Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Quan điểm văn chương nguyễn đình chiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.51 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN

MÔN: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
ĐỀ TÀI: QUAN NIỆM VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
GVHD: Lê Văn Lực

TP.HCM, ngày 7 tháng 3 năm 2016
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN

MÔN: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

GVHD: Lê Văn Lực
DANH SÁCH SINH VIÊN NHÓM MỘT THỰC HIỆN
1. Lê Thị Tố Huyên

K39.606.009

2. Phạm Thành Lâm

K39.606.012

3. Vũ Minh Quân(NT)

K39.606.026


4. Nguyễn Văn Thịnh

K39.606.034

5. Phạm Thị Thương

K39.606.037

6. Lê Dương Thành Trí

K39.606.042

7. Nguyễn Phan Hồng Ý

K39.606.048

8. Vũ Kim Tiến

K39.606.118

9. Phan Ngọc Minh Diễm

K.39.606.059

10. Nguyễn Thị Mỹ Duyên

K.39.606.003

2



Mục lục

3


1) Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác:
1.1 Cuộc đời
Nguyễn Đình Chiểu (1822- 1888) tên tự là Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ sau khi
bị mù hiệu là Hối Trai. Ông là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa
cuối thế kỷ XIX.
1.1.1 Gia đình, xuất thân:
Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên, làm thư lại trong dinh Tổng
trấn Lê Văn Duyệt tại Gia Định. Mẹ ông là Trương Thị Thiệt, quê ở làng Tân Thới,
huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí
Minh).
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1 - 7- 1822 tại quê mẹ. Thuở nhỏ, Nguyễn Đình
Chiểu được mẹ nuôi dạy. Sống bên cạnh mẹ, được mẹ giáo dục theo cách truyền
thống nói riêng và theo cách của người dân Nam Bộ nói chung, đã hình thành nên
nhân cách, tư tưởng của ông: trọng nghĩa khinh tài, thiện giả ác báo,… Năm lên
bảy tuổi ông được theo học với thầy đồ là học trò của cụ nghè Chiêu ( cụ nghè
Chiêu là học trò của cụ Võ Trường Toản). Cuốn sách gối đầu của ông lúc đó là
“Minh tâm bửu giá”. Năm Nguyễn Đình Chiểu 11 tuổi, cha ông đem ông ra gửi
cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Năm 1843, ông
đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy có một nhà họ Võ hứa gả con
gái cho ông. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi.
1.1.2 Cuộc đời nhiều bất hạnh, đau thương:
Nguyễn Đình Chiểu sớm xa gia đình từ nhỏ.
Năm 1848, mẹ ông mất tại Gia Định. Được tin, ông bỏ thi trở về Nam chịu tang
mẹ. Trên đường trở về chịu tang, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả đường xa, thời

tiết thất thường nên ông đã ốm nặng rồi mù cả hai mắt. Bị mù nên đường công
danh của ông bị dang dở - đây là nỗi đau lớn trong ông bởi giờ đây ước vọng đỗ đạt
làm quan đã không thể thành hiện thực.
Lâm vào cảnh mù, hôn thê bội ước khiến đường tình duyên của ông trắc trở.
Nhưng vì cảm phục và thương mến thầy, học trò của ông đã xin gia đình mình tác
hợp cho ông và em gái của mình. Không chỉ chịu nỗi đau về hoàn cảnh của riêng
mình, ông còn phải chịu đựng nỗi đau chung: nỗi đau mất nước. Nỗi đau lớn của
một sĩ phu yêu nước.
4


1.1.3 Đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu cho đất nước, cho dân tộc:
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà sư phạm mẫu mực. Ông xem việc dạy người cao
hơn dạy chữ, chú trọng giáo dục nhân cách đạo đức.
Ông là một thầy lang giàu y đức, lấy việc chăm lo sức khỏe của nhân dân làm y
đức. Cứu người là trên hết chứ không coi trọng tiền bạc.
Nguyễn Đình Chiểu là ngọn cờ đầu của nền văn học yêu nước chống Pháp cuối
thế kỷ XIX – niềm tự hào của người dân miền Nam.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà trí sĩ, một sĩ phu yêu nước, luôn tỏ thái độ bất
hợp tác, khinh thường với Thực dân Pháp.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa của nhân dân.
Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực mà còn là một chiến sĩ
yêu nước tham gia bàn bạc mưu lược với các chiến sĩ chống Thực dân Pháp.
Nguyễn Đình Chiểu có uy tín rất lớn trong dân chúng. Tỉnh trưởng Bến Tre là Pônsông tìm mọi cách mua chuộc ông, cấp đất cho, nhưng ông một mực từ chối. Khi
ông mất, cánh đồng Ba Tri rợp trắng màu khắn tang.
1.2 Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Đình Chiểu để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Các tác phẩm chính
của ông: các truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Tử - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn
đáp…; một số bài văn tế như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn
tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh và một số bài thơ Đường Luật.

1.2.1 Quan điểm sáng tác văn chương
Chúng tôi sẽ trình bày mục này ở phần sau.
1.2.2 Tác phẩm
1.2.2.1 Các sáng tác trước khi Thực dân Pháp xâm lược nước ta
Sáng tác tiêu biểu nhất của Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn này là Truyện
Lục Vân Tiên. Tác phẩm ca ngợi phẩm chất sáng ngời của anh chàng họ Lục – một
con người hiếu thảo, một trang nam nhi có lí tưởng, sẵn sàng quên mình cứu dân
gặp nạn, đánh giặc Ô Qua, chung thủy với nàng Kiều Nguyệt Nga, trung thành với
bạn bè, nhiệt tâm với chính nghĩa.
Đề cao nghĩa khí, Truyện Lục Vân Tiên cũng là bản án kết tội những kẻ phi
nghĩa, bất nhân như cha con Võ Công tráo trở, viên Thái sư hiểm độc, Trịnh Hâm,
Bùi Kiệm dốt nát, phản trắc đê tiện.
5


Thể hiện tinh thần đạo lý còn có Dương Từ - Hà Mậu, một tác phẩm có tính luận
đề. Các nhân vật Dương Từ và Hà Mậu đã đi theo đạo khác, bỏ gia đình nheo nhóc
nhưng sau được giác ngộ, trở về chính đạo.
1.2.2.2 Sau khi Thực dân Pháp xâm lược nước ta:
Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm nước ta, Nguyễn Đình Chiểu liền chuyển
sang lên án mạnh mẽ quân xâm lược, phê phán triều đình như nhược, ngợi ca tinh
thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu của nhân dân. Ngòi bút của ông gắn
bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước. Trong bài Chạy giặc (1859),
ông đã tả cảnh “sẩy đàn tan nghé” khi giặc đến với niềm xót thương vô hạn. Trong
bài Ngóng gió đông (Xúc cảnh), ông vừa thể hiện sự oán trách triều đình, vừa biểu
lộ niềm mong mỏi triều đình giúp dân giữ gìn bờ cõi. Tiêu biểu hơn hết cho thơ văn
yêu nước của ông là những bài văn tế như: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861), Văn
tế Tướng quân Trương Định (1864), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh ( chưa biết
đích xác thời điểm sáng tác).
2) Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
2.1 Chức năng của văn chương
2.1.1 Văn chương để “chở đạo”
Có thể coi đây là chức năng truyền đạt, giáo dục của văn chương. “Đạo” ở đây
trước hết được hiểu theo quan điểm Nho giáo: nhân nghĩa, trung hiếu, tiết nghĩa,…
Ba vua, năm đế dấu vừa qua
Mối đạo trời trao đức thánh ta
Hai chữ cương thường dằn các nước
Một câu trung hiếu vững muôn nhà
(Dương Từ - Hà Mậu)
Cho hay muôn nước đều nhờ
Đạo ông Khổng tử làm bờ chăn dân
Trong đời biết chữ nhân luân
Biết đường trị loạn cũng phần nhờ ai
6



Như vầy mới gọi đạo trời
Trời sanh đức thánh thay lời trị dân
(Dương Từ - Hà Mậu)
Nét mực tu kinh ngăn đứa loạn
Dấu xe hành đạo rạch trong trần
(Dương Từ - Hà Mậu)
Chút phận riêng nương hơi núi rạng
Trăm năm ra sức dọn rừng nhu
(Ngư tiều y thuật vấn đáp)
Rừng nhu: đạo lý nhà Nho. Ý cả câu nói ra sức biểu dương, nêu cao đạo lý nhà
Nho.

Học theo ngòi viết chí công
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân thu
(Ngư tiều y thuật vấn đáp)
Lòng Xuân thu: lòng hăng hái vì chính nghĩa, chống gian tà, giữ gìn chính đạo
như tinh thần sách Xuân thu của Khổng Tử.
“Đạo” trong thơ Nguyễn Đình Chiểu đôi lúc còn mang dáng dấp của Lão giáo
qua hình ảnh ẩn dật, thoát tục của những ông Ngư, ông Quán, ông Tiều không
màng danh lợi. Dù là Nho giáo hay Lão giáo thì “đạo” đó đã được tiếp biến cho
phù hợp với điều kiện của đất nước, dân tộc. Sự tiếp biến đó thể hiện ở quan niệm
trung quân gắn liền với ái quốc. Có nghĩa là nếu vua không yêu nước thương dân
thì không nhất thiết phải trung theo một cách mù quáng. Điều đó thể hiện rõ trong
văn tế Trương Định – người đã vì ý nguyện của nhân dân mà mang tiếng phản
nghịch:
Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu…
(Văn tế Trương Định)
Trong Lục Vân Tiên, chữ “trung” được hiểu là thứ trung quân có điều kiện, trung
với vua đồng thời cũng là trung với nước, trung với lẽ phải, với lương tri của con
người. Qua lời ông Quán chúng ta thấy rõ, tư tưởng trung quân của Nguyễn Đình
7


Chiểu trước hết không phải xuất phát từ vua, mà là từ dân, từ lợi ích của dân, và
nhà thơ thấy chỉ có thể trung với những ông vua tốt, biết chăm lo cho dân. Còn đối
với những tên vua xấu, vua ác, làm hại và gây đau khổ cho dân thì ông lên án gay
gắt:
Quán rằng ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa sầm sẩy hang
Ghét đời U Lệ đa đoan

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời Ngũ bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời Thúc quý phân băng
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng hại dân…
(Lục Vân Tiên)
“Đạo” ở đây còn được hiểu là đạo lý truyền thống của dân tộc. Trước khi thực
dân Pháp xâm lược, “đạo” là lý tưởng nhân nghĩa. Nhưng nhân nghĩa ở đây không
hề giáo điều, cứng nhắc như nho giáo phong kiến. Trong sáng tác của Nguyễn Đình
Chiểu, các nhân vật làm việc nghĩa không bao giờ nghĩ đến chuyện được trả ơn,
báo ơn. Họ làm là vì việc nghĩa ấy không thể không làm, như truyền thống của cha
ông từ xưa để lại:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Hay:
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài
(Lục Vân Tiên)
Khi gặp lại Kiều Nguyệt Nga, cảm phục về tấm lòng sắt son chung thủy của
người yêu đối với mình, Vân Tiên không ngần ngại:
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn
8


Chàng đã làm một việc mà đạo đức phong kiến khó có thể tưởng tượng được, đó
chính là cách cư xử có tình, có nghĩa của con người Việt Nam.
Sự xâm lược của thực dân Pháp và cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống xâm
lược đã tác động hết sức sâu sắc đến đời sống của toàn dân tộc cũng như tâm tính
của từng người. Nguyễn Đình Chiểu trước đó còn ca tụng nhân nghĩa, đề cao đạo
Khổng thì bây giờ toàn bộ thơ văn của ông chuyển sang trận địa mới: đánh giặc cứu
nước. Chính lúc này, “đạo” trong quan niệm của nhà thơ đã phát triển thành tư

tưởng yêu nước thương dân.
2.1.2 Văn chương để “đâm gian”
Theo một cách gọi khác thì đây chính là “tính chiến đấu của văn chương”.
“Gian” ở đây là chỉ kẻ gian tà, bất nghĩa; bọn cướp nước và bán nước.
Là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học
để chở đạo, đâm gian. Tác phẩm của ông vì thế luôn chứa đựng tinh thần nhân văn
sâu sắc. Ở đó bao giờ bạn đọc cũng bắt gặp những tình cảm rõ ràng cụ thể: yêu –
ghét, cảm thông, căm giận… Những tình cảm ấy có thể được tác giả bộc lộ một
cách trực tiếp trong các tác phẩm, hay gián tiếp gửi gắm qua phát ngôn của nhân
vật. Và thái độ, tình cảm của ông Quán trong Lẽ ghét thương (Trích Lục Vân Tiên)
là một ví dụ tiêu biểu.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ, nhà văn giàu lòng yêu nước. Khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, lòng yêu nước ở ông dồn tụ nung nấu để phát tiết lên ngòi
bút đâm gian, chở đạo. “Đâm gian” là vạch tội ác kẻ thù, vạch trần tội ác của bọn
vua quan bán nước:
Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồng.
Biết thuở nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Khiến cho:
Ðau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét ở trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
9


Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhóm màu mây.
Hỏi ai dẹp loạn rầy đau vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
( Chạy Tây)
Ông đả kích tôn giáo mà ông cho là phản đạo lý, phản dân tộc và gọi là “tà giáo”.
Ông bênh vực Nho giáo, lên án những nhà nho mất gốc. Ngòi bút chính trị của ông
đâm thẳng vào bọn gian tà quen thói đè nén, cướp bóc dối trá đủ loại:
“Người thì mắc đạo vô luân,
Kẻ thì vô đạo rần rần dẫn ra.”
Như ông vặt mặt bọn tham quan ô lại:
“Kìa là thơ lại nhà quan
Chuộng bề xảo trá, khoe khoang hơn người
… Ham ăn của cải cho sang cửa nhà”
Bọn gian thương và bọn tiểu chủ hám lợi :
" Hay là công cổ chư gia
Đều tham chữ lợi, lại hòa chữ gian".
(Dương Từ - Hà Mậu)
Dấu chân của thực dân Pháp cùng tội ác của chúng đã in khắp đất nước, song
song với đó là sự phản bội đê hèn của bọn vua quan nhà Nguyễn đã gây nên bao
cảnh lầm than, phẫn nộ cho nhân dân Việt Nam. Sống dưới cảnh một cổ hai tròng
đã khơi dậy tinh thần yêu nước, đấu tranh của mỗi con người Việt. Với Nguyễn
Đình Chiểu, làm văn không chỉ để tải đạo mà còn để chiến đấu, chiến đấu trên mặt
trận tư tưởng. Ông dùng ngòi bút sắc bén của mình để vạch trần bộ mặt đen tối, xấu
xa của kẻ thù :
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
10


Truyền thống ấy đã và sẽ được kế thừa trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam:

"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong".
( Hồ Chí Minh)
"Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền".
( Trường Chinh)
2.2 Quan niệm về tính chất của văn chương
Có rất nhiều người cho rằng giá trị trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu hầu
như chỉ nằm ở nội dung tư tưởng, chứ ông rất yếu về mặt hình thức, nghệ thuật.
Quan niệm đó có đúng đi nữa thì cũng không đáng kể, bởi văn chương của ông là
một viên ngọc mà càng nhìn càng thấy sáng.
Theo Nguyễn Đình Chiểu, văn chương phải có sự kết hợp hài hòa cái hay, cái
đẹp về hình thức và nội dung. Trong bài thơ nhan đề Sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã
viết:
Lòng hềm kinh sử mấy mươi pho,
Vàng ngọc nào qua báu học trò.

Gặp thuở mày xanh siêng đọc sách,
Mỗi câu đều hưởng phúc trời cho.
Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, ở phần Lung khởi, Nguyễn Đình Chiểu có viết:
Ngư rằng: Vốn thật thày nhu,
Lòng cưu gấm vóc, lại giàu lược thao.
Nói ra, vàng đá chẳng xao,
Văn ra: dấy phụng, rời giao tưng bừng...
Qua các ví dụ trên ta có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu đã ví văn chương như
vàng, như đá, như “phượng múa rồng bay”, nói chung là rất đẹp. Nhưng đó không
11


phải là thứ văn chương ngâm chơi, phù phiếm mà phải mang ý nghĩa, giúp ích cho

đời, đặc biệt là phải chứa “đạo” …
Nguyễn Đình Chiểu say mê “đạo” đến nỗi mà trong Thư gửi cho em, ông đã viết:
“muốn cho em mùi đạo thơm tho”. Và như thế, “đạo” và “văn” trong văn thơ ông
luôn luôn hài hòa, như hai một mà một.
Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ta thấy tác giả sử dụng nhiều từ ngữ vô cùng
bình dị, gần gũi với đời sống thường ngày: manh áo vải, rơm con cúi, lưỡi dao
phay,… Đó là những chi tiết thực nhưng đồng thời lại mang tính ước lệ, tượng
trưng. Ngọn đèn là có thực nhưng ngọn đèn leo lét đã cạn dầu lại là tượng trưng,
ước lệ, vì nó cho ta hình dung về bà mẹ già đã cạn bầu sữa nuôi con, giờ chơ vơ ở
đêm khuya khoắt. Cũng vậy, bóng xế ở vế sau là bóng xế tả thực của một ngày,
nhưng còn là cái bóng xế, bóng đêm đen tối, bi thảm của cả một đời người phụ nữ.
Chất hiện thực và tượng trưng cứ đan lồng vào nhau, tạo nên chất thơ lóng lánh cho
tác phẩm. Nói Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác, một tác phẩm hài hòa toàn
mỹ giữa nội dung và hình thức là như thế.
Ngoài ra, ông còn có những câu văn rất hay, rất đẹp, thấm đẫm chất thơ:
Hỏi thì ta phải nói ra
Ba ngàn thế giới, ta là vô danh
(Dương Từ - Hà Mậu)
Hay trong Lục Vân Tiên, khi mẹ mất, chàng khóc mẹ nhưng cũng chính là giọt
nước mắt xót xa của tác giả. Lời thơ đẹp, hòa vào tình cảm yêu thương, đau xót
trong lòng của tác giả:
Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay
Tưởng bề nguồn nước cội cây,
Công cao nghìn trượng, ơn dày chín trăng
2.3 Quan niệm về người sáng tác văn chương
2.3.1 Người sáng tác văn chương phải có thực tài, khổ học
Người cầm bút muốn thành công, đóng góp cho đời thì cần phải có thực tài, tài
năng. Đó là điều đương nhiên bởi không có thì ta không thể tiến xa được. Các nhân
12



vật tiều, ngư trong Dương Từ - Hà Mậu, Lục Vân Tiên hay Kỳ Nhân Sư trong
“Ngư tiều y thực vấn đáp” đều là những người có thực tài. Khi nói đến tài học của
Lục Vân Tiên cụ Đồ Chiểu viết rằng:
Văn đà khởi phụng đằng giao.
(Văn đẹp như con phượng trỗi dậy, con rồng bay cao)
(Lục Vân Tiên)
Nguyễn Đình Chiểu còn nêu rõ quan điểm người viết văn chương không những
phải có thực tài mà còn phải siêng năng, tìm tòi, miệt mài khổ học “dày công bên
đèn sách.”
Nhà nho đèn sách công dày,
Tài kiêm tám đấu sách đầy năm xe.
Hay ông đã ca ngợi người thầy “Tuy ngồi một chỗ, suốt thông trăm đời” và cũng
vì thầy :
Nho, y, lý, bốc , đạo đời
Mấy mươi pho sách đều nơi bụng thầy
Chúng ta không biết về thuốc đông y, nhưng đọc Ngư Tiều y thuật vấn đáp cũng
thấy sự tìm học, uyên bác của cụ Đồ Chiểu:
… Như ông Biển Thước nhà ta,
Tám mươi mốt quyển gọi là Nam kinh.
Như ông Hoàng Phủ tài lành,
Dọn kinh Giáp Ất để danh thơm đời
Mạch kinh đọc sách họ Vương,
Sự thân đọc sách ông Trương Tử Hòa…
Điều này biểu hiện rõ qua thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Là một nhà Nho mù
nếu không thực tài và khổ học thu nhập những kiến thức thì trong thơ ông không
thể xuất hiện và sử dụng quá nhiều điển tích một cách uyên bác được. Chẳng hạn:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn
trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.”

(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
13


Tiếng phong hạc là tiếng gió thổi, tiếng chim Hạc kêu, chỉ sự trông ngóng chờ
đợi. Tấn thư: Phù Kiên đem trăm vạn quân dàn trận ở Phí Thủy. Tạ Huyền dẫn
8000 quân tinh nhuệ vượt sông đánh giặc. Quân Phù Kiên tan vỡ vứt giáp chạy tán
loạn, nghe tiếng gió thổi, tiếng chim hạc kêu (Phong thanh hạc lệ) tưởng là quân
đến cứu viện. Mượn điển tích xưa để nói lên nỗi mong chờ, trông ngóng của nhân
dân vào triều đình phong kiến sẽ ra quân đánh đuổi giặc Pháp. Thế nhưng triều
đình phong kiến lại hèn nhát án binh bất động.
Như vậy, những câu thơ, văn lâm ly thống thiết trên đây là kết quả của một sự
phối hợp hài hòa điển xưa với việc mới, là kết tinh của tinh hoa cổ kim, của truyền
thống nhân loại. Đây là minh chứng cho chúng ta thấy được sự uyên bác thực tài và
khổ học của Nguyễn Đình Chiểu trong quan điểm sáng tác của mình.
2.3.2 Người sáng tác văn chương phải có hoài bão
Hoài bão: điều lớn lao và tốt đẹp ấp ủ trong lòng dự định muốn làm.
Từ nhỏ đến lúc trưởng thành, được rèn luyện và tiếp thu những yếu tố tích cực
của Nho giáo, Nguyễn Đình Chiểu muốn đem những hiểu biết của mình ra để “phò
đời, giúp nước”. Chẳng may ông bị mù, nên chí nguyện không đạt. Nhưng một
người có ý chí như ông, không thể nào lùi trước bệnh tật. Không thể hiện được hoài
bão của mình trên trường chính trị, ông gửi gắm những hoài bão đó vào tác phẩm
văn học, vào nhân vật của mình.
Nhân vật Vân Tiên trong tác phẩm Lục Vân Tiên như là một câu truyện tự thuật
về cuộc đời ông, thể hiện từng tính cách cũng như lối sống của con người ông. Một
con người có hiếu có nghĩa. Vân Tiên là một người con có hiếu, vì thương xót
người mẹ qua đời mà bỏ đi cơ hội lập thân cũng như đau thương đến độ dẫn đến
mù cả mắt:
“Hai hàng lụy ngọc ròng ròng
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.”

(Lục Vân Tiên)
Con người như Vân Tiên khó tìm thấy ở một xã hội đang lũng bại lúc bấy giờ,
mặc dù đã chịu ảnh hưởng của đạo lý nho gia nhưng đối với mẹ, Vân Tiên là người
con hiếu thảo, đối với xã hội chàng là người có trách nhiệm. Con người chàng có
đủ trung hiếu làm đầu và nhân nghĩa làm gốc, mong muốn lập thân không vì công
danh lợi lộc mà là vì muốn “phò đời giúp nước”. Xứng đáng là một nhân cách lớn.
14


Và trong tác phẩm Lục Vân Tiên nhân vật Vân Tiên đúng là đại diện cho một
nhân cách lớn, một nho sĩ bình thường mà lại nung nấu trong lòng ý chí của một
bậc anh hùng.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy là phi anh hùng”
(Lục Vân Tiên)
Đó là lời của bậc anh hùng dưới hình hài của một người học đạo, sẵn sàng ra tay
giúp đỡ kẻ yếu mà chẳng cần phải toan tín thiệt hơn làm gì, một con người lý tưởng
trong xã hội hữu bại.
Đối với nhân dân, Cụ Đồ Chiểu gửi hoài bão, ước mơ của mình. Ông đã gửi
niềm tin tuyệt đối của mình vào nhân dân với cuộc chiến không cân sức giữa quân
ta và giặc Pháp, họ là những con người chỉ biết có ruộng đồng, chưa quen với việc
binh đao thế nhưng họ lại có một tin thần tự giác cao vời vời:
“Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình Chẳng thèm trốn ngược
chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Hay: “Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc
cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình
như chẳng có; Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.” (Văn tế nghĩa sĩ Cần
giuộc)
Tự hào về những gì mà họ đã làm được, và làm cho cả phần ông muốn làm.

Ngay từ những ngày đầu thựcdân Pháp vào xâm lược nước ta thì trái tim ông đã
đau nhói khi chứng kiến nỗi đau của những người nông dân nhỏ bé:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Bầy chim mất tổ dáo dác bay
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nở để dân đen mắc nạn này”
(Chạy giặc)
Ông kêu lên tiếng kêu nấc lòng, như một tiếng cầu cứu và có lẽ kể từ giây phút
đó ông đã xác định được đối tượng mà ông đặt nỗi lòng của mình. Và khi người

15


nông dân ở những ngày đầu cần được chở che kia đã trở thành những bậc anh hùng
đứng lên từ đau thương mất mác thì ông lại càng yêu thương và quý mến họ hơn:
“Hỏa mai được đánh bằng gươm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm
đeo bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ.” (Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc)
Chiến tranh là mất mát, họ những con người quả cảm, đã hy sinh, hy sinh trong
vinh quang, đối với Nguyễn Đình Chiểu thì sự ra đi của họ là mất mát thế nhưng họ
chết mà như sống, mất mà như còn, trong ông những hình ảnh về những người
nông dân áo vải kia không bao giờ chết.
Nhận thấy nỗi đau da diết cứ bám lấy người nông dân không buông, ông lại càng
hận hơn nữa những con người quên trọng trách của mình, những con người bạc
nhược, tham sống kia hơn:
“Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồn Biết thuở
nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.”
(Văn tế Trương Định)
Lòng căm thù giặc khôn xiết đã tạo cho Nguyễn Đình chiểu những lời văn ca
ngợi sức mạnh không gì phá hủy được của người nông dân, họ đi vào thơ văn cũng

như đi vào lòng dân tộc một cách rất tự nhiên, tình cảm dân tộc dành cho họ cũng
hết sức tự nhiên mà có được không chút gượng ép nào cũng như tinh thần yêu
nước, quan điểm đối với bọn giặc xâm lược của Nguyễn Đình Chiểu:
“Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm
buồn; Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gậm bánh mì, nghe càng them hổ”.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Kể từ khi đất nước có giặc ngoại xâm, triều đình nhà Nguyễn lần lượt kí hiệp
ước chia đất, nhường dân cho bọn chúng thì Nguyễn Đình Chiểu càng mất niềm tin
vào triều đình nhưng ông vẫn chưa thoát khỏi ý thức hệ phong kiến. Ông đã từng
có quan điểm lẽ sống ở đời là lẽ thờ vua, nhưng thờ vua của ông giờ trong ông
không còn là lẽ sống mà ông đã chuyển đổi nó sang trung với nước hiếu với dân,
lòng yêu nước thương dân của ông cũng bắt đầu từ đây. Ông không còn hy vọng
vào triều đình có thể che chở cho nhân dân nữa, mà ông đã trông vào những trang
dẹp loạn, những người anh hùng không ngại gian khổ và ngay cả cái chết, chết mà
như sống, mất mà như còn, là những tình cảm mà ông ưu ái dành cho những bậc
anh hùng yêu nước thương dân.
16


“Lục Lâm mấy chặng hoa sầu bạn
Thủy Hử vì đâu nhạn rẽ bầy”
(Văn tế Trương Định)
Chế độ phong kiến bước vào giai đoạn suy tàn, họ đã rũ bỏ quyền lãnh đạo nhân
dân đấu tranh chống lại ngoại bang, đều này đã dẫn đến sự phẫn nộ trong lòng dân
nhất là ở Nam kỳ khi triều đình lần lượt cắt đất cho bọn xâm lược, giao con dân của
mình cho vào miệng cọp. Nhưng lúc bấy giờ những nhà nho trong đó có hoài bão
của cụ Đồ Chiểu, chấp nhận mang tiếng nghịch thần để tạo ra them cơ hội đứng về
phía nhân dân bảo vệ họ, cùng họ chiến đấu chống lại ngoại bang:
“Viên đạn nghịch thần treo trước mắt,
Lưỡi gươm địch khái ở trong tay”

Hay: “Giúp đời dốc trọn ơn nam tử
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần”
Đó là những con người anh hùng cùng chung hoàn cảnh và tâm trạng với
Nguyễn Đình Chiểu. Đạo thờ vua đã được họ uyển chuyển thành lòng yêu nước
thương dân…
Dù rằng bản thân không đủ điều kiện để đứng ngoài trận tuyến cùng nhân dân
chống lại quân xâm lược thì ông đã thể hiện lòng trung quân ái quốc của mình theo
một cách khác, ông chiến đấu bằng ngòi bút, dùng văn học để chiến đấu và cũng
dùng văn học để vạch rõ tội ác của bọn quân cướp nước mang tiếng bảo hộ nhưng
lại vơ vét của dân, làm cho nhân dân rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã là “lũ treo dê mà
bán chó”.
2.3.3 Người sáng tác văn chương phải trung thực, ngay thẳng, có tâm và tấm
lòng trong sáng
Đối với Nguyễn Đình Chiểu, việc cầm bút sáng tác không chỉ là một cách để nói
lên cái chí khí, cái tâm nguyện của mình như các nhà nho xưa. Nhưng đối với ông
cầm bút viết văn là cả một thiên chức. Ông có quan điểm rõ ràng rằng đã là người
cầm bút thì phải trung thực.Và ông quý trọng cái chức trách của mình, ông căm
ghét bọn lợi dụng văn chương để làm việc thị phi, dối trời lừa dân:
“Thấy nay cũng nhóm văn chương
Vóc dê, da cọp khôn lường thực hư?”
17


Ông khinh ghét những con người tả ra mình là một con người có học thức, ra oai
đối với người khác. “Nhóm văn chương” là những người học rộng biết nhiều, cũng
cùng họp lại đối ẩm văn thơ với nhau. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu lại nói với một
giọng mỉa mai “vóc dê, da cọp khôn lường thực hư?” ông đã cho thấy bản chất của
những con người này chỉ được bề ngoài nhưng bên trong lại chẳng có gì, học hành
dốt nát:
Quán rằng: sấm chớp mưa rào

Ếch nằm đáy giếng thấy bao năm trời

Uổng thay đàn gảy tai trâu
Nước xao đầu vịt nghĩ lâu nực cười.
Nguyễn Đình Chiểu đã hóa thân vào một ông quán tầm thường để cười vào mặt
những người tự cho mình là văn hay chữ tốt. Ông đả kích mạnh mẽ những người
xem thường văn chương.
Hay trong “Ngư tiều y thuật vấn đáp”
Có người vốn nghiệp chẳng hay
Giả làm mặt biết, lời bày chê khen
Đua nhau trở trắng thay đen
Hình hươu lốt chó thói quen dối đời.
Những người đã không biết thì thôi lại còn khua môi múa mép, cũng lên mặt
bình phẩm như ai nhưng thực chất những người đó bên trong lại chẳng có gì chỉ
được vẻ bề ngoài.
Đối với Nguyễn Đình Chiểu người cầm bút không chỉ cần có sự ngay thẳng,
trung thực mà còn phải có một cái tâm trong sáng:
Giàu sang có số trời giành
Trau mình giữ thẳng làm lành mới nên
Mượn lời nói của các nhân vật trong “Dương Từ Hà Mậu” để nói lên quan điểm
của mình: con người giàu sang có số trời định sẵn, đừng tham lam nhưng phải giữ
được cốt cách của người cầm bút, giữ lòng ngay thẳng không bị vật chất làm cho
nên mù quáng.
18


Hay trong “Ngư tiều y thuật vấn đáp” thì con người có lúc phải hy sinh cả một
phần thân thể để bảo vệ cho cái nhân cách của mình:
Thày ta chẳng khứng sĩ Liêu
Xông hai con mắt bỏ liều cho đui

Gặp cơn trời tối mà đui
Khỏi gai con mắt, lại nuôi đặng lòng
Hay:
Từ xưa có kẻ cạo đầu
Giả câm, giả dại lánh sâu nước loan
Vả nay trời bước gian nan
Thà không mắt thấy khỏi mang dạ sầu
Nhân Sư trong “Ngư tiều y thuật vấn đáp” đã cố ý hủy đi một phần thân thể để
giữ lại nhân cách cho mình, thà không nhìn thấy còn hơn thấy mà chẳng thay đổi
được gì.
Không hủy đi một phần thân thể để bảo vệ khí tiết như Nhân Sư nhưng Nguyễn
Đình Chiểu luôn giữ được sự trong sáng trong tâm hồn mình dù có sống trong
những nơi dơ bẩn:
Dẫn rằng: mày mặt như sen
Chôn trong bùn lấm mà bèn sạch trơn
Không cần lui vào ở ẩn nhưng vẫn giữ được cốt cách, giữ được tâm hồn trong
sáng, sống trong xã hội đầy những bất công dối trá, những nhơ nhớp những không
bị ảnh hưởng gì bởi những sự lùa lọc dối trá đó. Đó là những gì mà một người sáng
tác văn chương cần phải có.
Thông qua các nhân vật của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã ngầm nói lên được
quan điểm của mình. Một người sáng tác văn chương cần phải trung thực, ngay
thẳng và điều đặc biệt là phải có một tâm hồn trong sáng.
2.3.4 Người sáng tác văn chương phải có ý thức trau dồi, tu dưỡng về tài năng
và nhân cách.
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu đầy đau khổ bất hạnh sống lưu lạc từ bé, mẹ mất,
bị mù lòa, bị từ hôn…những tưởng những bất hạnh này có thể làm ngục ngã được
19


ông. Nhưng với nghị lực phi thường Nguyễn Đình Chiểu đã vượt qua mọi thử

thách. Với sự cố gắng và học hỏi không ngừng dù là một kẻ đui mù ông đã trở
thành người có ích cho xã hội. Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học vừa làm
thầy thuốc chữa bệnh rất có tâm thương người nghèo khó:
Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng mau mau trị lành
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Muốn thế người thầy thuốc phải không ngừng trau dồi y đức:
Bệnh nào cho thuốc chẳng lành
Nhỏ lòng lo sợ, xét mình phải chăng
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Nguyễn Đình Chiểu hết sức coi trọng việc học, việc trao dồi tri thức. Trong khi
chưa bị giặc Pháp xâm lược, ông nghĩ mình học tập trau dồi kinh sử để thi đỗ làm
quan mang tài năng của mình ra phò vua giúp đời như Lục Vân Tiên, Dương Tử
Trực. Nhưng đến khi đất nước bị giặc xâm lược thì ông không còn nghĩ đến việc
học để thi đỗ làm quan nữa, bởi lẽ:
Dầu vinh cũng tiếng nhân thần
Trâu cày ngựa cưỡi cái thân ra gì
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Tuy vậy bao giờ ông cũng coi trọng việc học hơn cả. Trong quan niệm của ông,
sĩ , nông, công, mọi nghề là ngang nhau:
Câu văn thêu dệt đời đời chuộng
Mùi đạo trao dồi bữa bữa no
Vì coi trọng việc học, việc trau dồi tri thức cũng như đạo đức nhân cách của con
người mà ông coi mọi nghề ngang nhau, chỉ trước hết dùng đạo đức để bình giá con
người, cho nên các nhân vật trong thơ của Nguyễn Đình Chiểu từ ông qua, học trò,
thầy thuốc cho đến ngư, tiều, ông chủ quán cơm, chú tiểu đồng, những người lao
động đều là những nhân vật có học thức cả. Người có học thức biết trau dồi tu
dưỡng bản thân thì dù làm bất cứ nghề gì họ cũng là những người cao quý được xã
hội tôn trọng.
20



Nguyễn Đình Chiểu vốn xuất thân từ gia đình phong kiến lớp dưới nên ảnh
hưởng của ông đối với đạo nho là rất sâu sắc. Khác với đạo nho đậm chất luân lí
phong kiến khuôn phép mà Nguyễn Đình Chiểu không ngừng học tập trau dồi sách
vở thánh hiền dung hòa với đạo lí truyền thống dân tộc nên đạo của ông thể hiện
mọi vấn đề trong cuộc sống chứ không phải chỉ có yêu nước thương dân thôi, lại là
tư tưởng rất tiến bộ, có tính nhân dân sâu sắc. Nếu ta theo dõi việc đọc sách của
ông qua các điển tích, lời lẽ mà ông trích dẫn, thì sẽ thấy ông đọc rất nhiều các
chính sách của đạo nho, những kinh truyện cơ bản của Khổng, Mạnh, Tống Nho,
không sâu không nhuyễn lắm, chọn lựa dẫn ra cũng tùy ý mình mà ngộ ra:
Chỗ hay nương lấy ý mình suy ra
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Theo ông việc học tập, trau dồi tri thức không phải là cứ học, đọc, thuộc nhiều là
giỏi là hay mà phải hiểu, phải tiếp thu một cách sáng tạo, diễn giải theo cách mình
hiểu phù hợp với đạo đức tuyền thống của dân tộc có như thế thì văn chương mới
dễ thấm vào lòng người. Ví dụ như trong Lục Vân Tiên tư tưởng trung hiếu tiết
nghĩa là chủ đề chính của Nguyễn Đình Chiểu. Lục Vân Tiên viết trước khi thực
dân Pháp xâm lược nên tư tưởng trung quân là tư tưởng được các nhà nho tôn thờ.
Nhưng qua nhân vật ông Quán một trí thức không thích công danh, Nguyễn Đình
Chiểu đã lên án các vua chúa làm hại dân:
Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm
(Lục Vân Tiên)
Đó là những quan điển tiến bộ của ông khi tiếp thu trau dồi đạo nho một cách
chọn lọc đầy sáng tạo và không ngừng hoàn thiện về nhân cách và tài năng văn
chương của mình.
2.3.5 Người sáng tác văn chương phải có đạo đức, nhân cách
Không phải ngẫu nhiên mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói về Nguyễn
Đình Chiểu “Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”. Đối
với Nguyễn Đình Chiểu, thì người cầm bút sáng tác văn chương, người viết văn

phải là người có đạo đức, có nhân cách. Đạo đức và nhân cách ấy không chỉ thể
hiện qua trang văn mà còn thể hiện qua lối sống, cách hành xử trong cuộc đời.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu chan hòa với cuộc sống của nhân dân. Từ sau
khi bị mù ông vẫn làm một lúc ba việc: dạy học, làm thuốc, viết văn – ba người tri
thức trong một con người. Tuy có một cuộc đời đầy bi kịch và bất hạnh, nhưng ông
21


vẫn không cho phép bản thân mình đứng yên, không cho phép mình chịu thua số
phận, ba con người tri thức trong một con người ấy là minh chứng cho một nhân
cách sống vĩ đại của dân tộc. Không dừng lại ở đó, cụ Đồ Chiểu còn thể hiện nhân
cách và đạo đức của mình khi Pháp mời mọc nhưng ông vẫn kiên quyết bất hợp tác
với Pháp. Tất cả đã chứng minh ở ông là một con người có lối sống, có đạo đức và
nhân cách đáng kính nể. Một phần đời bất hạnh như cụ Đồ Chiểu, thường tình mấy
ai sống nổi, nếu phải sống cho ra sống? Nhưng Đồ Chiểu đã sống, hơn nữa, sống có
ích cho đời vào bậc nhất bấy giờ. Như đã nói, từ khi mù cho đến trọn đời , ông luôn
cùng lúc làm ba việc, cả ba việc đều là công nghĩa. Điều đó chứng minh rằng ông
luôn là người biết học hỏi trau dồi vốn sống, là người sống có đạo đức, có tình
thương thế nên nhân dân vô cùng yêu mến ông. Một người thầy thuốc, một người
thầy giáo, một người viết văn, tất cả ta chỉ có thể tìm thấy được đầy đủ ba con
người ấy trong một con người vĩ đại – Nguyễn Đình Chiểu.
Ông luôn tâm niệm rằng, người cầm bút sáng tác văn chương là người phải biết
trau dồi đạo đức, nhân cách. Đạo đức và nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu đã thể
hiện qua lối sống của ông, còn thể hiện qua văn chương của ông. Văn chương của
Nguyễn Đình Chiểu, bên cạnh lời răn dạy, giảng giải về cách ứng xử đạo đức chân
chính, còn là tiếng kèn giục giã ra trận, cổ vũ và kích thích tinh thần của nhân dân
đứng lên chống xâm lược. Từng trang văn của cụ Đồ Chiểu vì lẽ đó mà đi vào lòng
người dân Nam Bộ nói riêng và người dân cả nước nói chung, văn chương của ông
thể hiện lòng yêu đức sâu sắc của người con đất Việt mà còn thể hiện đạo đức của
người cầm bút. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, có nhiều người mang danh kẻ sĩ

hèn nhát đã đầu hàng kẻ hàng, phản bội đất nước, Nguyễn Đình Chiểu đã lên án
phê phán những con người không có đạo đức, nhân cách ấy :
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình.
Trên cương vị là một nhà thơ, cái sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu là nhìn thẳng
vào thực tại xã hội, lên án những thói hư tật xấu của con người. Từ đó chỉ ra những
điều hay lẽ phải dạy cho chúng ta có lối sống tốt đẹp. Hơn ai hết, ông cũng là người
sống trọn đạo nghĩa với đất nước với dân tộc, dù hoàn cảnh có nghiệt ngã ra sao, dù
số phận có thử thách ông thế nào thì con người ấy vẫn giữ trọn “một tấm gương”.
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
22


Nguyễn Đình Chiểu luôn luôn giữ nhân cách mình trong sách, thanh thoát đối
với những mồi danh lợi:
Vòng danh xiềng lợi thả rong,
Vật ngoài gió bụi, người trong thiên thần
Ông còn quan niệm rằng:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình
cảm của nhân dân nói chung và những người yêu mến thơ văn của của ông nói
riêng. Bên cạnh bày tỏ lòng yêu nước, văn chương của Nguyễn Đình Chiểu còn là
lời răn dạy, giảng giải cho mỗi con người, mỗi thế hệ và hơn hết là người cầm bút
sáng tác phải là người có đạo đức, nhân cách. Đạo đức và nhân cách không chỉ thể
hiện qua văn chương mà còn phải thể hiện trong cuộc sống để mỗi trang văn của
người cầm bút sẽ luôn có sức sống bền vững như thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
3) Tổng kết
Qua việc phân tích Nguyễn Đình Chiểu ở các khía cạnh: chức năng văn chương,

tính chất văn chương và quan niệm về người sáng tác văn chương, ta có thể cảm
nhận quan điểm nghệ thuật của ông, thơ văn của ông là một khối thống nhất và
trong suốt như pha lê. Hay nói cách khác, văn thơ ông sẽ muôn đời sáng mãi thứ
“ánh sáng khác thường” bởi đó là vì nó phản chiếu ánh sáng nguyên chất trong trẻo
phải ra từ cuộc đời và tấm lòng của ông.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản giáo
dục, 1998.
Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học Trung đại Việt Nam (Thế kỉ X – cuối thế kỉ
XIX), nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 2009.
Lê Trí Viễn, Lịch sử văn học Việt Nam tập 4A, nhà xuất bản giáo dục, 1976.
Phạm Văn Ánh, Nguyễn Đình Chiểu- tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam, 2009.
Hồ Sĩ Hiệp, Nguyễn Đình Chiểu, Nhà xuất bản văn nghệ, 1997.

24




×