Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.46 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHUẤT QUANG HÀ

QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quyền con người

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Phạm Hữu Nghị

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

KHUẤT QUANG HÀ



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ICCPR

Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966

UDHR

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

KHXH

Khoa học xã hội

QPPL

Quy phạm pháp luật

THĐ

Thu hồi đất


BT

Bồi thường

HT

Hỗ trợ

TĐC

Tái định cư

GPMB

Giải phóng mặt bằng

SDĐ

Sử dụng đất


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ...................8

1.1. Tổng quan về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất...........8
1.2. Quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:

Khái niệm, nội dung.............................................................................................15
1.3.Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.................................................................................24

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...............................28

2.1. Thực trạng pháp luật về quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất .............................................................................................28
2.2. Thực trạng thực hiện quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại thành phố Hà Nội ................................................................57

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT .........................................67

3.1. Định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về quyền của người
được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ..............................67
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về quyền của
người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .................69
KẾT LUẬN ...........................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền công dân là một trong những vấn đề quan trọng được hầu
hết các quốc gia trên thế giới quan tâm. Bảo đảm quyền công dân chính là bảo
đảm nền dân chủ, bảo đảm được hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước cũng

như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ý thức được điều đó, Đảng và Nhà
nước ta luôn nhất quán đường lối, chính sách là tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Sau ba mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới, để đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, pháp luật để cải thiện cuộc sống, thu hút vốn đầu tư từ các
thành phần kinh tế. Đất đai đã được coi là một trong những nguồn vốn quan
trọng, được đưa vào tham gia vốn liên doanh với một bên là doanh nghiệp Nhà
nước và bên kia là đối tác tham gia vốn lưu động, thiết bị, khoa học công nghệ,
tiêu thụ sản phẩm…
Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt không có gì thay thế được, là thành phần quan trọng của môi trường sống và là
địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh
quốc phòng. Trong những năm qua, đất đai đã đóng góp đáng kể trong quá trình
hội nhập và xây dựng phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Chính sách, pháp luật đất đai đã góp phần khai thác và phát huy có hiệu
quả nguồn lực đất đai phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, ổn định xã hội, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi
trường... Hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai từng bước được tăng cường; các
quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm; thị
trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất đã được hình thành và phát
triển nhanh.
Trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất ở thì Hà Nội với tư cách là thủ đô,
là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước. Vì vậy, nhu cầu thu hồi
đất phục vụ cho mục đích quốc phòng, quốc gia và lợi ích công cộng là rất lớn.
Để có được mặt bằng phục vụ các dự án nêu trên thì Công tác bồi thường giải

1



phóng mặt bằng (GPMB) luôn là một khâu quan trọng, mang tính quyết định đến
tiến độ thực hiện dự án. Liên quan đến việc GPMB thì vấn đề về quyền của
người được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được đặt
ra và rất được quan tâm của xã hội nói chung và người bị thu hồi đất nói riêng.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao phải đảm bảo có được mặt bằng để đảm bảo dự
án được triển khai đúng tiến độ, mà quyền lợi chính đáng của người bị thu hồi
đất vẫn được đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Nghĩa là phải đồng thời
đảm hài hòa 03 lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân. Đây là đòi hỏi
cấp thiết và mang tính nguyên tắc khi thực hiện thu hồi đất. Tuy nhiên, việc thực
hiện nguyên tắc này trên thực tế còn nhiều vấn đề chưa đảm bảo đúng theo yêu
cầu đề ra, nhất là về quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất. Trong bối cảnh
hiện nay cần có các công trình đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tế
việc thực hiện các quy định đó là cần thiết. Qua đó thấy được thực trạng pháp luật
về quyền và thực hiện pháp luật về quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, đồng thời đề xuất những phương hướng, giải
pháp khắc phục hạn chế, bất cập cuả pháp luật hiện hành để đảm bảo nguyên tắc
của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Từ những
đòi hỏi về lý luận và thực tiễn, là một cán bộ làm công tác liên quan trực tiếp đến
công tác GPMB, thu hồi đất và trên cơ sở mong muốn có những đóng góp nhất
định vào việc ghi nhận và bảo đảm quyền của người bị thu hồi đất trên thực tế, Tôi
đã chọn đề tài “Quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp
chương trình đào tạo thạc sĩ quyền con người.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam trong những năm qua chủ đề liên quan đến pháp luật về BT,
HT, TĐC khi Nhà nước THĐ đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố, trong đó tiêu biểu như: ....
Dưới góc độ nghiên cứu về vấn đề thu hồi đất và pháp luật về thu hồi đất,
GPMB hiện nay đã có những công trình nghiên cứu về vấn đề này như:


2


Phạm Thu Thủy, Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ (2014); Nguyễn Minh Tuấn, Thu hồi đất vì
mục đích kinh tế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ (2013); Đỗ Quang Dương,
Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
giải phóng mặt bằng ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
(2013); Nguyễn Thị Phương Thảo, Pháp luật về bồi thường về đất khi thực hiện các
dự án kinh tế và thực tiễn áp dụng tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc
sĩ (2012); Đinh Thị Huê, Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất ở tỉnh Hà Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ (2011); Hoàng
Thị Nga, Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ (2011);…
Dưới góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung và quyền con
người của người sử dụng đất trong lĩnh vực đất đai nói riêng đang có khá nhiều
công trình công bố về vấn đề này như: GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên như:
Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 2009; Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành
luật học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2011; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự
và chính trị, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011; Võ Khánh Vinh chủ biên
(2011), Quyền con người tiếp cận đa ngành, liên ngành luật học, tập 1, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người tiếp cận đa ngành, liên ngành
luật học, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011; Võ Khánh Vinh, Lê Mai
Thanh chủ biên (2014), Pháp luật quốc tế về quyền con người, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh, Lê Mai Thanh chủ biên (2014), Cơ chế quốc tế và
khu vực về quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội…..
Các công trình nghiên cứu về quyền của người bị thu hồi đất do GPMB đã

công bố hiện nay có thể kế như: Nguyễn Thị Thủy Tiên với “Pháp luật về bảo
đảm quyền và nghĩa vụ của người nông dân khi nhà nước thu hồi đất để phục vụ
cho các dự án phát triển kinh tế ở Việt Nam” luận văn thạc sĩ – Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2015; Tác giả Nguyễn Thị Lan Hương với “Pháp luật
về bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các

3


dự án phát triển kinh tế ở Việt Nam” luận văn thạc sĩ Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2014…
Những công trình nghiên cứu nêu trên cung cấp một lượng kiến thức,
thông tin lớn về chủ đề của luận văn, là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho
việc thực hiện luận văn này.
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào khảo sát
toàn diện, chuyên sâu về quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước
THĐ. Đặc biệt việc nghiên cứu này dưới góc độ của chuyên ngành quyền con
người là điều rất mới mẻ. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này là vẫn có tính cấp thiết,
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, luận văn vẫn sử dụng những
luận điểm quan trọng tại các công trình nghiên cứu đã công bố trên làm cơ sở
cho hoàn thiện nhiệm vụ nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ. Từ đó đề xuất
giải pháp bảo đảm quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ. Để đạt
được mục tiêu trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền của người được
BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền Quyền của
người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ và thực hiện quyền của người

được BT, HT, TĐC tại thành phố Hà Nội;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền của người được
BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, ở
nước ta nói chung trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quyền của người được BT, HT,
TĐC khi Nhà nước THĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội và những yếu tố tác
động đến quyền của đối tượng này tại địa phương.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian, gắn với tiêu đề, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực
trạng bảo đảm quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Về mặt thời gian, đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trong giai đoạn từ năm
2014 (01/7/2014, ngày Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thi hành) đến nay.
Về mặt nội dung, đề tài chỉ tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến
quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các quyền khác liên quan đến việc thu
hồi đất của Nhà nước đối với người bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của cộng đồng quốc tế về
quyền về tài sản, quyền về chỗ ở và các quyền về nhân thân khác; đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm thực hiện quyền quyền
của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tôi còn sử dụng một số phương
pháp sau:

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu tư liệu gồm các Nghị
quyết của Đảng, các văn bản pháp luật về đảm bảo quyền công dân trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các nghiên cứu, bài viết liên quan trên
các tạp chí chuyên ngành … để xử lý thông tin và hình thành các luận điểm
nghiên cứu. Phương pháp này được áp dụng ở tất cả các chương trong luận án.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: đây là phương pháp được áp dụng ở
hầu hết các phần trong luận án như phân tích các quan niệm về quyền của người
được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ và xác định các đặc trưng của bảo đảm
quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ khác với bảo đảm
quyền của người bị thu hồi đất nói chung. Đồng thời, phương pháp này cũng
được đặc biệt vận dụng khi đưa ra các điều kiện và yếu tố bảo đảm quyền công
dân. Ngoài ra, việc tổng hợp, phân tích số liệu được thể hiện ở chương 2 luận

5


văn để từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng pháp luật về quyền và thực
hiện pháp luật về quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ …
- Phương pháp thống kê: phương pháp này chủ yếu được sử dụng ở
chương 2 của luận văn nhằm đưa ra phân tích, đánh giá một cách toàn diện và
chính xác về các kết quả đạt được trong công tác BT, HT, TĐC khi Nhà nước
THĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tác giả đã cập nhật các thông tin, số liệu về
vấn đề nghiên cúu từ nguồn có độ tin cậy xác định.
- Phương pháp chuyên gia: trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận
án, Tôi thường xuyên trao đổi, tham vấn và tiếp thu ý kiến của các giảng viên,
cán bộ nghiên cứu tại các Viện, Học viện và các chuyên gia, nhà quản lý, cán bộ
trực tiếp làm công tác GPMB và những người hoạt động thực tiễn có kinh
nghiệm trong lĩnh GPMB.
Trong quá trình thực hiện luận văn, Tôi kế thừa một số kết quả nghiên
cứu, các nhận định tại các bài viết về BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ và quyền

của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ.
Thêm vào đó, với tư cách là một cán bộ làm việc tại một cơ quan có vai trò
tham mưu, xây dựng chính sách về lĩnh vực GPMB cho UBND thành phố Hà Nội,
tác giả còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tế để thực hiện luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là luận điểm chứng minh thêm cho khía cạnh quyền sở hữu tài sản,
quyền về chỗ ở và quyền về tiếp cận thông tin thuộc về quyền con người; giới
thiệu những quy định của pháp luật về quyền của người được BT, HT, TĐC khi
Nhà nước THĐ; giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, chính xác về thực trạng và
các yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền này ở thành phố Hà Nội nói riêng, ở
nước ta nói chung.
Với những đóng góp mới như trên, luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước hữu quan, đặc biệt là các cơ quan, ban
ngành tại thành phố Hà Nội liên quan đến BT, HT, TĐC khi thực hiện công tác
GPMB, trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và cơ chế tổ chức bảo đảm
quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Bên cạnh đó, luận văn còn có thể được sử dụng như là một nguồn học liệu cho

6


việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành quyền con người ở Học viện Khoa học
Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và các cơ sở đào tạo
khác ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các tài
liệu tham khảo, Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền của người được bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền và thực hiện pháp luật về quyền

của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại thành
phố Hà Nội
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả pháp luật về quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Tổng quan về vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất
Trong khoa học pháp lý, xây dựng khái niệm là yếu tố tiên quyết để tạo
lập cơ sở lý luận. Trong quá trình ban hành và thực thi pháp luật, xác định khái
niệm và nội hàm khái niệm là những yếu tố gốc rễ, nền tảng bảo đảm pháp luật
được hiểu và vận dụng thống nhất.
Nghiên cứu pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người nông dân khi Nhà
nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế, trước hết, ta phải
làm rõ khái niệm thế nào là thu hồi đất.
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Để khai thác, sử dụng đất
đai một cách hợp lý, thống nhất, Nhà nước ta trong quá trình quản lý đã sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau để phân phối lại quỹ đất quốc gia cho nhiều chủ sử
dụng. Một trong những biện pháp đó chính là thu hồi đất. Hiểu một cách thuần
túy thì thu hồi đất là việc Nhà nước sẽ tước đi quyền sử dụng của các chủ sử
dụng đất mà qua đó để thiết lập một quan hệ sử dụng đất mới phù hợp với lợi ích

Nhà nước và xã hội. Thực tế thì thu hồi đất là giai đoạn kết thúc việc sử dụng đất
của chủ thể này nhưng là bước kế tiếp của việc sử dụng đất của một chủ thể mới.
Trong các văn bản pháp lý của Việt Nam về vấn đề này có thể thấy khái
niệm thu hồi đất đã được luật hóa, theo đó thu hồi đất là việc Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà
nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm
pháp luật về đất đai.
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát thu hồi đất là việc Nhà nước ra
quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất đã giao cho các chủ thể sử
dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.

8


Từ các định nghĩa trên, có thể thấy thu hồi đất có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, thu hồi đất là một biện pháp pháp lý làm chấm dứt quan hệ
pháp luật đất đai được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về giao
đất, cho thuê đất. Đây là sự thực thi một trong những nội dung của quyền lực của
Nhà nước về quản lý đất đai. Vì vậy, thẩm quyền thu hồi đất phải tuân thủ theo
quy định của Luật Đất đai. Một quyết định thu hồi đất không đúng thẩm quyền
hoặc trái thẩm quyền sẽ không làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai, ví dụ
như quyết định thu hồi đất của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với đất
giao cho tổ chức sử dụng đất.
Thứ hai, thu hồi đất mang tính hành chính mệnh lệnh, bắt buộc. Đây là
quan hệ giữa một bên là người sử dụng đất với một bên là Nhà nước, hai chủ thể
này không có sự bình đẳng về mặt pháp lý. Tuy nhiên, bên cạnh phương pháp
mệnh lệnh hành chính là phương pháp giáo dục, thuyết phục, đặc biệt là trong
thu hồi đất để phục vụ mục tiêu an ninh quốc phòng, lợi ích công cộng.
Thứ ba, việc thu hồi đất phải xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và xã hội
hoặc là biện pháp chế tài nhằm xử lý các vi phạm pháp luật đất đai của người sử

dụng đất. Nhà nước có thể thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng; hoặc để chấm dứt
sự vi phạm của người sử dụng đất và lập lại kỷ cương trong quản lý nhà nước về
đất đai.
1.1.1.2. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Để có cách hiểu toàn diện và sâu sắc thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ “bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất” ta cần phải xem xét, nghiên cứu trên nhiều
phương diện khác nhau.
Trong đời sống thực tiễn, “bồi thường” được sử dụng trong trường hợp
một người nào đó có hành vi gây thiệt hại cho một người khác phải có trách
nhiệm bồi thường những thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Hình thức bồi
thường có thể là vô hình (xin lỗi) hoặc hữu hình (bồi thường bằng tiền hoặc bằng
hiện vật khác). Việc bồi thường có thể do các quy định của pháp luật điều chỉnh
hoặc do chính sự thỏa thuận giữa các bên.

9


Về khía cạnh thuật ngữ, “bồi thường” [49, tr. 82] là đền bù bằng tiền
những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà mình phải chịu trách nhiệm: bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng; bồi thường cho gia đình người bị nạn;
bồi thường danh dự…
Trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ thể có hành vi gây ra
thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm này được rất nhiều ngành luật
đề cập, như: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong lĩnh vực pháp
luật dân sự; trách nhiệm bồi thường oan, sai do hành vi của các cơ quan tố tụng gây
ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự; trách nhiệm vật chất do hành vi của người lao
động gây ra trong lĩnh vực pháp luật lao động… [34, tr. 15].
Đề cập khái niệm này Luật đất đai đã đưa ra cách giải thích như sau: “Bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng

đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất” [23].
Tóm lại, bồi thường khi Nhà nước THĐ chỉ diễn ra khi Nhà nước thu hồi
một diện tích đất nào đó để chuyển sang một mục đích sử dụng khác vì lợi ích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế.
Thực chất, đây chính là việc giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với
người bị THĐ và Nhà đầu tư. Do đó, việc bồi thường khi Nhà nước THĐ phải
thực hiện theo quy định của Nhà nước về giá đất; về điều kiện được BT, HT và
TĐC; về trình tự, thủ tục BT, HT và TĐC; về nguyên tắc thực hiện BT, HT và
TĐC...Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc bồi thường khi Nhà nước THĐ
không giống với việc bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực pháp luật dân sự, hình
sự, lao động. Bởi lẽ, nó không những phải đảm bảo lợi ích của người bị THĐ,
mà còn phải đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của người nhận lại
quyền SDĐ đã thu hồi.
1.1.1.3. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo Từ điển Tiếng Việt thông
dụng: "Hỗ trợ: Giúp thêm, góp thêm vào"
Luật Đất đai năm 2013 quan niệm: "Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và
phát triển"(khoản 14 Điều 3) [23]. Định nghĩa này tuy có liệt kê các trường hợp

10


hỗ trợ, nhưng không đầy đủ. Hỗ trợ là chính sách “mềm” nên ngoài các trường
hợp hỗ trợ vừa nêu, còn có những trường hợp hỗ trợ khác do Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định. Chính vì vậy, Dự thảo đã rút gọn khái niệm như
sau: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có
đất bị thu hồi.”
Sự khác nhau căn bản giữa bồi thường và hỗ trợ là: bồi thường là khái
niệm xuất phát từ ngành luật dân sự mang tính tương xứng với các nguyên tắc:

(i) chủ thể nào gây thiệt hại, chủ thể đó phải bồi thường; (ii) thiệt hại đến đâu,
bồi thường đến đó. Trong khi đó, khái niệm hỗ trợ (còn gọi là hộ trợ) là “giúp
đỡ”, mang tính chính sách, thể hiện việc cộng thêm vào nên không đòi hỏi tính
tương xứng như bồi thường. Tuy nhiên, cho đến nay, pháp luật nước ta chưa thật
sự “rạch ròi” hai khái niệm này và một số trường hợp mang bản chất “bồi
thường” nhưng lại được xác định trong pháp luật là “hỗ trợ”. Ví dụ điển hình là
hỗ trợ về giá đất nông nghiệp đối với đất nông nghiệp là đất vườn ao, đất nông
nghiệp trong khu dân cư và đất nông nghiệp tiếp giáp với khu dân cư. Bản chất
là bồi thường về đất, nhưng do pháp luật quy định là giá đất nông nghiệp định
theo phương pháp thu nhập từ sản xuất nông nghiệp nên giá đất quá thấp, rồi áp
dụng thêm khoản gọi là “hỗ trợ”. Hơn nữa, theo chúng tôi, một khi việc thu hồi
đất làm người nông dân mất đất sản xuất, dẫn đến phải chuyển đổi nghề nghiệp
từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp thì bản chất là đã gây ra thiệt hại do mất
việc làm. Nếu xác định như vậy thì chúng ta nên dùng cụm từ “bồi thường cho
người nông dân do mất việc làm” thay vì “hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo
việc làm” như hiện nay. Điều này sẽ khắc được tình trạng hỗ trợ nghề nghiệp
bằng một khoản tiền qua loa, sau đó không quan tâm đến việc người được
chuyển đổi nghề nghiệp có việc làm hay không. Mặt khác, điều này tạo ra một
cách hiểu và thực thi pháp luật rằng, chi phí thiệt hại do mất việc phải được tính
toán sòng phẳng, bảo đảm thực sự tái lập và cải thiện chất lượng cuộc sống
người dân sau khi quá trình thu hồi đất.
1.1.1.4. Khái niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt tái định cư được hiểu là: “Đến một nơi nhất định
để sinh sống lần thứ hai (lại một lần nữa)”.

11


Mặc dù thuật ngữ tái định cư được pháp luật đất đai đề cập nhưng lại chưa có
quy định nào giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm này. Luật Đất đai năm 2013

Điều 85 quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách
nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu tái định
cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Việc
thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ
tầng của khu tái định cư. Chính phủ quy định chi tiết điều này” [23].
Theo luật thực định của Việt Nam hiện nay thì khái niệm hỗ trợ tái định
cư được đề cập một cách gián tiếp gồm: Người có đất bị thu hồi được bố trí tái
định cư tại chỗ nếu khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố
trí tái định cư...”
Theo các văn bản khác quy định về việc lập và thực hiện dự án tái định cư
quy định tại Điều 85 của Luật Đất đai như sau: Dự án tái định cư được lập và
phê duyệt độc lập với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng phải đảm
bảo có đất ở, nhà ở tái dịnh cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định thu hồi đất ... Khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án; nhà ở,
đất ở trong khu tái định cư được bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích
khác nhau phù hợp với các mức bồi thường và khả năng chi trả của người được
tái định cư ...
Từ quy định trên của pháp luật đất đai hiện hành, chúng ta có thể đưa ra
quan niệm về tái định cư như sau: Tái định cư là một trong các trách nhiệm của
Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người bị Nhà nước thu hồi đất và phải di chuyển
chỗ ở bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường
bằng việc giao đất ở hoặc hỗ trợ bằng tiền để tự lo chỗ ở mới. Mục đích và yêu
cầu của việc này là giúp người bị thu hồi đất ở, phải di chuyển chỗ ở nhanh
chóng ổn định cuộc sống.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất
Trong xu thế mở cửa hội nhập hiện nay và quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì nhu cầu cần có một diện tích đất lớn để đầu tư xây


12


dựng các khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp, khu đô thị và xây
dựng hạ tầng kỹ thuật như đường xá, cầu, cảng... phục vụ cho sự phát triển đất
nước là một tất yếu khách quan. Đồng thời để phát triển đô thị thì việc xóa bỏ
các khu dân cư manh mún, nhỏ lẻ theo kiểu tự phát, không theo quy hoạch trước
đây cũng là một điều tất yếu.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về đất đai nói chung, bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng trong thời kỳ thực hiện công cuộc đổi
mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã được thể hiện rất rõ trong tinh thần Nghị quyết
số 26 ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nội dung Nghi quyết đã đề ra
những chính sách quan trọng về đất đai trong đó có nội dung bồi thường thiệt hại
khi Nhà nước thu hồi đất trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm, đường lối này đã
được Luật Đất đai năm 2003 và tiếp đó là Luật Đất đai 2013 và các nghi định
liên quan thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng và chính sách đất đai của Nhà
nước đã được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật về đất đai, chúng ta
có thể thấy rõ được việc BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ là cần thiết và tất yếu
khách quan, bởi vì các lẽ sau.
Thứ nhất, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa
trên cơ sở quyền sở hữu về tài sản hợp pháp và quyền SDĐ của công dân được
pháp luật bảo hộ. Trong các trường hợp cần thiết theo luật định thì Nhà nước thực
hiện THĐ và người sử dụng đất có quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo
quy định. Có thể khẳng định quyền sở hữu về tài sản hợp pháp và quyền SDĐ là
quyền hiến định vì đã được ghi nhận tại Điều 51 và Điều 54 Hiến pháp 2013.
Hiến pháp Việt Nam hiện hành thể hiện việc bảo vệ quyền sở hữu của các

cá nhân như sau....Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh
doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.
Quy định tiếp theo trong Hiến pháp được thể hiện “... Tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử

13


dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo
quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. ... Nhà nước thu
hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật
định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường
theo quy định của pháp luật”.
Thứ hai, xét về bản chất Nhà nước ta là Nhà nước do nhân dân lao động
thiết lập lên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân; phục vụ và
chăm lo cho lợi ích, sự phồn vinh của người dân. Do đó, thì khi Nhà nước thu
hồi đất của người dân để sử dụng vào bất kể mục đích gì mà làm phương hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ
phải bồi thường;
Thứ ba, xét về phương diện lý luận, thiệt hại về lợi ích của người SDĐ là
hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Vì vậy,
Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho họ;
Thứ tư, Nhà nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Điều này
chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước biết tôn trọng và bảo hộ những quyền lợi
chính đáng của người dân;
Thứ năm, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia

đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và mở rộng các quyền năng cho người
SDĐ. Như vậy, "kể từ đây quyền sử dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai
được chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở
thành một loại quyền về tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất" hay nói
cách khác, "Quyền sở hữu đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện; còn
quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của người sử dụng đất". GS.TSKH. Đặng Hùng
Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng: "Chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai của nước ta chỉ mang tính thuật ngữ,... Quyền lợi và nghĩa vụ
của người sử dụng đất ở nước ta không khác so với quyền lợi và nghĩa vụ của

14


chủ sở hữu đất đai ở các nước" [58, tr.13]. Như vậy, một khi pháp luật đã thừa
nhận quyền SDĐ là một loại quyền về tài sản của người SDĐ, thì khi Nhà nước
thu hồi đất, Nhà nước phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho người SDĐ.
1.1.3. Những yêu cầu đặt ra khi thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.1.3.1. Những thiệt hại cần xem xét, xác định khi Nhà nước thu hồi đất để
thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Việc BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ được thực hiện thông qua việc điều
tra, khảo sát thống kê khối lượng về đất đai, tài sản cũng như các xác nhận về nguồn
gốc, quá trình sử dụng đất đai, tài sản đó của cơ quan nhà nước. Trên cơ sở đó đơn
vị được giao nhiệm vụ GPMB thực hiện việc lập phương án BT, HT, TĐC cho
người có đất, tài sản trên đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật.
Các phương án BT, HT thỏa đáng, tương xứng được thiết lập trên cơ sở
phải đảm bảo quyền, lợi ích của Nhà nước, Nhà đầu tư và nhất là đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân có đất bị thu hồi.
1.1.3.2. Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người
dân có đất bị thu hồi từ viêc thu hồi đất

Vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
phát triển kinh tế, Nhà nước phải tiến hành thu hồi đất, nhằm tạo ra quỹ đất để
phục vụ mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển kinh tế
nước nhà. Điều này sẽ không tránh khỏi việc gây ra những thiệt hại về vật chất
và tinh thần cũng như ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sinh hoạt của người bị
thu hồi đất. Bởi vậy khi tiến hành thu hồi đất, Nhà nước cần có những biện pháp
thỏa đáng để giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, người dân và nhà
đầu tư - những người được hưởng lợi từ việc bị thu hồi đất.
1.2. Quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất: Khái niệm, nội dung
1.2.1. Khái niệm quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Trước khi đi tìm hiểu về khái niệm quyền của người được BT, HT, TĐC
khi nhà nước THĐ ta cần phải tìm hiểu khái niệm quyền con người nói chung.
Bởi lẽ, quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ xuất phát từ

15


nhóm quyền con người cơ bản đã được quốc tế thừa nhận gồm quyền bảo vệ về
sở hữu, bảo vệ chỗ ở hợp pháp, bảo vệ các quyền dân sự chính trị và quyền kinh
tế, văn hóa, xã hội khác.
Khái niệm quyền con người nói chung đã được rất nhiều học giả khác
nhau nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất
phức tạp bởi lẽ, liên quan đến khái niệm khoa học này còn chịu ảnh hưởng của
các học thuyết chính trị, pháp lý và chế độ chính trị của từng quốc gia khác nhau.
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao quý nhất của nhân loại,
song cũng là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học
nghiên cứu. Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con người,
song quan điểm phổ biến cho rằng quyền con người là những đặc quyền bẩm

sinh, vốn có của mọi cá nhân: Nhân quyền là những năng lực và nhu cầu vốn có
và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể
chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Một định
nghĩa khác của Văn phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về quyền con người
(OHCHR) cũng thường trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu, trong đó cho rằng:
“Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại
đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [14].
Quyền con người là những giá trị tự nhiên, vốn có của con người, tuy
nhiên nó chỉ thực sự có ý nghĩa và trở thành hiện thực khi nó được bảo đảm
bằng pháp luật.
Theo lý luận chung đã được thừa nhận ở đa số các quốc gia trên thế giới
thì quyền con người có những thuộc tính cơ bản sau đây:
- Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền
con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da,
dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân.
- Tính đặc thù: Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người
nhưng mức độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân
của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó
đang sống. Nhận thức được đặc điểm này cũng rất quan trọng đối với việc chúng

16


ta có cái nhìn khách quan về vấn đề nhân quyền ở mỗi quốc gia.
- Tính không thể bị tước bỏ: Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc
tế, quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những
chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con người.

- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tất cả các quyền
con người có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là
tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ
ảnh hưởng đến các quyền khác.
Áp khái niệm và thuộc tính về quyền con người nói chung ta đi xác định
khái niệm quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ.
Khi đưa ra khái niệm quyền của người BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ
chúng cần xác định được quyền sử dụng đất là gì, và ý nghĩa của quyền sử dụng
đất đối với con người.
Thứ nhất, về khái niệm quyền sử dụng đất. Nhìn từ phương diện lịch sử
thì khái niệm “quyền sử dụng đất” đã được đề cập trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật về đất đai, bắt đầu từ thập niên 70 của thế kỷ XX với tên gọi ban
đầu là “quyền quản lý và sử dụng ruộng đất”. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện
nay, pháp luật thực định của Việt Nam vẫn chưa có định nghĩa chính thức về nội
hàm của khái niệm quyền sử dụng đất. Theo Từ điển Luật học năm 1999
thì "quyền sử dụng đất là quyền của các chủ thể được khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê hoặc
được chuyển giao từ chủ thể khác thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho...”[44, tr.341] Trong khi đó, Giáo trình
Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội thì cho rằng: "Quyền sử dụng đất
là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”[34, tr.128]. Mặc dù nghiên cứu ở giác
độ khác nhau, song nội hàm của các khái niệm về quyền sử dụng đất nêu trên có
các đặc điểm chủ yếu như: (i)Quyền sử dụng đất là quyền khai thác giá trị của
đất đai; (ii) Chủ thể thực hiện việc khai thác chính là người sử dụng đất (tổ chức,

17


hộ gia đình, cá nhân) và (iii) Quyền sử dụng đất không phải là quyền sở hữu đất

đai. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, các định nghĩa nêu trên vẫn chưa thể hiện
được đầy đủ và rõ nét bản chất của đất đai là tài sản thuộc sở hữu của quốc gia,
nhưng khi Nhà nước đã giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất của
người dân, doanh nghiệp thì có nghĩa là những chủ thể này phải có quyền tài sản
(quyền dân sự) đối với thửa đất cụ thể. Qua theo dõi quá trình lấy ý kiến Nhân
dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (nay là Hiến pháp năm 2013), có
nhiều ý kiến cho rằng Nhà nước cần xem xét, công nhận quyền sở hữu tư nhân
đối với đất ở. Đồng thời, nghiên cứu quy định của pháp luật đất đai cho thấy, đối
tượng các loại đất được áp dụng chế độ pháp lý sử dụng ổn định lâu dài cũng
ngày càng được mở rộng (Điều 125 Luật Đất đai năm 2013 quy định 11 loại đất,
trong đó trước tiên là đất ở). Nhìn từ góc độ khoa học, loại ý kiến này phản ánh
đầy đủ bản chất, phạm vi các quyền của người sử dụng đất ở, đồng thời suy cho
cùng thì việc công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất ở không có nghĩa là Nhà
nước không có quyền thu hồi đất, quyết định các vấn đề về quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, về giá đất. Hơn nữa, công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất ở giúp
Nhà nước áp dụng cơ chế phù hợp, hiệu quả để bảo vệ tốt hơn quyền sở hữu tư
nhân theo đúng nguyên tắc Hiến định. Loại ý kiến khác cho rằng, trong trường
hợp không công nhận quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai thì Nhà nước cũng
cần nhìn nhận quyền sử dụng đất là vật quyền (quyền của chủ thể tác động trực
tiếp tài sản, mà không phụ thuộc vào hành vi của chủ thể khác), từ đó pháp luật
có cơ chế điều chỉnh, bảo vệ phù hợp, khách quan, chính xác. Đảng ta khẳng
định quyền sử dụng đất là “một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt, nhưng không
phải là quyền sở hữu”[12]. Nhìn từ phương diện kinh tế, một hàng hoá thông
thường bao giờ cũng có giá trị và giá trị sử dụng, trong đó giá trị của hàng hoá
được xác định bằng lao động kết tinh trong hàng hoá (lao động hao phí phải bỏ
ra để tạo ra sản phẩm), nhưng giá trị của quyền sử dụng đất không được xác định
thông qua quy luật thông thường, không có hao phí lao động nào được bỏ ra để
hình thành nên đất (chỉ có lao động bỏ ra để cải tạo, tu bổ đất). Từ một số định
nghĩa, đánh giá nêu trên, thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức,


18


hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, đặc biệt là từ cách thức xử lý của pháp luật khi
quy định về các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản, trong
đó có quyền sử dụng đất và phương thức bảo vệ các quyền đối với tài sản của
người không phải là chủ sở hữu đó cũng được thực hiện như bảo vệ đối với chủ
sở hữu tài sản, chúng tôi cho rằng nhìn từ góc độ khoa học pháp lý thì quyền sử
dụng đất cần được định nghĩa như sau: Quyền sử dụng đất là quyền tài sản
thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phát sinh trên cơ sở quyết định
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc từ các giao dịch nhận chuyển quyền sử dụng đất. Việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục
do pháp luật quy định.
Thứ hai, vai trò của quyền sử dụng đất đối với con người. Quyền sử dụng
đất là một khái niệm bộ phận hình thành của khái niệm đất đai. Trên thực tế từ
ngàn đời nay, đất đai luôn là một loại tài sản cơ bản, quan trọng nhất của con
người. Đất đai chính là nguồn tư liệu sản xuất chủ yếu, là nơi mà toàn bộ hoạt
động sinh hoạt và sản xuất của con người diễn ra. Như Mác đã nói, suy cho đến
cùng nguồn gốc của mọi cuộc cách mạng là các mâu thuẫn từ sở hữu mà chủ yếu
là từ đất đai. Quyền sử dụng đất là khái niệm đặc trưng ở Việt Nam, nó có vai trò
quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Quyền sử dụng đất là sự thừa nhận,
sự thể hiện của pháp luật đối với các quyền cơ bản của người sử dụng đất như:
nhóm các quyền chiếm hữu, sử dụng, quyền chuyển nhượng, để lại thừa kế….
Một khi quyền sử dụng đất bị mất đi gắn liền với việc đất canh tác, nhà ở của
con người bị ảnh hướng. Về giác độ kinh tế, thì quyền sử dụng đất bị thu hồi sẽ
là một trong những thiệt hại lớn cho người sử dụng đất khi họ mất đi các quyền
có khả năng tạo ra lợi ích vật chất từ đất đai như: quyền chuyển nhượng, để lại
thừa kế, cho thuê, cho thuê lại… Về cuộc sống, người bị thu hồi đất, thực chất là
thu hồi quyền sử dụng đất sẽ bị đảo lộn về cuộc sống, đảo lộn sinh hoạt, mất đi

nơi cư trú lâu dài của họ.
Chính vì vậy, khi Nhà nước thu hồi đất phải thừa nhận quyền được bồi
thường, hỗ trợ tái định cư cho người sử dụng đất đây. Đây là vẫn đề mang tính

19


công bằng và hợp lý trong việc xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật. Điều
này cho thấy, khi nhà nước BT, HT, TĐC khi THĐ là một trong những điều kiện
nhằm khôi phục quyền lợi vốn có của người đó.
Ở đây cần có sự phân biệt rõ giữa quyền của người được BT, HT, TĐC khi
Nhà nước THĐ và quyền của người bị Nhà nước thu hồi đất.
Quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ được hiểu là
quyền của người bị THĐ trong trường hợp Nhà nước THĐ vì mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, đó là các
trường hợp THĐ theo quy định tại Điều 61, 62 Luật Đất đai 2013. Nó khác với
trường hợp THĐ quy định tại các Điều 64, 65 Luật Đất đai 2013 đó là THĐ do vi
phạm về pháp luật đất đai và THĐ do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạnh con người.
Một điểm nữa cần lưu ý là đề cập đến quyền của người được BT, HT,
TĐC khi Nhà nước THĐ theo quy định tại Điều 61, 62 Luật Đất đai 2013 thì
ngoài các quyền được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ thì còn một số quyền
liên quan khác như:
- Quyền được thông báo về việc thu hồi đất; được phổ biến, cung cấp các
chính sách BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ tại dự án.
- Quyền được có người đại diện tham gia vào Hội đồng BT - HT-TĐC của
dự án.
- Quyền được kiến nghị với dự thảo phương án BT, HT, TĐC; khiếu nại
đối với phương án BT, HT, TĐC khi thấy chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị thu hồi đất; tố cáo các hành vi sai phạm, xâm phạm đến quyền

và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, của bản thân và người khác trong
quá trình thực hiện thu hồi đất và thực hiện BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ.
Như vậy có thể xác định khái niệm quyền của người được BT, HT, TĐC khi
Nhà nước THĐ như sau: Quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ là
tập hợp các quyền mà người bị THĐ được hưởng như quyền được bồi thường về đất
và tài sản trên đất ...; quyền được hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi
nghề và tạo việc làm ...; quyền được xem xét bố trí tái định cư cũng như quyền được

20


cung cấp thông tin về việc THĐ; quyền được khiếu nại tố cáo các hành vi sai phạm khi
THĐ và các quyền khác liên quan đến người bị Nhà nước THĐ theo các trường hợp
do pháp luật quy định.
1.2.2. Nội dung quyền của người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Nội dung quyền của người được BT, HT, TĐC khi Nhà nước THĐ là một
trong những vấn đề quan trọng, điều này sẽ góp phần làm sáng tỏ những quyền
gì, giới hạn của nó như thế nào, và đối tượng quyền ra sao mà người đó được
hưởng. Theo các học giả ở Việt Nam hiện nay thừa nhận và thực tế thể hiện
trong các văn bản pháp luật Việt Nam thì nội dung của các quyền này được thể
hiện như sau:
1.2.2.1. Quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
* Quyền được bồi thường về đất và chi phí đầu tư về đất còn lại:
- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi
thường theo quy định thì được bồi thường. Việc bồi thường được thực hiện dưới 2
dạng là: bồi thường bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi
hoặc bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi.
- Trường hợp đất không có đủ điều kiện bồi thường theo quy định thì sẽ
được xem xét để bồi thường chi phí đầu tư về đất còn lại

* Quyền được bồi thường về tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất:
Chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất thì được
bồi thường
* Quyền được bồi thường do phải ngừng sản xuất kinh doanh khi Nhà
nước thu hồi đất
Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng
sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại.
* Quyền được bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất
Khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển tài sản thì được Nhà nước
bồi thường chi phí để tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt; trường hợp phải di chuyển hệ

21


×