Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà giang hiện nay (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG ÁI XOAN

CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN Ở
TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM MINH SƠN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Chất lượng công tác tuyên truyền miệng

của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà giang hiện nay ” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực,
được trích dẫn từ các nguồn công khai, hợp pháp, không sao chép từ bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

ĐẶNG ÁI XOAN



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG
TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN ..... 10
1.1. Khái niệm, vai trò, nội dung và đặc điểm công tác tuyên truyền miệng
của đội ngũ báo cáo viên ............................................................................. 10
1.2. Quan niệm về chất lượng, tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ..... 17
Chương 2 CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA
ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN Ở TỈNH HÀ GIANG – THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................... 27
2.1. Đặc điểm của tỉnh Hà Giang ................................................................ 27
2.2. Thực trạng chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo
cáo viên ở tỉnh Hà Giang............................................................................. 30
2.3. Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra về
chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà
Giang ........................................................................................................... 48
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN Ở TỈNH
HÀ GIANG HIỆN NAY ................................................................................ 58
3.1. Dự báo những nhân tố tác động, mục tiêu nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang .................. 58
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền
miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang ....................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
CÁC BÀI BÁO CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ............. 83
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 84



DANH MỤC BẢNG, BIỂU
BẢNG

Bảng 2.1: Trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của đội ngũ báo cáo viên . 40
Bảng 2.2: Kết quả khảo sát cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền ..... 44
BIỂU
Biểu 2.1: Khảo sát chất lượng nội dung tuyên truyền .................................... 33
Biểu 2.2: Mức độ phù hợp của thông tin ........................................................ 34
Biểu 2.3: Các lĩnh vực được thông tin ............................................................ 34
Biểu 2.4: Khảo sát về chất lượng báo cáo viên ............................................... 42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của công tác
tư tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân. Cùng với các
công cụ, phương tiện tuyên truyền khác, tuyên truyền miệng có vai trò rất quan
trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, góp phần truyền bá sâu rộng trong cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, Nhà nước với công dân, Trung
ương, địa phương với cơ sở, tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Tuyên truyền là đem lại
một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân làm".
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn
diện có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, đối
ngoại, quốc phòng - an ninh. Tuy nhiên, đất nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn,
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và ngày càng diễn biến phức tạp.

Quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị thế giới nói chung và xu
thế phát triển của các quốc gia, dân tộc nói riêng. Các thế lực thù địch tăng cường
thực hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa,
nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng,
từng bước thay đổi mục tiêu, định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến tới thực hiện "đa
nguyên chính trị", "đa đảng đối lập", gây dựng các thế lực chống đối chính trị ngay
trong nội bộ đất nước. Lợi dụng các quan hệ hợp tác, hội nhập, giao lưu, viện trợ...
để sử dụng các chiêu bài "tôn giáo", "dân tộc", "dân chủ", "nhân quyền" làm ngòi
nổ, kết hợp với răn đe, gây bạo loạn lật đổ…
Trong nước, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra

1


rất nghiêm trọng; những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ diễn biến phức tạp…
Xác định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng,
Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa X) đã ban hành Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 1510-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa X) “Về tiếp tục đổi mới và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới”. Đảng
bộ tỉnh Hà Giang quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao công tác tư tưởng nói chung,
công tác tuyên truyền miệng nói riêng, từng bước đi vào hoạt động có nề nếp và đạt
được một số kết quả nhất định về tổ chức bộ máy và hoạt động của đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên; kịp thời củng cố, đổi mới về phương thức, nội dung tuyên
truyền phù hợp với từng thời điểm, từng đối tượng tuyên truyền, góp phần quan
trọng trong việc nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền của Đảng trong những năm qua còn bộc lộ

một số hạn chế, yếu kém như: (1) Do vẫn còn một số cấp ủy chưa thực sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền miệng nên công tác kiện toàn tổ chức và
quản lý, hướng dẫn hoạt động của đội ngũ báo cáo viên các cấp còn nhiều bất cập. Đội
ngũ báo cáo viên các cấp đông nhưng chưa mạnh, trình độ lý luận chính trị, chuyên
môn và kỹ năng nghiệp vụ còn nhiều hạn chế; (2) Việc kiểm tra công tác tuyên truyền
miệng và hoạt động báo cáo viên chưa được tiến hành thường xuyên, ở cả Trung ương
và địa phương; (3) Việc xây dựng nội dung chương trình, nhất là việc lựa chọn các
chuyên đề chuyên sâu, đảm bảo tính thời sự, tính thiết thực, đáp ứng nhu cầu thông tin
nhanh, những vấn đề “nóng”, bức xúc, nhạy cảm cho đội ngũ và việc xây dựng kế
hoạch, tổ chức hội nghị báo cáo viên thường kỳ, hoặc đột xuất các cấp còn giản đơn,
thiếu khoa học, chưa có nhiều phương án để lựa chọn nên có lúc, có nơi chất lượng còn
hạn chế. Chưa có nhiều chuyên đề hay, ấn tượng; chưa xây dựng và kết nối chặt chẽ
được một đội ngũ cộng tác viên tâm huyết, chuyên nghiệp. Còn bị động trong việc mời
giảng viên, một số giảng viên kỹ năng thuyết trình còn chưa đạt yêu cầu, thông tin
thiếu tính định hướng, tính dự báo còn thấp, chưa sát với tình hình... Chưa làm tốt
chức năng tham mưu để tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, phổ biến kinh

2


nghiệm cho đội ngũ báo cáo viên ở các địa phương; (4) đội ngũ báo cáo viên, vẫn
còn một bộ phận năng lực diễn thuyết, đối thoại và ứng dụng công nghệ thông tin
vào công tác tuyên truyền còn hạn chế. Vì vậy, thông tin từ Trung ương tới cơ sở
chưa được thông suốt hoặc chậm; tuyên truyền đấu tranh phản bác những quan điểm
sai trái và âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch còn hạn
chế [61, tr.7]
Yêu cầu đặt ra lúc này là vừa phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, vừa
đảm bảo giữ trật tự an toàn xã hội, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể, nhất là đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cần nỗ lực
góp phần thực hiện cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, đưa nghị quyết vào cuộc sống, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã
hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền nói chung, tuyên truyền miệng nói riêng của Đảng bộ tỉnh Hà Giang để
chuyển tải chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản
chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân trong tỉnh là nhiệm vụ cấp thiết, để thống nhất ý chí và hành động trong
xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng, giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội là yêu tố quan trọng, có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn và tính thời sự sâu sắc, góp phần bảo vệ vững chắc vùng biên cương của Tổ
quốc.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tôi chọn đề tài “Chất lượng công tác
tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang hiện nay”, làm
luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác tư tưởng nói chung và công tác tuyên truyền miệng nói riêng đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu, đề cập đến với những cách luận giải, tiếp
cận khác nhau; nhiều đề tài, sách chuyên khảo, luận án, luận văn… nghiên cứu về
công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền trong đó có công tác tuyên truyền miệng,
được phân thành các nhóm sau:

3


* Về sách chuyên khảo và bài viết trên tạp chí chuyên ngành:
Ngô Huy Tiếp, Đinh Ngọc Giang (2010), Nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tư tưởng ở cơ sở. Cuốn sách trình bày và làm rõ hệ thống những vấn đề lý
luận cơ bản về công tác tư tưởng của Đảng ở cơ sở, trong đó đã đề cập đến vị trí, vai
trò của công tác tuyên truyền miệng và nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức công
tác tuyên truyền miệng ở cơ sở.

Ngô Huy Tiếp (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng
hiện nay. Cuốn sách trình bày và làm rõ có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về
công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, trong đó, đề cập đến khái
niệm và các hình thức hoạt động của công tác tuyên truyền nói chung, tuyên truyền
miệng nói riêng và cổ động của Đảng.
Trần Doãn Tiến, Trần Viết Lưu (2015), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác tuyên giáo, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Tạp chí Tuyên giáo số 1 – 2015.
Bài viết đã nêu lên những nhận định của Hội nghị Toàn quốc tổng kết công tác
tuyên giáo năm 2014, triển nhiệm vụ trọng tâm của công tác tuyên giáo trong năm
2015.
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Ninh Bình: Lựa chọn giải pháp đối thoại để
nâng cao hiệu quả tuyên truyền miệng, Tạp chí Tuyên giáo số 3 - 2015, bài viết đã
nêu hình thức đối thoại như một giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng tại tỉnh.
Nguyễn Văn Vững, Bắc Ninh, Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng đội
ngũ báo cáo viên, Tạp chí Báo cáo viên tháng 3-2016. Bài viết nêu rõ nhận thức của
cấp ủy đảng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng,
quá trình lãnh đạo đổi mới về nội dung, hình thức tuyên truyền của Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh, đồng thời đề ra các giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt
động của báo cáo viên trong thời gian tới.
Nguyễn Văn Tuấn, Hòa Bình, Mười năm triển khai, thực hiện Chỉ thị số 17CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong hoạt động báo cáo viên, Tạp chí
Báo cáo viên tháng 5-2017. Bài viết nêu rõ nhận thức của cấp ủy đảng về vị trí, vai
trò và tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng, việc lãnh đạo đổi mới về nội

4


dung, hình thức tuyên truyền của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình, đồng thời rút ra những bài
học kinh nghiệm về đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của báo cáo viên trên
địa bàn tỉnh.

* Về đề tài khoa học:
Đàm Văn Bông, Hà Giang, Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ báo cáo viên
cơ sở tỉnh Hà Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Giang, 2010. Đề tài nêu thực trạng
những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, yếu kém cần khắc phục trong công tác
tuyên truyền của đội ngũ báo cáo viên cơ sở. Trên cơ sở đó nêu một số nhóm giải pháp
nâng cao năng lực của đội ngũ báo cáo viên cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Đề tài khoa học (Mã số ĐTĐL 2003-17) Nghiên cứu, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
tình hình mới, do Nguyễn Hồng Vinh làm chủ nhiệm. Đề tài đã đánh giá tình hình, nêu
phương hướng, nhiệm vụ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lương Khắc Hiếu (2006), Tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh và một số suy
nghĩ về công tác tuyên truyền hiện nay. Đề tài nêu ra một số nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác tuyên truyền, làm rõ phong cách sử dụng ngôn ngữ văn bản
trong khi nói, viết của Hồ Chí Minh và nêu một số giải pháp nhằm đổi mới công tác
tuyên truyền.
* Về luận án, luận văn:
Vũ Văn Vở (2009), Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ
huyện ở tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị - Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn chất lượng công
tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải Dương, đồng thời đề xuất
một số nhóm giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng và hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên của các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải Dương.
Lâm Quang Minh (2011), Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các
đảng bộ quận ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học chính trị - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài
đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác tuyên truyền miệng của

5



các đảng bộ quận ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay; đồng thời đề
xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng của
các đảng bộ quận ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
Vũ Thị Diễm Hương (2013), Chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Đề tài đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng trong công tác
tuyên truyền miệng của tỉnh Thanh Hóa thời gian qua. Từ đó đề xuất giải pháp chủ
yếu nhằm từng bước nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay.
Phạm Chí Hiếu (2015), Đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng bộ thành phố
Cần Thơ giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị - Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã khẳng định tuyên truyền miệng là một trong những
hình thức quan trọng nhất của công tác tuyên truyền.
Đánh giá chung, các công trình khoa học nêu trên, đã đề cập tương đối toàn
diện đến công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền miệng nói riêng, góp
phần tuyên truyền, giáo dục chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; xây dựng và củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; đấu tranh
chống lại các quan điểm sai trái, các luận điệu phản động của các thế lực thù
địch.
Nhằm kế thừa và phát huy hiệu quả các công trình nghiên cứu khoa học, tiếp
tục nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên, cần
xây dựng đề tài nghiên cứu về chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực trạng chất lượng công tác
tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang, luận văn đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác này đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện

nay.

6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các khái niệm, quan điểm của Đảng về vai trò, tầm quan
trọng của công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên đối với sự phát
triển.
- Phân tích thực trạng chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo
cáo viên cấp tỉnh, huyện và thành phố ở tỉnh Hà Giang trong những năm từ 2010
đến 2015 gắn liền với hoạt động của đội ngũ này trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ
tỉnh Hà Giang lần thứ 16, nhiệm kỳ 2015-2020; một số sự kiện nổi bật: Đại hội thi
đua yêu nước tỉnh Hà Giang lần thứ 5 (năm 2014); lễ Kỷ niệm 70 năm ngày thành
lập Đảng bộ tỉnh và 125 năm Ngày thành lập tỉnh Hà Giang (20-8-2014); cuộc bầu
cử đại biểu quốc hội khóa XIV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016-2021; Tuyên truyền đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ 15, nhiệm kỳ 2010-2015. Các giải pháp định hướng đến năm 2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa vào phương pháp luận các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng ta về công tác chính trị - tư tưởng, công tác
tuyên truyền, hoạt động tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên.

7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội
và nhân văn:
5.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Thu thập, tổng hợp, phân tích những công trình nghiên cứu của các tác giả
trong nước, trong tỉnh, các địa phương xung quanh vấn đề công tác tuyên truyền nói
chung, tuyên truyền miệng nói riêng.
- Phân tích, tổng hợp các số liệu, các luận cứ thực tiễn từng thời điểm từ đó
có đánh giá, đề xuất các giải pháp giải quyết xung quanh các vấn đề về công tác
tuyên truyền miệng.
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu, so sánh
- Thu thập các số liệu, tổng hợp, so sánh, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu thông
qua các công trình nghiên cứu, tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
- Tìm hiểu thông tin trên các báo, tạp chí, báo cáo của các địa phương khác
để so sánh, vận dụng đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng ở Hà Giang
5.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học kết hợp phỏng vấn sâu
- Xây dựng kế hoạch điều tra về chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên tỉnh Hà Giang.
- Chọn mẫu phiếu hỏi, kết hợp phỏng vấn sâu một số đối tượng tuyên truyền
để trả lời trực tiếp và ghi kết quả trên phiếu; chọn thời gian điều tra vào tháng 6,
7/2017; thiết kế phiếu hỏi…

- Xác định đối tượng điều tra là cán bộ, đảng viên, báo cáo viên các cấp và
quần chúng nhân dân; tiến hành phỏng vấn sâu làm rõ một số nội dung tuyên truyền
đối với báo cáo viên cấp cơ sở.
- Xử lý, phân tích kết quả điều tra sau khi kết thúc cuộc điều tra…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của công
tác tuyên truyền miệng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền
miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang.

8


- Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng và Ban Tuyên
giáo các cấp nói chung và của Đảng bộ tỉnh Hà Giang nói riêng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên các cấp trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn là cơ sở khoa học quan trọng, cần thiết nhằm nâng cao chất lượng
tuyên truyền của báo cáo viên, tuyên truyền viên. Do vậy:
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho Ban Tuyên giáo các
huyện ủy, thành ủy, đảng bộ trực thuộc Đảng bộ tỉnh, cấp ủy cơ sở trong công tác
giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ trẻ, cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập đối
với Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, thành phố trong tỉnh.
- Luận văn góp phần thực hiện tốt hơn công tác tuyên truyền của Đảng bộ
tỉnh Hà Giang nhằm hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, an
ninh - quốc phòng, đối ngoại trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu gồm 03 chương, 06 tiết.


9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN
1.1. Khái niệm, vai trò, nội dung và đặc điểm công tác tuyên truyền
miệng của đội ngũ báo cáo viên
1.1.1. Khái niệm tuyên truyền, công tác tuyên truyền miệng, đội ngũ báo
cáo viên
Tuyên truyền: Là một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng. Khi xem xét
công tác tư tưởng như một quá trình liên tục, V.I. Lênin khẳng định công tác tư
tưởng có ba hình thái: Công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động
(hay gọi là ba bộ phận). Ba hình thái đó tương ứng với quá trình tư tưởng gồm: Sản
xuất ra hệ tư tưởng; phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng; cổ vũ, động viên quần chúng
thực hiện.
Theo tiếng Latinh, “Tuyên truyền” (propaganda) là truyền bá, truyền đạt một
quan điểm nào đó. Trong tác phẩm Người tuyên truyền và cách tuyên truyền, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân
nhớ, dân làm” [36, tr.162].
Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là việc truyền bá những kiến thức, những giá
trị tinh thần đến đối tượng, nhằm biến những kiến thức, giá trị tinh thần đó thành
nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi thúc đối tượng hành động theo
những định hướng, những mục tiêu đề ra.
Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm lý luận chính trị nhằm xây dựng cho quần chúng thế giới quan nhất định phù hợp với lợi ích
thế giới quan ấy. Với quan điểm này, tuyên truyền theo nghĩa hẹp chính là tuyên
truyền chính trị, tuyên truyền tư tưởng mà mục đích của nó là hình thành ở đối
tượng được tuyên truyền một thế giới quan nhất định, một kiểu ý thức xã hội nhất
định và cổ vũ tính tích cực xã hội của con người.

Như vậy, tuyên truyền là phổ biến, giải thích một tư tưởng, một học thuyết,
một quan điểm nào đó, nhằm hình thành hoặc củng cố ở đối tượng tuyên truyền một

10


thế giới quan, nhân sinh quan, một lý tưởng, một lối sống, thông qua đó mà ảnh
hưởng tới thái độ và hoạt động tích cực của con người trong thực tiễn xã hội. Nói
gọn lại, tuyên truyền có ba nhiệm vụ chủ yếu là: Thông tin (gồm cả định hướng
thông tin); giáo dục và vận động quần chúng; tổ chức quần chúng đi tới hành động).
Đảng đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm là: Tiếp tục đưa hoạt động văn
hóa thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc… hoàn thiện hệ
thống phủ sóng phát thanh, truyền hình trên cả nước, bảo đảm trên 90% hộ gia đình
xem được Đài Truyền hình Việt Nam và nghe được Đài Tiếng nói Việt Nam. Phát triển
và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, mở rộng mạng lưới Internet với sự quản
lý của Nhà nước [23, tr.297].
Công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên: Là phương thức
tuyên truyền được báo cáo viên sử dụng chủ yếu bằng lời nói trong giao tiếp trực
tiếp, kết hợp với dáng điệu, động tác hình thể và các phương tiện hỗ trợ khác (Máy
chiếu, các thiết bị, hình ảnh trực quan) để giải thích, bình luận, đối thoại trực tiếp
với người nghe, là một trong những hình thức quan trọng nhất trong công tác tư
tưởng cuả Đảng, nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính
tích cực hành động của người nghe.
Theo Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo xuất bản năm 2010,
khái niệm về tuyên truyền miệng được nêu: Tuyên truyền miệng là hình thức tuyên
truyền đặc biệt, thông qua sự giao tiếp trực tiếp bằng ngôn ngữ nói (Có thể có sự hỗ
trợ của các phương tiện âm thanh, ánh sáng, hình ảnh…) giữa báo cáo viên và đối
tượng nhằm truyền bá và định hướng nhận thức một lượng thông tin nào đó, giúp họ
hiểu, tin và làm theo những điều báo cáo viên muốn truyền đạt” [4, tr. 136].
Báo cáo viên của Đảng: Là chức danh để chỉ những người làm công tác

tuyên truyền miệng trong tổ chức Đảng, đoàn thể, cơ quan Nhà nước và nhân dân
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng và cơ quan nhà nước. Báo
cáo viên, tuyên truyền viên được coi như là người phát ngôn, thông tin chính thống
của Đảng và Nhà nước. Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương có trách
nhiệm lựa chọn và quyết định công nhận đội ngũ báo cáo viên, hướng dẫn, quản lý
và tổ chức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên. Mạng lưới báo cáo viên được tổ

11


chức từ Trung ương đến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh; xã, đảng bộ cơ cở và tương đương [5].
1.1.2. Vai trò của công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
Công tác tuyên truyền có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng cũng
như trong qúa trình phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng và trật
tự an toàn xã hội. Công tác tuyên truyền miệng góp phần truyền bá, phổ biến hệ tư
tưởng cách mạng trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo, động viên lực lượng quần
chúng nhân dân tham gia sự nghiệp cách mạng; góp phần tổ chức các phong trào
cách mạng, các phong trào thi đua yêu nước và là nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận
giúp con người tổ chức thực hiện nhiệm vụ cách mạng đáp ứng yêu cầu đổi mới đất
nước. Vì vậy, công tác tuyên truyền miệng trở thành một công tác cách mạng và là
công tác cách mạng đầu tiên của bất kỳ giai cấp cách mạng và tổ chức cách mạng nào.
Đối với cách mạng Việt Nam, nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công
tác tuyên truyền miệng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành công tác tuyên truyền
miệng ngay sau khi tìm thấy hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại nhằm truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin và con đường cách mạng vô sản vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.
C.Mác đã viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng
lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”

[33, tr.580]. Vai trò của công tác tuyên truyền miệng chính là làm cho “Lý luận thâm
nhập vào quần chúng” để qua đó “Trở thành lực lượng vật chất”.
Là một bộ phận của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền miệng đóng vai
trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Nhờ làm tốt công tác tuyên
truyền miệng mà chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào quần chúng lao động, giúp
họ giác ngộ về con đường cách mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Đồng
thời, qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng,
giáo dục về phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đảng viên công tác tuyên truyền

12


miệng góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong
sáng về đạo đức, lối sống.
Công tác tuyên truyền góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam có ý thức làm chủ, ý thức
trách nhiệm công dân; có tri thức và sức khỏe; sống có văn hóa, văn minh, giàu lòng
yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng.
Công tác tuyên truyền còn góp phần đắc lực vào cuộc đấu tranh tư tưởng,
chính trị của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái và âm mưu, hoạt động
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà
nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Đặc biệt, trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin phát triển như vũ bão,
con người có thể tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn, hình thức tiếp cận rất phong
phú, đa dạng. Nhu cầu cần tiếp cận thông tin, định hướng tư tưởng của quần chúng
nhân dân rất lớn. Vì thế, đòi hỏi đội ngũ báo cáo viên có đủ bản lĩnh chính trị, cơ sở
lý luận gắn với thực tiễn, có khả năng nắm bắt tình hình, tổng hợp, phân tích, dự
báo chính xác từ đó định hướng nhận thức, tư tưởng kịp thời, đầy đủ đối với quần

chúng nhân dân, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội.
Đảng ta khẳng định cần tiếp tục quán triệt ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng
của công tác tuyên truyền miệng, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên, xác định đây là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất, trực tiếp
truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến, giáo
dục, quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời
sự quan trọng trong nước và quốc tế; góp phần tạo sự thống nhất tư tưởng trong
đảng, sự đồng thuận của xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ phong trào cách mạng.
Đồng thời, đây là một trong những vũ khí sắc bén, kịp thời đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, phê phán các
quan điểm sai trái, lệch lạc, phản động của các thế lực thù địch.

13


1.1.3. Nội dung công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
Xác định công tác tuyên truyền miệng là kênh thông tin chủ yếu, chính thống
nhằm giáo dục, phổ biến, quán triệt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với quần chúng nhân dân; nội dung tuyên truyền
miệng rất rộng, đa dạng, liên quan đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta, là quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giáo dục
lòng yêu quê hương đất nước; đặc biệt liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội, an ninh- quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Cụ thể:
* Tuyên truyền chính trị: Là tập trung vào việc phổ biến, truyền bá hệ tư
tưởng của Đảng, bao gồm:
- Tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
- Tuyên truyền về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, của

Đảng…[6,tr.10].
* Tuyên truyền về kinh tế
- Tuyên truyền về đường lối phát triển kinh tế của Đảng, các chính sách, kế
hoạch, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước, địa phương.
- Tuyên truyền về những thành tựu kinh tế - xã hội, tiềm năng, lợi thế của đất
nước, địa phương; những thuận lợi và khó khăn, những bài học kinh nghiệm trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương trong từng giai đoạn.
- Tuyên truyền phổ biến kiến thức mới, quy trình công nghệ mới trong sản
xuất, đời sống và bảo vệ môi trường.
- Tuyên truyền, giáo dục gương người tốt, việc tốt và các điển hình tiên tiến,
thúc đẩy phong trào thi đua [6,tr11].
* Tuyên truyền về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn chặt với nhiệm vụ phát
triển kinh tế và xây dựng Đảng. Nội dung chủ yếu là:
- Tuyên truyền về đường lối phát triển văn hóa của Đảng và các chủ trương,
chính sách phát triển văn hóa của Nhà nước.

14


- Tuyên truyền về lối sống, nếp sống và giáo dục công dân nhằm góp phần
xây dựng cong người mới, nền văn hóa mới ở địa phương.
- Tuyên truyền, giáo dục truyền thống của dân tộc và của địa phương.
- Tuyên truyền các phong trào văn hóa, xã hội, phòng, chống các tệ nạn xã
hội [6, tr.11].
* Tuyên truyền về quốc phòng, an ninh, bao gồm các nội dung sau:
- Tuyên truyền về đường lối, quan điểm xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong giai đoạn hiện
nay.
- Tuyên truyền về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, tự hào về

những chiến công hiển hách trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập.
- Tuyên truyền về những chủ trương, giải pháp lớn xây dựng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
- Tuyên truyền các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nghĩa vụ của công
dân tham gia quân đội, dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng…[6, tr.11].
* Tuyên truyền về đối ngoại: Trong thời đại toàn cầu hóa, thực hiện đường
lối đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập quốc tế,
tuyên truyền đối ngoại cóa vai trò rất quan trọng. Nội dung chủ yếu là:
- Tuyên truyền về đương lối, chính sách và các hoạt động đối ngoại của
Đảng và Nhà nước.
- Tuyên truyền về quan hệ hợp tác, hữu nghị của Đảng và Nhà nước ta với
các quốc gia, tổ chức quốc tế trên thế giới.
- Thông tin có định hướng tình hình thời sự quốc tế, các sự kiện quốc tế lớn
diến ra trên thế giới [6, tr.12].
* Tuyên truyền đấu tranh chống các quan điểm sai trái của các thế lực thù
địch trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa
Trong điều kiện cách mạng thế giới lâm vào tình trạng thoái trào, tuyên
truyền để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên quan trọng và cần thiết.
Nội dung chủ yếu là:

15


- Đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, phản động nhằm bác bỏ chủ
nghĩa Mác- Lênin, tưởng Hồ Chí Minh…, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, đấu tranh phê phán các luận điệu
cơ hội chính trị.
- Đấu tranh với các hành động làm trái với đường lối, chính sách, pháp luật,
tình trạng vô tổ chức, vô kỷ luật trong hành động, trong phát ngôn [6, tr .12].
1.1.4. Đặc điểm công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên

Thứ nhất, tuyên truyền miệng là phương thức thực hiện thông qua sự giao
tiếp trực tiếp, nhằm cung cấp và trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe.
Qua giao tiếp, tiếp xúc trực tiếp, người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền có
quan hệ trao đổi thông tin, cảm xúc, tình cảm với nhau (Có thể hỏi-đáp; phản
biện…). Khác với tuyên truyền trên đài phát thanh và truyền hình, đó là phương
thức thông tin một chiều; còn tuyên truyền miệng có điều kiện quan sát và bao quát
được đối tượng, điều chỉnh kịp thời về nội dung và phương pháp, làm cho bài nói
chất lượng, hiệu quả, hấp dẫn, truyền cảm.
Đặc biệt, tuyên truyền miệng đề cập được những vấn đề quan trọng, những
nội dung không thể công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng,
đồng thời giải thích cặn kẽ, thông báo kịp thời trong nội bộ, đáp ứng yêu cầu giải
quyết nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương.
Thứ hai, tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền thực hiện được chức
năng thông tin hai chiều, thông qua cơ chế đối thoại giữa người nói với người
nghe. Người nói không chỉ truyền đạt một cách chủ quan một chiều (độc thoại)
những vấn đề cần tuyên truyền, giải thích mà còn lắng nghe những ý kiến thắc
mắc; trả lời những vấn đề mà người nghe đang quan tâm; tiếp thu và phản ánh kịp
thời những ý kiến đóng góp của người nghe. Do vậy, tuyên truyền miệng là hình
thức tuyên truyền dân chủ nhất, đáp ứng mọi trình độ cán bộ, đảng viên và nhân
dân, phù hợp với các nhóm đối tượng, trình độ dân trí.
Thứ ba, tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền chủ yếu chuyển tải
thông tin bằng ngôn ngữ nói. Sự hiểu biết của con người được diễn đạt thông qua

16


ngôn ngữ, giao tiếp bằng lời nói là dạng giao tiếp được thực hiện phổ biến nhất,
chiếm phần lớn trong quan hệ giữa người với người.
Tuyên truyền miệng không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật, nghệ
thuật nói, nghệ thuật diễn đạt, tác động vào lòng người một cách truyền cảm, tự giác,

nhằm giải đáp những vấn đề bức xúc của thực tiễn đời sống, định hướng tư tưởng chính
trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chính vì vậy, mặc dù có nhiều phương tiện thông
tin mới hiện đại ra đời, nhưng không có phương tiện truyền thông nào có thể thay thế
được tuyên truyền miệng, một phương thức tuyên truyền có lịch sử lâu đời nhất, gắn liền
với truyền thống công tác tư tưởng, tuyên truyền vận động cách mạng của Đảng và của
nhân dân ta.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền miệng cũng có những khó khăn, hạn chế đó
là: Phạm vi tuyên truyền hẹp, số lượng hạn chế, nội dung tuyên truyền phải thường
xuyên đổi mới, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyên viên phải thực sự có kinh
nghiệm, trình độ, kỹ năng tổng hợp, phân tích, dự báo… là những yêu cầu không
thể đáp ứng ngay một lúc, nhất là đối với các địa bàn vùng cao, vùng đặc biêt khó
khăn, biên giới…
1.2. Quan niệm về chất lượng, tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
1.2.1. Quan niệm về chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên
Theo “Đại từ điển tiếng Việt”, chất lượng là: “Cái làm nên phẩm chất, giá trị
của một con người, sự vật” [67, tr. 331].
Theo nghĩa triết học: “Chất” là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những
thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó
là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. “Lượng” là phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện
bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Cả chất và lượng đều là cái
khách quan, không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người.

17



Nhìn ở góc độ kinh tế học, thì chất lượng là tập hợp những tính chất của sản
phẩm, thể hiện mức độ thoả mãn những yêu cầu định trước cho nó, trong điều kiện
xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội…
Như vậy, chất lượng là phạm trù liên quan đến sự đánh giá mức độ đạt được
so với những tiêu chuẩn được quy định, là sự thể hiện những yếu tố khách quan tạo
ra nó và những nỗ lực chủ quan để đạt tới nó.
Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên là tổng
hợp của chất lượng các mặt hoạt động cấu thành công tác tuyên truyền miệng bảo
đảm cho công tác tuyên truyền miệng đạt được mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra,
phù hợp với thực tiễn và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần hoàn
thành nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương.
Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên được cấu
thành bởi các yếu tố sau:
Chất lượng nội dung công tác tuyên truyền miệng thông qua việc tổ chức,
ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy: tổ chức các hoạt động công tác
tuyên truyền miệng là trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp mà nòng cốt là
Ban Tuyên giáo cấp ủy. Khi đánh giá chất lượng sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công
tác tuyên truyền miệng cần xem xét các khía cạnh: nhận thức và trách nhiệm của cấp
ủy, chính quyền và đoàn thể; chủ trương, biện pháp, chương trình, kế hoạch tiến
hành công tác tuyên truyền miệng; phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo, tổ chức
hoạt động tuyên truyền miệng của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể.
Chất lượng công tác tuyên truyền miệng phụ thuộc trực tiếp vào năng lực của
đội báo cáo viên, tuyên truyền viên. Muốn đánh giá chất lượng chủ thể làm công tác
tuyên truyền miệng căn cứ vào tiêu chuẩn xây dựng tổ chức, tiêu chuẩn cán bộ,
đảng viên.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật, hệ thống các thiết chế phục vụ công tác tuyên
truyền miệng: Chất lượng, hiệu quả của các thiết chế phục vụ cho công tác tuyên
truyền miệng được đo bằng độ bền, tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật, khả năng đáp ứng
yêu cầu phục vụ công tác tuyên truyền miệng.
Chất lượng công tác tuyên truyền và tuyên truyền miệng phải được đánh giá


18


trên nền tảng hiệu quả chung của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng là hoạt động
có mục đích của con người mà hiệu quả công tác tư tưởng là sự tương quan giữa
mục đích và kết quả đạt được của công tác tư tưởng. Hiệu quả công tác tư tưởng là
sự tương quan giữa những kết quả đạt được do tác động tư tưởng mang lại với mục
đích của công tác tư tưởng trong một điều kiện xã hội nhất định và với một chi phí
nhất định.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội
ngũ báo cáo viên
1.2.2.1. Tiêu chí về nội dung, hình thức tiến hành công tác tuyên truyền
Nhiệm vụ, nội dung công tác tuyên truyền thường có sự chỉ đạo thống nhất,
định hướng của Trung ương, việc đánh giá chất lượng nội dung, phương thức tiến
hành công tác tuyên truyền phải xem xét kết quả thực hiện chỉ thị, hướng dẫn của
trên và việc vận dụng sáng tạo ở cấp cơ sở.
Việc duy trì nền nếp, đi đôi với đổi mới, cập nhật nội dung, phương pháp,
hình thức công tác tuyên truyền có thể coi là một tiêu chí trọng tâm để đánh giá chất
lượng công tác tuyên truyền. Nội dung đúng đắn, khách quan, khoa học, ngắn gọn;
phương pháp, hình thức phong phú, hấp dẫn là yếu tố bảo đảm cho công tác tuyên
truyền có chất lượng, đạt hiệu quả cao.
1.2.2.2. Tiêu chí về tổ chức bộ máy, phẩm chất và năng lực của đội ngũ báo
cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng
Trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị, công cuộc đổi mới của đất nước, để thực
hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong giai đoạn hiện nay, cấp ủy
Đảng, Ban Tuyên giáo cấp ủy các cấp phải đưa nhiệm vụ củng cố, kiện toàn và tổ
chức bộ máy hoạt động của đội ngũ báo cáo viên là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, xác định rõ báo cáo viên là lực lượng nòng cốt, trực tiếp làm công
tác tuyên truyền miệng của cấp ủy Đảng. Cấp ủy Đảng các cấp cần phát huy vai trò

của cả hệ thống chính trị trong công tác tuyên truyền miệng, nhất là vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các lực lượng xã hội ở địa phương
tham gia vào công tác tuyên truyền miệng.
Cơ cấu đội ngũ báo cáo viên cấp tỉnh cần đảm bảo các tiêu chí:

19


Số lượng báo cáo viên không quá 45 người.
Thành phần đội ngũ báo cáo viên, gồm: các đồng chí trong cấp uỷ (Bí thư,
phó bí thư cấp ủy); người đứng đầu Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành, đoàn thể
chính trị - xã hội; trưởng ban và phó trưởng Ban Tuyên giáo cấp ủy.
Bảo đảm cơ cấu hợp lý về độ tuổi cần bố trí sao cho có báo cáo viên trẻ tuổi
và báo cáo viên có thâm niên công tác để đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát huy
được kinh nghiệm của người đi trước.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, báo cáo viên, tuyên truyền viên phải
được lựa chọn, bồi dưỡng và rèn luyện theo những tiêu chuẩn về phẩm chất và
năng lực, đó là hai yếu tố hợp thành mô hình nhân cách của một báo cáo viên,
tuyên truyền viên.
Theo Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 518-QĐ/BTGTW, ngày 1011-2011 của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc ban hành quy chế hoạt động báo
cáo viên của đảng, đội ngũ báo cáo viên phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
Về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống:
Có lập trường quan điểm đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với
mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp đổi mới của Đảng; bản thân và gia đình chấp hành tốt các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Có tính đảng, tinh chiến đấu, đấu tranh tự phê bình và phê bình cao, ý thức tổ
chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ luật phát ngôn.
Có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn, nghiệp vụ; khiêm tốn
học hỏi, gương mẫu về đạo đức và lối sống, có mối quan hệ tốt với nhân dân.
Về trình độ, năng lực:

Nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Có trình độ hiểu biết cơ bản về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
khoa học. Biết vận dụng tâm lý học, phương pháp sư phạm và nghiệp vụ tuyên truyền,
nhất là tuyên truyền miệng trong hoạt động tuyên truyền.

20


Có trải nghiệm thực tiễn; có năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin; có khả năng
diễn đạt rõ ràng các vấn đề nêu lên, phương pháp vận động, thuyết phục quần chúng
nhân dân; có năng lực tự chủ trong giao tiếp, đối thoại với người nghe.
Ngoài những tiêu chuẩn chủ yếu trên, báo cáo viên cần được lựa chọn và bồi
dưỡng từ những người có năng khiếu, sở trường về tuyên truyền miệng, giọng nói,
phong cách giao tiếp và diễn đạt.
Nhiệm vụ rèn luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực của báo cáo viên:
Trước hết cần rèn luyện bản lĩnh chính trị, sự nhạy bén chính trị để nói đúng
quan điểm, đường lối của Đảng, không tùy tiện phát ngôn theo tùy hứng chủ quan;
thận trọng, nhưng dám nói lên sự thật, nói đúng sự thật, bảo vệ chân lý một cách
phù hợp.
Rèn luyện tinh thần độc lập suy nghĩ, có ý thức trách nhiệm cao, nhiệt tình,
yêu nghề, coi tuyên truyền như một nghề nghiệp, gắn bó, tâm huyết để truyền tâm
huyết, niềm tin đến người nghe.
Hoạt động của báo cáo viên là loại hình lao động trí tuệ tổng hợp, cần có sự cần
cù, sâu sắc, khoa học, sáng tạo nghiên cứu, xử lý thông tin. Báo cáo viên cần thường
xuyên tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng, hội nghị thông tin để được cung cấp thông
tin mới và phải có nhận thức sâu sắc, hiểu biết toàn diện, sâu rộng về kiến thức xã hội,
phương pháp nghiệp vụ, nhất là đối với các báo cáo viên mới tham gia công tác.
1.2.2.3. Tiêu chí về tài chính, cơ sở vật chất, phương tiện công tác tuyên
truyền: Cơ sở vật chất (Cần có những điều kiện tối thiểu về tài liệu, hội trường, các

thiết bị phụ trợ âm thanh, hình ảnh), kinh phí, phương tiện là công cụ của chủ thể
công tác tuyên truyền. Chất lượng của nó được đo bằng tính năng, tác dụng, độ
bền, sự tiện dụng, mức độ hiện đại và được lượng hoá thành các tiêu chuẩn kinh
tế, kỹ thuật.
1.2.2.4. Tiêu chí về nhận thức của các cấp ủy Đảng
Trước hết các cấp ủy Đảng phải nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên. Đây là một hình thức đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng, là một kênh thông tin chính thống, trực tiếp truyền bá sâu rộng chủ nghĩa

21


×