do một bên thực hiện mà nếu không có các thủ đoạn đó
thì bên kia đã không giao kết được hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng được giao kết
do nhầm lẫn, lừa dối, hay bị đe doạ không đương nhiên vô hiệu. Điều này chỉ tạo
cơ sở cho việc khởi kiện để thừa nhận hợp đồng vô hiệu hoặc để huỷ hợp đồng.
Một nghĩa vụ không có căn cứ hoặc dựa trên một căn cứ giả tạo hay một căn cứ bất

15


hợp pháp thì không có hiệu lực [21]. Theo truyền thống các nước theo hệ thống

thông luật, để hợp đồng có hiệu lực cần thoả mãn các điều kiện: Các bên phải có
năng lực pháp lý; Cần phải có đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng; Phải có ý định tạo ra các mối quan hệ pháp lý; Phải có sự trao đổi
đáng giá giữa các bên. Ngoài ra, hình thức của hợp đồng trong những trường hợp
nhất định có thể là một đòi hỏi bắt buộc [32].
Như vậy, nhìn chung các nước đều quy định về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật các nước có cách tiếp cận khác nhau về điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng. Cho dù có sự khác biệt về cách tiếp cận đối với điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng, nhưng nét chung có thể thấy qua sự điều chỉnh
pháp luật các nước là phải có sự thoả thuận của các bên tham gia và hợp đồng
phải có đối tượng xác định. Để sự thoả thuận này là hợp pháp, sự thoả thuận đó
không thể được xác lập trên cơ sở bị nhầm lẫn, bị đe doạ, bị lừa dối. Đối tượng
của hợp đồng phải được các bên giao kết hợp đồng xác định cụ thể. Hợp đồng
không có hiệu lực nếu việc giao kết hợp đồng trái với pháp luật, đạo đức, thuần
phong mỹ tục, trật tự công cộng hoặc chính sách công cộng.
Xuất phát từ đặc điểm riêng của giao dịch thương mại quốc tế, ngoài những
điều kiện chung đối với hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những
nét đặc thù về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế như:
1.2.2.1. Điều kiện về chủ thể của hợp đồng
Lý luận và thực tiễn pháp luật các nước đều quan niệm chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hoá phải là thương nhân. Các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và có trụ sở thương
mại ở các nước khác nhau. Điểm đặc biệt của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
là có sự tham gia của thương nhân nước ngoài. Pháp luật của nhiều nước trên thế
giới đã dành một phần riêng biệt đề cập đến thương nhân nước ngoài. Sự tham gia
của thương nhân nước ngoài làm cho quan hệ mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài có nét đặc thù so với quan hệ mua bán hàng hoá trong nước.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải có đầy đủ những điều
kiện do pháp luật quy định để được tham gia quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá


16


quốc tế. Điều này có nghĩa là để có hiệu lực pháp lý, chủ thể giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế phải có đầy đủ tư cách pháp lý.
Năng lực giao kết hợp đồng là yếu tố quan trọng cần xem xét khi xác định
chủ thể của giao dịch. Năng lực giao kết hợp đồng là khả năng có thể nhận thức
được hợp đồng đã được xác lập và nắm bắt được bản chất của hợp đồng. Việc một
người không hiểu được đầy đủ ý nghĩa pháp lý của một hợp đồng không có nghĩa
rằng người này không đủ năng lực giao kết hợp đồng. Nếu bất kỳ bên nào của hợp
đồng không đủ năng lực giao kết hợp đồng, hợp đồng này sẽ bị coi là vô hiệu.
Những người không có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi bị xem là không
có năng lực giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, năng lực giao kết hợp đồng được xác
định khác nhau ở các nước và khác nhau ở các thời kỳ. Ví dụ, theo các nước theo
truyền thống thông luật, người dưới 21 tuổi là người chưa thành niên và bị coi là
chưa có năng lực giao kết hợp đồng. Ở hầu hết các bang của Hoa Kỳ, độ tuổi này
sau đó được giảm xuống 18 tuổi và một số bang là 19 tuổi. Theo pháp luật Nhật
Bản, người thành niên là người đạt độ tuổi 20. Pháp luật Nhật Bản trước đây không
thừa nhận trường hợp ngoại lệ đối với người chưa đạt 20 tuổi, nhưng sau đó nước
này đã bổ sung quy định là trong trường hợp người chưa thành niên kết hôn thì
người này được coi như đã đạt đến tuổi trưởng thành. Quy định này cũng tương
đồng với quy định của pháp luật Thụy Sĩ. Trong khi đó, pháp luật Pháp lại xác định
người thành niên là người đạt độ tuổi 18.
Năng lực của công ty được xác định trong nội dung đăng ký kinh doanh và
điều lệ công ty. Công ty phải hoạt động phù hợp với điều lệ và nội dung đăng ký
kinh doanh đã được phép. Một hợp đồng được giao kết không phù hợp với điều lệ
và nội dung đăng ký kinh doanh bị coi là vô hiệu. Các nhà làm luật cũng dự liệu
một số tình huống khác theo đó hợp đồng do người đại diện hợp pháp của công ty
giao kết bị coi là vô hiệu, ví dụ hợp đồng được giao kết nhằm mục đích tư lợi. Tuy
nhiên, điều phức tạp ở đây là nếu một người không có thẩm quyền đại diện cho

công ty lại ký hợp đồng nhân danh công ty, một người chỉ được uỷ quyền ký kết
hợp đồng tới 100.000 đô la Mỹ lại ký hợp đồng tới 200.000 đô la Mỹ. Liệu những
hợp đồng này có được coi là hợp đồng vô hiệu hay không vì lý do là hợp đồng được

17


tạo lập bởi những người không có thẩm quyền giao kết ? Thực tiễn áp dụng pháp
luật ở một số nước cho thấy, trong một số trường hợp hợp đồng vẫn có hiệu lực do
áp dụng nguyên tắc “bề ngoài được uỷ quyền”. Theo nguyên tắc này, khi một người
khẳng định mình có quyền giao kết hợp đồng nhân danh công ty, nếu hoàn cảnh hay
tập quán không cho phép bên cùng giao kết hợp đồng có thể kiểm tra lại, hợp đồng
này có thể được coi là có hiệu lực.
1.2.2.2. Điều kiện về hàng hoá là đối tượng của hợp đồng
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài phải thuộc diện đối tượng có thể giao dịch được, không thuộc loại hàng
hoá bị cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, không thuộc diện bị hạn chế xuất, nhập khẩu.
Luật pháp các nước trên thế giới đều quy định những biện pháp kiểm soát đối với
hàng hoá xuất, nhập khẩu. Kiểm soát xuất, nhập khẩu thông thường là vấn đề của
pháp luật nội địa. Các nước trên thế giới áp dụng các biện pháp kiểm soát xuất,
nhập khẩu xuất phát từ nhiều nguyên nhân, ví dụ cần bảo hộ nền sản xuất trong
nước, để đạt được chính sách đối ngoại, trong đó có mục tiêu an ninh quốc gia, bảo
vệ môi trường (ví dụ, cấm xuất khẩu những động vật có nguy cơ tuyệt diệt hoặc các
bộ phận của động vật như ngà voi), bảo tồn các sản phẩm văn hoá (như cấm xuất
khẩu những vật phẩm được tìm thấy qua hoạt động khảo cổ). Các biện pháp kiểm
soát xuất, nhập khẩu này có thể chia thành nhiều dạng, trong đó nổi bật là các quy
tắc về vệ sinh dịch tễ, các biện pháp về chống bán phá giá, quy tắc xuất xứ, các tiêu
chuẩn về môi trường và lao động, thậm chí là các quy đinh về trách nhiệm đối với
sản phẩm , các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...
Theo Luật Ngoại thương của Mắccêđônia, hàng hoá có thể được nhập khẩu

tạm thời hoặc vĩnh viễn chỉ nếu hàng hoá này đáp ứng được các điều kiện của việc
mua bán trong lãnh thổ Mắccêđônia. Hàng hoá phải đáp ứng các điều kiện về y tế,
vệ sinh hoặc kiểm soát chất lượng có thể không được nhập khẩu tạm thời hoặc vĩnh
viễn nếu không đáp ứng được các điều kiện đó. Hàng hoá không thể nhập khẩu tạm
thời hoặc vĩnh viễn vào Mắccêđônia nếu việc phân phối hàng hoá đó bị nghiêm cấm
ở nước xuất xứ của hàng hoá, trừ trường hợp có được giấy phép đặc biệt do cơ quan
hành chính chịu trách nhiệm về quan hệ kinh tế đối ngoại cấp. Nhằm mục đích bảo

18


vệ và phát triển môi trường, Chính phủ Mắccêđônia có thể cấm nhập khẩu và quá
cảnh những sản phẩm nhất định vào lãnh thổ Mắccêđônia, hoặc công bố những điều
kiện đối với những hàng hoá được xuất khẩu hoặc nhập khẩu đó [78]. Hàng hoá là
đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn thể chịu sự cấm đoán hoặc
hạn chế dựa trên các lý do như chính sách công cộng, việc bảo vệ sức khoẻ và đời
sống con người, động vật hoặc thực vật... Ví dụ, Luật về Chính sách ngoại thương
của Bôsnia và Herzegôvina quy định sự cấm đoán hoặc hạn chế hoạt động thương
mại hàng hoá quốc tế dựa trên các lý do như đạo đức công cộng, chính sách công
cộng hoặc an ninh công cộng, việc bảo vệ sức khoẻ và đời sống con người, động vật
hoặc thực vật, việc bảo vệ tài sản quốc gia có chứa đựng các giá trị nghệ thuật, lịch sử
hoặc địa chất, hoặc việc bảo vệ tài sản thương mại công nghiệp hoặc để hạn chế ma
tuý và các chất thải [73].
Việc kiểm soát xuất, nhập khẩu cũng được quy định trong nhiều điều ước
quốc tế. Ví dụ, trong lĩnh vực bảo vệ tài sản văn hoá, nhiều Công ước quốc tế đã
được thông qua, bao gồm [82, tr 361, 362]: Công ước về bảo vệ tài sản văn hoá
trong trường hợp có xung đột vũ trang được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) bảo trợ đã được ký tại Hague (Hà Lan) năm
1954; Công ước về các biện pháp ngăn cấm và phòng ngừa việc chuyển dịch quyền
sở hữu hợp pháp đối với các tài sản văn hoá được UNESCO bảo trợ được ký tại Pa

ri (Pháp) năm 1970; Công ước về bảo hộ di sản nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ của
các nước Châu Mỹ được Tổ chức các nước Châu Mỹ thông qua.
Hay trong lĩnh vực môi trường, có thể kể đến một loại các điều ước quốc tế
có các điều khoản kiểm soát về môi trường đối với hàng hoá là đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài như: Công ước Basel về kiểm
soát vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm; Công ước đa dạng hoá sinh
học; Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn; Công ước An
toàn sinh học; Công ước Quốc tế về Bảo vệ thực vật; Hiệp định Quốc tế về gỗ nhiệt
đới; Hiệp định Liên Hiệp quốc về cá biển; Công ước Rotterdam về Thủ tục đồng
thuận thông báo trước đối với các hoá chất độc hại và thuốc diệt côn trùng trong
thương mại quốc tế; Công ước Stokhom về các chất ô nhiễm hữu cơ...

19


Hàng hoá xuất, nhập khẩu có thể chịu sự quản lý theo hạn ngạch. Các nước
trên thế giới đều có những quy định về hạn ngạch đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu.
Ví dụ, theo pháp luật Hoa Kỳ, có hai loại hạn ngạch được áp dụng đối với hàng dệt
may nhập khẩu là hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch tính theo thuế suất. Hạn ngạch
tuyệt đối là hạn ngạch hạn chế về số lượng. Hạn ngạch tính theo thuế suất là hạn
ngạch áp dụng đối với một số lượng hàng nhập khẩu được quy định với một mức
thuế thấp trong một thời hạn nào đó.
Một rào cản khác cũng có thể tác động tới hàng hoá trong giao dịch với nước
ngoài là những quy định liên quan đến trách nhiệm đối với sản phẩm. Nhìn chung,
trách nhiệm đối với sản phẩm được định nghĩa là trách nhiệm đối với thiệt hại xảy
ra trong trường hợp có một khiếm khuyết trong sản phẩm hàng hoá mà xuất phát từ
đó, thân thể hoặc tài sản của người khác (bao gồm cả người thứ ba không sử dụng
hoặc thụ hưởng sản phẩm một cách trực tiếp) bị thiệt hại, khi đó người sản xuất, chế
tạo, nhập khẩu dưới tên của chính người đó đối với sản phẩm, có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Khiếm khuyết đối với sản phẩm không đơn

thuần chỉ là sự thiếu chất lượng của hàng hoá, mà còn là sự thiếu an toàn mà có thể
gây ra thiệt hại cho cuộc sống, thân thể hoặc tài sản. Dưới góc độ của luật, thuật ngữ
khiếm khuyết được xác định với tư cách là “sự thiếu an toàn mà một sản phẩm
trong điều kiện thông thường phải đáp ứng được”, có tính đến bản chất của sản
phẩm, tính có thể thấy trước thông thường của việc sử dụng sản phẩm, thời gian
người sản xuất chuyển giao sản phẩm và những hoàn cảnh khác có liên quan đến
sản phẩm. Tuy nhiên, trách nhiệm đối với khiếm khuyết sản phẩm cũng có ngoại lệ,
theo đó nếu nhà sản xuất sẽ không phải chịu trách nhiệm nếu họ chứng minh được
rằng trình độ khoa học và kỹ thuật vào thời điểm chuyển giao sản phẩm không cho
phép họ tìm ra khiếm khuyết đó.
Một trong những rào cản đang nổi lên hiện nay trong thương mại với nước
ngoài và là vấn đề nổi cộm với Việt Nam là chống bán phá giá. Trong chống bán
phá giá, một trong những vấn đề Việt Nam hiện nay đang gặp phải là quy chế nền
kinh tế thị trường. Những quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhìn
chung không chỉ ra một cách rõ ràng cách thức xác định thế nào là nền kinh tế thị

20


trường và nền kinh tế phi thị trường. Trên thực tế, việc vận dụng những tiêu chí để
phân biệt nền kinh tế thị trường dựa vào pháp luật quốc gia và các tiêu chuẩn khu
vực. Ví dụ, theo luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu (EU), các nhà sản
xuất ở các nước chuyển đổi phải chứng tỏ rằng họ hoạt động theo những điều kiện
thị trường. Các tiêu chí để xác định bao gồm [64]:
- Các quyết định của doanh nghiệp về giá cả, chi phí và đầu vào, gồm chi phí
nguyên vật liệu, công nghệ và lao động, sản lượng, doanh số và đầu tư được đưa ra
để đáp ứng với những tín hiệu thị trường phản ánh cung cầu, không có sự can thiệp
đáng kể của nhà nước, và chi phí của những đầu vào chính về cơ bản phản ánh giá
trị thị trường;
- Các doanh nghiệp có các sổ sách kế toán cơ bản rõ ràng, được kiểm toán độc

lập theo các chuẩn mực kế toán quốc tế và được áp dụng cho tất cả các mục đích;
- Chi phí sản xuất và tình hình tài chính của các doanh nghiệp không chịu sự
bóp méo đáng kể dưới tác động của hệ thống kinh tế phi thị trường, nhất là liên
quan tới khấu hao tài sản, các dạng xoá nợ và các dạng thanh toán bù nợ khác;
- Các doanh nghiệp liên quan chịu sự điều chỉnh của các luật về phá sản và
tài sản đảm bảo sự chắc chắn và ổn định về pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động.
- Chuyển đổi hối đoái được thực hiện theo tỷ giá thị trường.
Khi một nước bị coi là có nền kinh tế phi thị trường, các nhà xuất khẩu của
nước đó sẽ gặp phải sự bất lợi lớn trong các cuộc điều tra chống bán phá giá xuất
phát từ các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc sử dụng giá và chi phí sản xuất tại nước thay thế sẽ dẫn đến
biên độ bán phá giá rất cao. Mức biên độ bán phá giá cao này gần như chắc chắn, vỡ
cỏc nhà sản xuất tại nước thay thế đang cạnh tranh với các nhà xuất khẩu tại nước bị
coi là nền kinh tế phi thị trường và do đó, sẽ không có lợi cho họ trong việc giảm
thiểu việc tỡm ra yếu tố bỏn phỏ giỏ của cỏc nhà cạnh tranh của họ.
Thứ hai, việc sử dụng cỏc số liệu của nước thay thế cũng dẫn đến việc nhiều
lợi thế so sánh của nước có nền kinh tế phi thị trường không được xem xét trong
quá trỡnh điều tra và các doanh nghiệp của nước này bị áp dụng một mức thuế

21


×