Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.91 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃKHOA
HỘI VIỆT
HỌCNAM
XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA
HỘI HỌC XÃ HỘI
HỌCHỌC
VIỆNXÃ
KHOA

NGUYỄN QUANG NGUYỄN
HUY
QUANG HUY

THỦ TỤC GIẢI
NGHIỆP
THỦ THỂ
TỤC DOANH
GIẢI THỂ
DOANH NGHIỆP
THEO LUẬT
DOANH
THEO
LUẬTNGHIỆP
DOANH 2014
NGHIỆP NĂM 2014

Chuyên ngành Chuyên ngành: Luật
Kinh


tế tế
: Luật
Kinh
Mã số

Mã số

:: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC
LUẬT
HỌCSĨ LUẬT HỌC
LUẬNSĨVĂN
THẠC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI, 2017HÀ NỘI,

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.

TÊN TÁC GIẢ


NGUYỄN QUANG HUY


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI THỂ
DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG GIẢI
THỂ DOANH NGHIỆP........................................................................................ ..6
1.1. Nhận diện doanh nghiệp ................................................................................. ..6
1.2. Khái quát về giải thể doanh nghiệp ................................................................. 10
1.3. Pháp luật điều chỉnh hoạt động giải thể doanh nghiệp ................................... 16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI THỂ
DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014.................... 21
2.1. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm
2014 ........................................................................................................................ 21
2.2. Thực tiễn áp dụng thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014 ở Việt Nam hiện nay .............................................................................. 36
2.3. Pháp luật ở một nước về giải thể doanh ngiệp và bài học tham khảo cho
Việt Nam ................................................................................................................ 53
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM . 58
3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải thể doanh
nghiệp ...................................................................................................................... 58
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải thể doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................................. 59
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 68



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, số
lượng các doanh nghiệp ra đời trong thời gian gần đây tăng lên một cách đáng
kể. Đó cũng là tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế nước nhà bởi doanh nghiệp
có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản
phẩm trong nước (GDP). Những hoạt động chung của doanh nghiệp đều được
đặt dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Tuy nhiên, trong một
giai đoạn nào đó hoặc vì một số lý do khách quan, doanh nghiệp không thể tiếp
tục hoạt động được nữa và có nhu cầu ngừng hoạt động, pháp luật về doanh
nghiệp đã quy định cho phép doanh nghiệp có thể tiến hành giải thể.
Các quy định về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp được ghi nhận tại
các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, mà văn bản gần đây nhất là
Luật Doanh nghiệp năm 2014, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, cùng
với các văn bản dưới luật giải thích và hướng dẫn thi hành luật này.
Các vấn đề cơ bản về thủ tục giải thể doanh nghiệp đã được quy định khá
rõ trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên, trong thực tế, việc thực hiện
thủ tục giải thế doanh nghiệp lại đang gặp phải không ít vướng mắc, gây khó
khăn cho doanh nghiệp trong việc chấm dứt sự hoạt động của mình. Nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề đó, học viên đã chọn đề tài: “Thủ tục giải thể
doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải thể doanh nghiệp, nhất là vấn đề trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp
ở Việt Nam không phải là vấn đề mới mẻ. Tuy nhiên, vấn đề này lại chưa được
nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc ở mức độ cần thiết. Có thể đưa ra một
số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn như: Phạm Quý Tỵ
(1986): “Một số kiến nghị về giải thể, phá sản doanh nghiệp tư nhân và công ty
1



trách nhiệm hữu hạn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6/1998; Phạm Minh
Long (1996): “Quy chế thành lập và giải thể, phá sản và cơ chế quản lý của
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân”, Khóa luận tốt nghiệp; “ ; Hoàng
Thị Minh Trân (2000): “Quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước”
Hoàng Thị Minh Trâm, Khóa luận tốt nghiệp; … Các công trình nghiên cứu trên
chủ yếu tập trung vào nghiên cứu về các quy định giải thể doanh nghiệp Nhà
nước tuy nhiên các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp của nghiên
cứu trên không còn hiệu lực thi hành.
Thời gian gần đây có một số công trình nghiên cứu như: Đỗ Tiến
Thịnh:“Thực trạng doanh nghiệp rút khỏi thị trường hiện nay và kiến nghị hoàn
thiện khung pháp lý về giải thể doanh nghiệp”, Trưởng phòng Phòng Nghiệp vụ,
Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; TS. Nguyễn Thị
Dung : “Những giải pháp pháp lý cần xây dựng và hoàn thiện nhằm đảm bảo
doanh nghiệp rút khỏi thị trường”, Trường Đại học Luật Hà Nội - Tài liệu Hội
thảo khoa học của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp năm 2012. Những bài
viết trên đã phân tích, đánh giá, nhận diện các trường hợp doanh nghiệp rút lui
khỏi thị trường, tạm ngừng kinh doanh, giải thể và đưa ra các giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện khung pháp lý về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam.
Một số luận văn thạc sĩ gần đây cũng hướng tới nghiên cứu vấn đề này
như: đề tài “Giải thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp
dụng tại Công ty Cổ phần JM” của tác giả Hoàng Thị Huế vào năm 2013 do
PGS. TS. Nguyễn Như Phát hướng dẫn; đề tài “Pháp luật về giải thể doanh
nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của tác giả Lê Ngọc Anh
do TS. Nguyễn Thị Dung hướng dẫn và đề tài “pháp luật về giải thể doanh
nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp ở việt nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Diệu Linh năm 2015 do PSG.TS Dương Đức Chính hướng dẫn.
Các công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học về giải thể doanh nghiệp
trên đã và đang góp phần không nhỏ giúp tăng cường việc đưa pháp luật

2


doanh nghiệp vào cuộc sống. Tuy nhiên việc nghiên cứu cụ thể về thủ tục
giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa được nghiên
cứu đánh giá cụ thể và hệ thống ở bất kỳ đề tài nghiên cứu nào. Đó cũng là
khó khăn và cũng là cơ hội để học viên có thể tìm hiểu, nghiên cứu để có
thêm kiến thức về lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, trong đó tập
trung nghiên cứu các quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục giải
thể doanh nghiệp trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng trong mối tương
quan so sánh với pháp luật một số quốc gia về vấn đề này. Trên cơ sở đó xác
định những kết quả cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những
bất cập, hạn chế đó về thủ tục giải thể doanh nghiệp theo quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2014. Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu lý luận chung về doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp đặc biệt
là thủ tục giải thể doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp, trong đó tập trung
vào các quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về thủ tục giải thể doanh
nghiệp. Xác định rõ những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật
về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp. Đồng thời chỉ rõ những hạn chế, bất
cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập về trình tự, thủ tục giải thể
doanh nghiệp.


3


- Nghiên cứu quy định của một số quốc gia trên thế giới về thủ tục giải thể
doanh nghiệp nhằm rút ra bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể khảo cứu
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
- Xác định yêu cầu và đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật về thủ tục giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng áp dụng các
quy định của pháp luật hiện hành về doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp và thủ
tục giải thể doanh nghiệp.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, trong đó tập
trung vào các quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục giải thể
doanh nghiệp trên phương diện lý luận và thực tiễn thi hành. Đồng thời luận văn
cũng tiếp cận, nghiên cứu quy định của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Cộng hòa
Liên bang Đức về thủ tục giải thể doanh nghiệp để làm tăng thêm độ sâu của
luận văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp nói chung
và pháp luật về thủ tục giải thể doanh nghiệp nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: Phương pháp

phân tích, tổng hợp, lịch sử, phương pháp so sánh, đối chiếu thông tin để giải
quyết các nội dung đặt ra trong luận văn nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn đã tổng hợp được các quan điểm, các quy định của pháp luật, đặc
biệt là các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục giải thể doanh
nghiệp. Nghiên cứu khái quát quy định của các nước như Hoa Kỳ, Cộng hòa liên
bang Đức về thủ tục giải thể doanh nghiệp nhằm đúc rút những bài học mà Việt
Nam có thể tham khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải
thể doanh nghiệp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn đã đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải thể doanh nghiệp
sau hơn 2 năm thi hành Luật Doanh nghiệp. Luận văn đánh giá khách quan về
những kết quả đạt được trong việc thực thi thủ tục giải thể doanh nghiệp. Đồng
thời, luận văn cũng đã chỉ rõ những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc trong quá trình
thi hành thủ tục giải thể doanh nghiệp. Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về thủ tục giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu trong luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các trường Đại học và các trung tâm đào
tạo khác về luật học.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục giải thể doanh nghiệp và pháp
luật điều chỉnh hoạt động giải thể doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật

Doanh nghiệp năm 2014.
Chương 3: Những yêu cầu và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục
giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG GIẢI THỂ
DOANH NGHIỆP
1.1. Nhận diện doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp
Dưới góc độ pháp lý, doanh nghiệp được hiểu là một loại chủ thể pháp luật
(có tư cách pháp lý độc lập) và có nghề nghiệp kinh doanh (thực hiện hoạt động
kinh doanh với tính chất nghề nghiệp). Trong pháp luật Việt Nam, định nghĩa
pháp lý về doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp tư nhân năm
1990, Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 và Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Theo quy định tại khoản 1 điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì doanh
nghiệp là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh (ĐKKD) theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Luật Doanh nghiệp năm 2014 (có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/07/2015) quy định tại khoản 7 điều 4 doanh nghiệp là “là tổ
chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” .
Nhìn chung, khái niệm về doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh
nghiệp năm 2014 có sự kế thừa từ các quy định tại Luật Doanh nghiệp năm
2005. Theo đó, doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp phải có tên riêng. Tên riêng là yếu tố hình thức

nhưng là dấu hiệu đầu tiên để xác định tư cách chủ thể độc lập của doanh nghiệp
khi tham gia hoạt động kinh doanh. Tên riêng là cơ sở để Nhà nước thực hiện
quản lý đối với doanh nghiệp, đồng thời là cơ sở phân biệt chủ thể trong quan hệ
giữa các doanh nghiệp với nhau và với khách hàng. Với tên riêng, doanh nghiệp
có thể tự nhân danh mình tham gia các giao dịch một cách độc lập.
6


Thứ hai, doanh nghiệp phải có tài sản. Mục tiêu chủ yếu và trước tiên của
doanh nghiệp là hoạt động kinh doanh. Nếu không có tài sản thì không thể tiến
hành kinh doanh bởi đó là hoạt động đầu tư tài sản nhằm thu lợi về tài sản. Do
đó, điều kiện tiên quyết của doanh nghiệp là phải có một mức độ tài sản nhất
định. Có thể nói, tài sản vừa là điều kiện hoạt động, vừa là mục đích hoạt động
của doanh nghiệp.
Thứ ba, doanh nghiệp phải có trụ sở giao dịch ổn định. Bất cứ nhà đầu tư
nào thành lập chủ thể kinh doanh với tư cách doanh nghiệp tại Việt Nam đều
phải đăng ký ít nhất một trụ sở giao dịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Trụ
sở chính cũng là một yếu tố xác định quốc tịch của doanh nghiệp – một tiêu chí
quan trọng trong quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế.
Thứ tư, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục thành lập theo quy định của
pháp luật. Việc thành lập và đăng ký kinh doanh (ĐKKD) (nay sử dụng thuật
ngữ “đăng ký doanh nghiệp” (ĐKDN)) là cơ sở để xác định tính chất chủ thể
pháp lý độc lập của doanh nghiệp, gắn với những đặc điểm của hoạt động kinh
doanh. Đặc điểm này xuất phát từ yêu cầu của quản lý Nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Mọi doanh nghiệp, dù kinh doanh
ở lĩnh vực nào, cũng đều phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp một
văn bản có giá trị pháp lý là Giấy chứng nhận ĐKKD, thường được gọi tắt là
ĐKKD. Hiện nay, các doanh nghiệp đăng ký thành lập tại Phòng ĐKKD thuộc
Sở Kế hoạch và Đầu tư, gọi chung là Phòng ĐKKD cấp tỉnh, sẽ được cấp văn
bản mang tên Giấy chứng nhận ĐKDN. Văn bản này có thể được gọi với tên

khác, nhưng phải được quy định có giá trị tương ứng với ĐKKD. Đây là điều
kiện để doanh nghiệp được coi là “được thành lập hợp pháp”. Thủ tục xác lập tư
cách pháp lý cho doanh nghiệp có sự khác nhau giữa các loại hình doanh
nghiệp, phù hợp với những đặc điểm về mặt tổ chức của từng loại hình doanh
nghiệp. Có thể nhận thấy, ĐKDN là cơ sở cho hoạt động của mỗi doanh nghiệp,
đồng thời là cơ sở cho việc thực hiện kiểm soát và quản lý Nhà nước đối với
7


doanh nghiệp.
Thứ năm, doanh nghiệp phải thực hiện hoạt động kinh doanh. Đây là mục
tiêu chủ yếu của doanh nghiệp. Nói cách khác, doanh nghiệp luôn là một tổ chức
hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được
thực hiện có hệ thống, một cách độc lập, trên danh nghĩa và trách nhiệm của
doanh nghiệp, với mục đích sinh lợi và trong điều kiện do pháp luật quy định.
Nó có khuynh hướng lâu dài, không gián đoạn trong một thời gian nhất định và
có khả năng tái diễn thường kỳ. Đây cũng là căn cứ quan trọng để phân biệt
doanh nghiệp với các chủ thể khác. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, doanh
nghiệp cũng có thể thực hiện nhiều hoạt động khác không phải hoạt động kinh
doanh theo đúng nghĩa, để đáp ứng nhu cầu của mình hoặc theo quy định của
pháp luật, như các hoạt động xã hội từ thiện. Tuy nhiên, các hoạt động này
không phải mục tiêu bản chất của doanh nghiệp, mà được doanh nghiệp tiến
hành để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, nên trong nhiều trường hợp, chúng
được điều chỉnh bởi cơ chế của pháp luật kinh doanh. Nếu doanh nghiệp không
lấy kinh doanh là hoạt động cơ bản thì tất yếu không thể tồn tại và không có khả
năng tồn tại.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Việc phân loại doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn cơ
chế điều chỉnh pháp luật thích hợp đối với doanh nghiệp, cả về quản lý Nhà
nước và quản trị doanh nghiệp. Phương pháp phân loại doanh nghiệp cũng có

ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp. Một
số cách thức phân loại doanh nghiệp phổ biển như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất sở hữu và mục đích hoạt động của doanh
nghiệp thì doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp tư và doanh nghiệp công.
Doanh nghiệp tư thường được hình thành từ sở hữu tư nhân hoặc đa sở hữu, có
bản chất kinh doanh thuần túy, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận, lấy lợi
nhuận làm cơ sở để tồn tại và phát triển. Doanh nghiệp công được thành lập với
8


sự can thiệp và chi phối của Nhà nước trong chiến lược và mục tiêu hoạt động
thông qua việc nắm giữ một phần hoặc toàn bộ vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp. Hiện nay, tiêu chí phân loại này ngày càng trở nên không phổ biến và ít
có ý nghĩa, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Thứ hai, căn cứ cơ cấu nhà đầu tư và phương thức góp vốn vào doanh
nghiệp, doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp một chủ sở hữu và nhiều
chủ sở hữu. Chủ sở hữu của doanh nghiệp một chủ có thể là cá nhân hoặc tổ
chức. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, doanh nghiệp một chủ sở hữu bao
gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành
viên. Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu được hình thành trên cơ sở sự liên kết của
nhiều nhà đầu tư, do nhiều nhà đầu tư góp vốn thành lập. Pháp luật Việt Nam
chia doanh nghiệp nhiều chủ thành công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty
TNHH hai thành viên trở lên. Sự liên kết trong việc thành lập công ty tạo ra một
tư cách chủ thể pháp luật mới. Tiêu chí phân loại này có ý nghĩa trong việc quy
định vấn đề tổ chức doanh nghiệp một cách phù hợp, bảo vệ quyền lợi của
những chủ thể tham gia đầu tư vào doanh nghiệp, cũng như các bên thứ ba. Đây
là phương pháp phân loại phổ biến được áp dụng để cấu trúc hệ thống pháp luật
doanh nghiệp về hình thức văn bản và nội dung quy phạm pháp luật.
Thứ ba, căn cứ tư cách pháp lý của doanh nghiệp, doanh nghiệp được chia
thành doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp không có tư cách

pháp nhân. Pháp nhân là một tổ chức tồn tại vì một mục đích nào đó và có
những yếu tố pháp lý cho phép phân biệt nó với các thành viên của nó và với các
pháp nhân khác. Việc xác lập tư cách pháp nhân cho một doanh nghiệp liên
quan đến khả năng chịu trách nhiệm độc lập về tài sản của doanh nghiệp đó.
Trên nguyên tắc, những doanh nghiệp có sự tách bạch về tài sản được gọi là
pháp nhân, ngược lại, những doanh nghiệp không thực hiện nguyên tắc tách
bạch về tài sản sẽ không có bản chất pháp nhân. Việc có được hưởng quy chế
pháp nhân hay không đôi khi có ảnh hưởng nhất định đến địa vị pháp lý của
9


doanh nghiệp.
Thứ tư, căn cứ chế độ trách nhiệm tài sản, hay dựa trên mức độ chịu trách
nhiệm tài sản trong hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp: chế độ
trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn. Chủ sở hữu doanh nghiệp
theo quy chế trách nhiệm vô hạn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản của mình. Theo pháp luật Việt Nam hiện
hành, chế độ trách nhiệm vô hạn áp dụng đối với chủ doanh nghiệp tư nhân,
thành viên hợp danh của công ty hợp danh và chủ hộ kinh doanh cá thể. Đối với
những doanh nghiệp theo quy chế trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu doanh
nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi
giá trị vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng trả nợ đến
mức cao nhất là toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Có thể thấy, các hình thức tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
phát triển theo xu hướng ngày càng phong phú và đa dạng. Luật Doanh nghiệp
đã quy định về những loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần và
công ty TNHH. Các loại hình doanh nghiệp này, bên cạnh những đặc điểm của
doanh nghiệp nói chung, còn có những đặc điểm riêng về tổ chức. Mặt khác,
mỗi loại hình doanh nghiệp, xét theo lợi ích, nguyện vọng của nhà đầu tư, đều

có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
Ngoài ra, còn có nhiều cách khác để phân loại doanh nghiệp ít được đề cập
đến dưới góc độ pháp lý như: phân loại doanh nghiệp theo quy mô, theo ngành
nghề kinh doanh…, song mỗi cách phân loại có những ý nghĩa thực tiễn nhất
định trong việc xây dựng và áp dụng các chính sách phát triển doanh nghiệp[13].
1.2. Khái quát về giải thể doanh nghiệp
1.2.1. Giải thể doanh nghiệp

10


1.2.1.1. Khái niệm về giải thể doanh nghiệp
Doanh nghiệp có quá trình gia nhập, hoạt động, phát triển và rút lui khỏi thị
trường. Theo đó, một trong những cách thức rút lui khỏi thị trường mang tính
phổ biến hiện nay là thông qua giải thể doanh nghiệp.
Dưới góc độ ngôn ngữ, giải thể là “không còn hoặc làm cho không còn tồn
tại như một tổ chức, các thành phần, thành viên phân tán đi”. Hiểu theo cách
thông thường, giải thể doanh nghiệp có nghĩa là doanh nghiệp chấm dứt sự tồn
tại, không còn là một tổ chức tiến hành hoạt động kinh doanh. Khái niệm này
được thể hiện trong tiếng Anh bằng nhiều thuật ngữ như “disband” hay “break
up”, trong đó thông dụng nhất và được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp
lý là thuật ngữ “dissolution”, để chỉ sự chấm dứt sự tồn tại của một doanh
nghiệp, tổ chức.
Theo Từ điển Luật học, giải thể doanh nghiệp là “thủ tục chấm dứt sự tồn
tại của doanh nghiệp, với tư cách là một chủ thể kinh doanh bằng cách thanh lý
tài sản của doanh nghiệp để trả cho các chủ nợ”.
Tại Giáo trình Luật Kinh tế của Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc dân,
Tiến sỹ Nguyễn Hợp Toàn đưa ra khái niệm: “Giải thể doanh nghiệp được
nhìn nhận là việc một doanh nghiệp chấm dứt hoạt động kinh doanh, không
tiếp tục tồn tại trên thị trường với tư cách là một chủ thể kinh doanh” [19,

tr.115]. Còn theo Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam của Viện Đại học Mở
Hà Nội, thì giải thể doanh nghiệp là “một trong những thủ tục pháp lý dẫn
đến chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Hậu quả của giải thể là doanh
nghiệp sẽ bị xóa tên trong sổ ĐKKD.” [13, tr.248]. Trong Giáo trình Luật
Kinh tế Việt Nam của trường Đại học Lao động Xã hội, giải thể doanh
nghiệp cũng được định nghĩa là “việc chấm dứt sự tồn tại, hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp và xóa tên doanh nghiệp trong sổ ĐKKD”[24,
tr.54] . Có thể thấy các nhà nghiên cứu có cách hiểu tương đối giống nhau
về khái niệm này. Đây là một quá trình, chứ không phải một thời điểm hay
11


một sự kiện, với yêu cầu phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Một
trong các điều kiện tiên quyết mà pháp luật quy định khi giải thể, đó là
doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán hết khoản nợ, nghĩa vụ tài sản cũng
như những nghĩa vụ hợp đồng khác với các bên có liên quan.
Nhìn chung, giải thể doanh nghiệp được hiểu là một quá trình chấm dứt sự
tồn tại và hoạt động với tư cách một chủ thể kinh doanh của doanh nghiệp khi
đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp đó.
1.2.1.2. Đặc điểm pháp lý của giải thể doanh nghiệp
Giải thể doanh nghiệp mang những đặc trưng pháp lý sau đây:
Thứ nhất, giải thể doanh nghiệp dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp tiến hành các thủ tục giải thể, mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp phải dừng lại, doanh nghiệp phải tiến hành thanh lý tài
sản, thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Doanh nghiệp sẽ bị cơ
quan ĐKKD xóa tên trong sổ ĐKDN, hay cập nhật lại tình trạng trên Cơ sở dữ
liệu quốc gia về ĐKDN, theo như quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014, và
kể từ thời điểm đó, doanh nghiệp không còn tồn tại trên thị trường.
Thứ hai, giải thể doanh nghiệp là thủ tục mang tính hành chính. Để chấm
dứt sự tồn tại, chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc đại diện của chủ sở hữu phải tiến

hành thủ tục giải thể theo trình tự luật định, với rất nhiều các thủ tục như chấm
dứt hiệu lực mã số thuế tại cơ quan quản lý thuế, trả con dấu doanh nghiệp tại cơ
quan công an, nộp hồ sơ giải thể, xóa tên doanh nghiệp trong sổ ĐKKD tại cơ
quan ĐKKD hoặc cập nhật thông tin trên Hệ thống thông tin quốc gia… Đây
đều là các thủ tục được tiến hành tại cơ quan hành chính và do các cơ quan hành
chính xử lý vụ việc.
Thứ ba, giải thể doanh nghiệp có thể mang tính tự nguyện hoặc mang tính
bắt buộc. Thông thường, việc quyết định giải thể doanh nghiệp thuộc quyền của
chủ sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, tất cả các thành
viên hợp danh của công ty hợp danh, Hội đồng thành viên của công ty TNHH
12


hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên, Đại hội đồng
cổ đông của công ty cổ phần có quyền đưa ra quyết định giải thể doanh nghiệp.
Đây là trường hợp giải thể hoàn toàn mang tính tự nguyện, theo ý chí của nhà
đầu tư. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không còn thỏa mãn các điều kiện tồn tại
theo quy định của pháp luật hoặc thực hiện hoạt động kinh doanh vi phạm pháp
luật, thì bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể. Trong trường hợp này, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là chủ thể ra quyết định giải thể doanh nghiệp chứ không
phụ thuộc vào ý chí của nhà đầu tư.
Thứ tư, việc giải thể doanh nghiệp phải bảo đảm thanh toán hết các khoản
nợ và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Đây là điểm đặc trưng của giải thể doanh
nghiệp. Doanh nghiệp muốn chấm dứt sự tồn tại bằng thủ tục giải thể thì phải
tiến hành thanh lý tài sản và bảo đảm thanh toán đầy đủ các khoản nợ với các
chủ nợ, cũng như thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc chuyển giao
nghĩa vụ thanh toán nợ và nghĩa vụ hợp đồng cho các chủ thể khác theo thỏa
thuận giữa các bên có liên quan. Các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp sẽ được
giải quyết và mọi tài sản còn lại của doanh nghiệp được phân chia cho các thành
viên hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp. Đây cũng là tiêu chí quan trọng được dùng

để phân biệt chế định phá sản doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp.
1.2.1.3. Hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp
Như đã phân tích tại phần trên, giải thể doanh nghiệp dẫn đến việc doanh
nghiệp chấm dứt tất cả các hoạt động kinh doanh và tình trạng của doanh nghiệp
trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKDN sẽ được chuyển từ “đang hoạt động” sang
“đã giải thể”. Đây có thể coi là hành động “khai tử” doanh nghiệp. Do doanh
nghiệp chấm dứt tư cách là một chủ thể kinh doanh, nên mọi quyền và nghĩa vụ
của doanh nghiệp sẽ chấm dứt, các quan hệ xã hội với các chủ thể khác sẽ không
còn tồn tại.
Thứ nhất, đối với cơ quan nhà nước, doanh nghiệp phải đảm bảo đã hoàn
thành hết các nghĩa vụ, như thanh toán hết các khoản thuế, bảo hiểm xã hội còn
13


thiếu (nếu có), thực hiện thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế, trả hoặc hủy con
dấu doanh nghiệp,… Doanh nghiệp có thể yêu cầu cơ quan nhà nước đảm bảo
các quyền lợi của mình, như yêu cầu cơ quan thuế hoàn trả thuế…
Thứ hai, đối với các chủ thể kinh doanh có liên quan, quan hệ kinh doanh
nói riêng và các quan hệ xã hội nói chung sẽ chấm dứt khi doanh nghiệp giải
thể. Doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản, hoàn thành các nghĩa vụ hợp đồng còn tồn đọng. Doanh nghiệp phải thực
hiện thanh lý hợp đồng lao động và thực hiện các nghĩa vụ như thanh toán tiền
lương, trợ cấp, bảo hiểm và đảm bảo các quyền lợi chính đáng cho người lao
động trong doanh nghiệp; trả đủ các khoản nợ cho các chủ nợ, kể cả nợ có đảm
bảo và không đảm bảo; thực hiện và thanh lý hết các hợp đồng đã ký kết, hoặc
phải có các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng theo thỏa thuận với đối tác
hợp đồng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng có quyền yêu cầu các chủ thể đó thực
hiện nghĩa vụ đối với mình, ví dụ như yêu cầu được thanh toán khoản nợ mà
doanh nghiệp đã cho vay, thực hiện hợp đồng đã ký kết để doanh nghiệp đảm
bảo đủ điều kiện giải thể…

Thứ ba, giữa các thành viên trong Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ
đông, quan hệ hợp tác kinh doanh sẽ chấm dứt kể từ khi doanh nghiệp giải thể.
Có thể coi như sự thỏa thuận giữa các thành viên trước lúc thành lập doanh
nghiệp sẽ kết thúc. Việc xử lý quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên công ty sẽ
thực hiện theo quy định tại Điều lệ Công ty đã thông qua hoặc theo sự thỏa
thuận. Tuy nhiên, nếu trong quá trình hoạt động và quá trình thực hiện giải thể
có sai phạm thì các thành viên vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với các hành
động của mình, đặc biệt nếu doanh nghiệp rơi vào các trường hợp bắt buộc phải
giải thể.
1.2.1.4. Phân loại giải thể doanh nghiệp
Giải thể doanh nghiệp bao gồm: giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc.

14


Giải thể tự nguyện: Giải thể tự nguyện là trường hợp doanh nghiệp chấm
dứt sự tồn tại của doanh nghiệp mình do đã đạt được mục đích kinh doanh hay
do gặp khó khăn không thể khắc phục được,… và muốn rút lui khỏi thị trường.
Đối tượng của trường hợp giải thể này là doanh nghiệp thực hiện việc giải thể
của chính công ty mình. Lý do giải thể có thể do kết thúc thời hạn hoạt động đã
ghi trong điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn hoặc theo quyết định
của chủ doanh nghiệp với doanh nghiệp tư nhân, của tất cả thành viên hợp danh
đối với công ty hợp danh, của hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty với công
ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần.
Giải thể bắt buộc: Giải thể doanh nghiệp bắt buộc là trường hợp giải thể
không do ý chí chủ quan của doanh nghiệp. Do doanh nghiệp không đáp ứng
được những điều kiện nhất định mà pháp luật đã quy định. Đối tượng quyết định
giải thể là cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp thực hiện việc giải
thể công ty. Lý do giải thể của trường hợp giải thể này là do công ty không đủ số
lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong sáu tháng liên tục

mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình kinh doanh hoặc bị thu hồi giấy phép
kinh doanh.
1.2.2. Khái niệm và đặc trưng của thủ tục giải thể doanh nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm thủ tục giải thể doanh nghiệp
Thủ tục giải thể doanh nghiệp là cách thức, trình tự đã được pháp luật quy
định để doanh nghiệp có thể tiến hành việc chấm dứt hoạt động của doanh
nghiệp theo ý chí chủ quan của doanh nghiệp hoặc do quyết định của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
1.2.2.2. Đặc trưng của thủ tục giải thể doanh nghiệp
Thủ tục giải thể doanh nghiệp là một phần trong toàn bộ quá trình doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động để tiến hành chấm dứt hoạt động của doanh
nghiệp nên thủ tục giải thể doanh nghiệp có những đặc trưng sau đây:

15


Một là, Thủ tục giải thể doanh ngiệp mang tính chất hành chính và được
tiến hành tại các cơ quan hành chính Nhà nước và do các cơ quan hành chính
Nhà nước thực hiện. Việc thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp được tiến hành
tại các cơ quan Nhà nước như: Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, cơ
quan hải quan, Bảo hiểm xã hội,…
Hai là,Thủ tục giải thể doanh nghiệp mang tính chất trình tự bắt buộc và
được pháp luật điều chỉnh. Thủ tục để doanh nghiệp tiến hành giải thể được quy
định tại điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản dưới luật hướng
dẫn thực hiện.
1.3. Pháp luật điều chỉnh hoạt động giải thể doanh nghiệp
1.3.1. Sự cần thiết của pháp luật đối với giải thể doanh nghiệp
Từ những hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp đã nêu ở trên và trong
bối cảnh Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh
tế thế giới hiện nay, chúng ta đã xây dựng và tiếp tục hoàn thiện các chế định

pháp luật về giải thể doanh nghiệp nhằm bảo đảm cho các doanh nghiệp có thể
rút lui khỏi thị trường một cách trật tự, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể liên quan.
Các quy định về giải thể doanh nghiệp được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật về doanh nghiệp, các quy định đó giữ một vị trí quan trọng không chỉ
đối với các chủ thể kinh doanh mà còn đối với trật tự kinh tế - xã hội nói chung.
Vai trò này thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật giải thể doanh nghiệp là công cụ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của chính doanh nghiệp giải thể. Ngay từ khi tham gia vào thị
trường, doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà
pháp luật không cấm, được tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức
kinh doanh, chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, chủ
động điều chỉnh quy mô, ngành, nghề kinh doanh, lựa chọn hình thức, phương
thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn, chủ động tìm kiếm thị trường, khách
16


hàng và ký kết hợp đồng; tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu
kinh doanh; chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của doanh nghiệp; chủ
động ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả
năng cạnh tranh… Nhìn chung, doanh nghiệp được quyền tự quyết những hoạt
động của mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép, không trái với những điều
pháp luật cấm. Rút khỏi thị trường cũng là một quyền hợp pháp của doanh
nghiệp, do chủ sở hữu doanh nghiệp quyết định, đặc biệt trong trường hợp việc
tồn tại của doanh nghiệp không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, có
thể gây tổn hại tới lợi ích của chủ sở hữu và các chủ thể có liên quan. Có thể
thấy rõ điều này trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và không còn
nhu cầu tiếp tục kinh doanh. Việc doanh nghiệp chấm dứt hoạt động bằng thủ
tục giải thể sẽ là một quyết định đúng đắn trước khi doanh nghiệp không còn
khả năng trả nợ. Đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá

trình thực hiện việc giải thể doanh nghiệp, chức năng chủ yếu của pháp luật về
giải thể doanh nghiệp là tạo cơ sở pháp lý để chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp, đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Thứ hai, pháp luật giải thể doanh nghiệp là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể có liên quan tới doanh nghiệp giải thể. Để được giải
thể, doanh nghiệp phải thỏa mãn điều kiện tiên quyết là thanh toán hết các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác, giải quyết tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết.
Đồng thời, pháp luật cũng nghiêm cấm các hành vi trốn tránh nghĩa vụ trong quá
trình thực hiện giải thể, như tẩu tán tài sản, từ chối trả nợ,… Điều này đảm bảo
cho quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan khi doanh nghiệp chấm dứt tồn
tại, có thể kể đến như chủ nợ, người lao động, các đối tác hợp đồng… Trong
trường hợp doanh nghiệp bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định giải
thể, vai trò này càng được khẳng định rõ ràng.
Thứ ba, pháp luật giải thể doanh nghiệp góp phần bảo vệ trật tự, kỷ cương
của xã hội, bảo vệ tính lành mạnh của nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp, việc
17


chấm dứt hoạt động và rút khỏi thị trường của doanh nghiệp có thể gây ảnh
hưởng tiêu cực tới nhiều chủ thể trong xã hội. Do đó, thủ tục giải thể doanh
nghiệp luôn được đòi hỏi phải thiết kế nhằm đáp ứng các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các loại chủ thể tham gia vào tiến trình đó, như đã trình
bày ở trên. Ở góc độ này, pháp luật giải thể doanh nghiệp đã góp phần hạn chế
những mâu thuẫn và xung đột lợi ích giữa các chủ thể có liên quan, bảo vệ trật
tự và kỷ cương xã hội. Bên cạnh đó, giải thể doanh nghiệp cũng giúp đào thải
khỏi thương trường những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả hoặc hoạt
động trái quy định của pháp luật, có khả năng gây tổn hại đến các chủ thể kinh
doanh khác và cả nền kinh tế nói chung.
Do vậy, xây dựng chế định pháp luật về giải thể doanh nghiệp là một yêu
cầu thiết yếu trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp nói riêng và pháp luật kinh

doanh nói chung của một quốc gia, hướng tới một nền kinh tế thị trường phát
triển và cạnh tranh lành mạnh, góp phần định hướng, cải thiện, đẩy mạnh sự
phát triển của đất nước.
1.3.2. Khái niệm và nội dung pháp luật điều chỉnh giải thể doanh nghiệp
ở Việt Nam
1.3.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh giải thể doanh nghiệp
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về giải thể doanh nghiệp là các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải thể doanh nghiệp, có thể kể đến như
quan hệ giữa chủ sở hữu doanh nghiệp với doanh nghiệp, quan hệ giữa các đồng
chủ sở hữu doanh nghiệp với nhau (trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều chủ
sở hữu), quan hệ giữa chủ sở hữu doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp,
quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác có liên quan (đối tác hợp đồng,
chủ nợ, người lao động…), v.v… Từ đó có thể định nghĩa, pháp luật về giải thể
doanh nghiệp là hệ thống các quy tắc xử sự, do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết việc giải
thể của doanh nghiệp.
18


1.3.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam
Tại Việt Nam hiện nay, pháp luật điều chỉnh giải thể doanh nghiệp được
ghi nhận tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nội dung pháp luật điều chỉnh giải thể doanh nghiệp bao gồm các nội dung sau:
- Nguyên tắc giải thể doanh nghiệp;
- Các quy định về các trường hợp giải thể doanh nghiệp;
- Các quy định về các điều kiện giải thể doanh nghiệp;
- Các quy định về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp;
- Các quy định về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan đến việc
giải thể doanh nghiệp;
- Các quy định về quản lý nhà nước về giải thể doanh nghiệp.


19


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh không thể thiếu trong nền kinh tế
thị trường được thành lập nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh, tạo ra sản
phẩm, hàng hóa và dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế và của toàn xã
hội. Trong quá trình hoạt động, đến một lúc nào đó, vì những lý do cụ thể, doanh
nghiệp sẽ có nhu cầu, hoặc buộc phải chấm dứt hoạt động và rời khỏi thị trường.
Giải thể doanh nghiệp là một trong các cách thức đó.
Giải thể doanh nghiệp dẫn tới hậu quả cuối cùng là doanh nghiệp chấm dứt
hoạt động, kết thúc sự tồn tại với tư cách một chủ thể kinh doanh khi đảm bảo
thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp đó. Nó có vai
trò và ý nghĩa quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp, các chủ thể có liên
quan và cả nền kinh tế - xã hội của quốc gia. Chính vì vậy, xây dựng một khuôn
khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động này là yêu cầu tất yếu, nhằm đảm bảo quyền
tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể rút lui khỏi thị
trường một cách trật tự, lành mạnh, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể khác, bảo vệ kỷ cương quốc gia, hướng tới một nền kinh tế thị
trường phát triển toàn diện. Thủ tục giải thể doanh ngiệp là một trong những yếu
tố góp phần vào việc đó. Thủ tục giải thể doanh nghiệp càng đơn giản hóa sẽ
giúp doanh nghiệp có thể rút lui khỏi thị trường một cách thuận lợi để tiếp tục
vòng quay đầu tư.

20


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
2.1. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014
Những quy định về giải thể và thủ tục giải thể doanh nghiệp được quy định
trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, được cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành tại
Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/09/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh
nghiệp và thông tư số 20/2015/TT-BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp.
2.1.1. Quy định về trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014
2.1.1.1. Quy định về giải thể doanh nghiệp nói chung
Việc giải thể doanh nghiệp được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất
định. Mỗi một trình tự, giai đoạn áp dụng có sự tác động hay ảnh hưởng tới toàn
bộ hoạt động giải thể doanh nghiệp, từ doanh nghiệp cho đến cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền hay những chủ thể liên quan. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, việc giải thể đối với doanh nghiệp được thực hiện thông qua các bước chủ
yếu sau [18, Điểm a,b,c khoản 1 điều 201 ]:
Bước 1: Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp;
Về Quyết định giải thể của doanh nghiệp. Quyết định giải thể doanh nghiệp
cần phải có các nội dung chủ yếu sau:
- Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
- Lý do giải thể;
- Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của
doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá
06 tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể;
- Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;
21


- Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Để làm đảm bảo việc giải thể đúng theo quy định và bảo vệ lợi ích tối đa
của các chủ thể liên quan đến giải thể doanh nghiệp nên kể từ thời điểm có quyết
định giải thể doanh nghiệp, hoạt động của doanh nghiệp bị hạn chế hoặc bị cấm
đối với một số lĩnh vực. Cụ thể, những hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị cấm
theo quy định tại điều 205 Luật Doanh nghiệp năm 2014, bao gồm:
- Cất giấu, tẩu tán tài sản;
- Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
- Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm
bằng tài sản của doanh nghiệp;
- Ký kết hợp đồng mới trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh nghiệp;
- Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản;
- Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
- Huy động vốn dưới mọi hình thức.
Đồng thời để đảm bảo “kỷ cương phép nước” cũng như hướng tới bảo vệ
lợi ích hợp pháp của các chủ thể, những hành vi vi phạm của các cá nhân tùy
theo tính chất và mức độ vi phạm, cá nhân có thể bị xử phạt vi phạm hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Bước 2: Thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Việc thanh lý tài sản trong giải thể doanh nghiệp là một trong những thủ
tục quan trọng nhằm đảm bảo lợi ích của chủ thể. Việc thanh lý tài sản có thể
chủ doanh nghiệp tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty, Hội
đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp, trừ trường hợp
Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lý riêng.Tổ thanh lý tài sản này
sẽ thực hiện các hoạt động chuyên môn như đúng tên gọi, như thu hồi, kiểm kê,
quản lý tài sản của doanh nghiệp, lên phương án thu các khoản phải thu… Trong
trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện, tổ thanh lý tài

22



×