Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng(IPO) và thực trạng phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của các doanh nghiệp Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.73 KB, 31 trang )

Đề tài: phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng(IPO) và thực trạng phát
hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của các doanh nghiệp Việt Nam.
Lời mở đầu
Những năm gần đây, ở Việt Nam đang sôi động một loại thị trường : thị trường chứng
khốn. Có nhiều ngun nhân dẫn đến cơn sốt chứng khoán như hiện nay, trong đó phải
kể đến những món lợi về kinh tế mà nó mang lại cho các nhà đầu tư. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, xu thế tồn cầu hố nền kinh tế, nhiều làn
sóng kinh doanh mới đã và đang ùa vào nước ta. Nhu cầu tồn tại và phát triển trong môi
trường cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải minh bạch hố cơ chế quản lý, kinh
doanh. Chính vì lẽ đó, các cơng ty cổ phần ra đời và ngày càng thể hiện bước đi đúng
đắn của mình khi đưa cổ phiếu của công ty đến với công chúng, gắn liền lợi ích của
cơng ty với các cổ đơng. Qua đó, chúng ta cũng có thể thấy vai trị của thị trường chứng
khốn nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng đến sự phát triển nền kinh tế đất nước.
Việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng đã khơng cịn chỉ là việc của các doanh
nghiệp mà là của tất cả mọi người, những ai quan tâm đến thị trường chứng khốn. Các
cơng ty càng có uy tín trong kinh doanh thì sự chú ý của các nhà đầu tư vào đợt phát
hành cổ phiếu của chúng càng lớn. Cũng vì thế, nhìn vào giá của cổ phiếu mà chúng ta
có thể thấy một phần kết quả kinh doanh của công ty. Như vậy, phát hành cổ phiếu lần
đầu ra công chúng(IPO) là một bước tiến rất quan trọng, nó đánh dấu một thời kỳ phát
triển mới của cơng ty. Tuy cũng đã hình thành ở nước ta trong một thời gian nhưng IPO
vẫn còn khá non yếu nếu đem so với thế giới. Có nhiều câu hỏi đặt ra là: IPO nên được
hiểu như thế nào là đúng, những công ty nào mới được phép tiến hành IPO và thực trạng
phát hành cổ phiếu ở nước ta trong những năm qua có những nét gì đặc biệt? cũng như
những giải pháp cho vấn đề này trong giai đoạn hiện nay? Tất cả các nội dung đó cũng
là đề tài nghiên cứu chính của em:” Phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng(IPO)
và thực trạng phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng của các doanh nghiệp Việt
Nam”
Mục tiêu của đề tài:
Với đề tài :” Phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng(IPO) và thực trạng phát
hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng của các doanh nghiệp Việt Nam” em muốn đi
tìm hiểu chung về những vấn đề liên quan đến phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng


và những ứng dụng của nó đối với thị trường mới nổi ở Việt Nam từ đó ta có cái nhìn
tổng quan hơn về lộ trình IPO của các doanh nghiệp Việt Nam liệu nó có ảnh hưởng
như thế nào đến sự phát triển của TTCK Việt Nam.
Chương I: Cơ sở lí thuyết

1


1.Khái niệm và vai trị phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng(IPO)
1.1. Khái niệm
Phát hành chứng khốn lần đầu ra công chúng (IPO-viết tắt của Initial Public Offering):
là việc 1 doanh nghiệp cổ phần lần đầu thực hiện phát hành chứng khốn của mình tới
cơng chúng đầu tư và phương thức thực hiện để chào bán chứng khoán phải tiến hành
công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Công chúng trong định nghĩa về IPO được hiểu là một số lượng lớn nhất định nhà đầu
tư đủ lớn tham gia mua một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Tỷ lệ này phụ thuộc
vào quy định cho phép của Nhà nước,thường thì các nước khác nhau có tỷ lệ khác nhau.
Điều 3 khoản 7 Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán
quy định: Phát hành chứng khốn ra cơng chúng là việc chào bán 1 đợt chứng khốn có
thể chuyển nhượng được thơng qua tổ chức trung gian cho ít nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ
chức phát hành.Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, một công ty cổ phần sẽ trở
thành công ty đại chúng (hay công ty cổ phần đại chúng).
Khái niệm IPO dễ bị lẫn lộn với 1 khái niệm khác là phát hành sơ cấp. IPO là một bộ
phận của phát hành sơ cấp do đó phát hành sơ cấp chưa chắc đã là IPO. Điểm khác nhau
quan trọng giữa IPO và phát hành sơ cấp là phát hành sơ cấp là việc phát hành chứng
khoán mới cịn IPO phải là lần phát hành chứng khốn đầu tiên của 1 cơng ty. Từ đó có
thể thấy một cơng ty có thể có nhiều lần phát hành sơ cấp nhưng chỉ có duy nhất 1 lần
IPO. Tiếp theo lần phát hành IPO,những lần phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng của
công ty được gọi là phát hành bổ sung. IPO có ý nghĩa rất quan trọng với doanh nghiệp,
vì với bất kì doanh nghiệp nào đây cũng là thử thách đầu tiên và quan trọng nhất đối với

hàng loạt khía cạnh vận hành. Nguyên nhân của thử thách này là doanh nghiệp trước khi
được phép huy động vốn rộng rãi phải bảo đảm hàng loạt các điều kiện phát hành ngặt
ngèo và quy chế báo cáo thông tin rất nghiêm ngặt.
Việc phát hành IPO phải gắn liền với việc cổ phiếu này sẽ phải được giao dịch trên sàn
giao dịch chứng khốn. Khi đó đối tượng các nhà đầu tư sẽ rất rộng. Họ sẽ mua cổ
phiếu với nhiều mục đích khác nhau: đầu tư,đầu cơ,ăn chênh lệch giá…
Về mặt thủ tục tiến trình IPO thường liên quan đến một hoặc một số cơng ty tài chính
đặc biệt gọi là Ngân hàng đầu tư mà ở Việt Nam vẫn gọi là các Cơng ty chứng khốn.
Những trung gian tài chính này làm nhiệm vụ cung cấp dịch vụ và bảo lãnh phát hành.
Công ty tiến hành bán cổ phần IPO được gọi là ” nhà phát hành”.
Phát hành IPO có các đặc điểm sau: Chứng khốn phát hành là những chứng khốn có
chất lượng cao,cơng ty phát hành là những cơng ty có triển vọng phát triển trong tương
lai.
2


1.2 Lí do dẫn đến IPO
Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khốn, các cơng ty có thể huy động
được nhanh và nhiều vốn thông qua việc tiến hành IPO trên thị trường chứng khoán. Cổ
phiếu của cơng ty cũng có thể đạt được tính thanh khoản rất cao và các giá trị gia tăng
về giá sau khi IPO đồng thời doanh nghiệp cũng dễ dàng và tốn ít chi phí hơn trong việc
huy động vốn qua việc phát hành cổ phiếu,trái phiếu. Đó là một trong những lý do chính
khiến các doanh nghiệp tiến hành IPO.
Nếu tiến hành IPO thành cơng, doanh nghiệp vừa có thể huy động được vốn để phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh, lại vừa có thể quảng bá, khuếch trương hình ảnh, tên
tuổi của mình một cách rộng rãi hơn trong giới đầu tư. Điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải hết sức thận trọng trong mỗi đợt phát hành cổ phiếu, đặc biệt là IPO. IPO
đối với các doanh nghiệp thường đã quan trọng như vậy thì đối với các doanh nghiệp
lớn, nó cịn quan trọn hơn rất nhiều vì kết quả của nó khơng những ảnh hưởng tới bản
thân doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới cả thị trường.

1.3. Vai trị
a. Đối với thị trường chứng khốn
Xét tổng thể đầu tư chứng khoán là một kênh đầu tư và giá trị đầu tư qua kênh này vẫn
còn qua nhỏ so với số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng. Vì vậy các đợt IPO thành
cơng sẽ có tác dụng thúc đẩy các nhà đầu tư đến với thị trường chứng khốn qua đó làm
tăng thêm quy mơ và khối lượng giao dịch và thu hút thêm luồng tiền lớn vào thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên trong ngắn hạn cũng không loại trừ khả năng một nguồn vốn
tương đối lớn sẽ bị rút ra khỏi thị trường để đưa vào đấu giá.
Với sự tham gia nhiệt tình của các đối tác ngoại, dự kiến mức giá bán cho các nhà đầu
tư chiến lược nước ngoài dù là “hợp lí nhất” căn cứ vào khả năng đóng góp cho sự phát
triển của các doanh nghiệp IPO trong tương lai cũng sẽ rất cao,qua đó thu hút được một
nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào với thị trường chứng khoán trong nước.
Giữa sự kiện IPO của một doanh nghiệp với thị trường chứng khốn có tác động “tương
tác” lẫn nhau. Sự sôi động hay trầm lắng của thị trường những ngày gắn với ngày đấu
giá sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp, ngược lại kết quả đấu giá của
doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến giá cổ phiếu khác trên thị trường.
Việc xác định mức giá đấu thành công tốt đối với doanh nghiệp cũng sẽ khiến thị trường
định giá lại các cổ phiếu đang niêm yết lẫn OTC,trong đó đặc biệt là các cổ phiếu cùng
ngành. Ngồi ra nó cịn góp phần “ tăng nhiệt” cho thị trường nói chung.
b.Đối với doanh nghiệp
- Việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp cho doanh nghiệp huy động vốn khi thành lập hoặc
mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này khơng hình thành một khoản nợ mà
3


doanh nghiệp phải có trách nhiệm hồn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh
toán của doanh nghiệp giảm đi rất nhiều,trong khi sử dụng các phương thức khác như
phát hành trái phiếu của công ty,vay nợ từ các tổ chức tín dụng…thì hồn tồn ngược
lại.
- Tuy nhiên mỗi phương thức huy động vốn đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà

quản lý doanh nghiệp phải cân nhắc lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc
thù cũng như chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp để áp dụng phương thức phù
hợp.
c.Đối với nhà đầu tư cổ phiếu
-Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua cổ phiếu được các công ty phát hành. Giấy
chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có giá và được xác
định thơng qua việc chuyển dịch,mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các
chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ.
-Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý
công ty sử dụng có hiệu quả,tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như
tiềm năng phát triển,sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao,và đương nhiên là họ sẽ
được hưởng một phần từ những thành quả đó thơng qua việc thanh tốn cổ tức cho các
cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển
vọng phát triển của cơng ty mình đã chọn.
2. Điều kiện phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng
Theo điều 12 của bộ luật Chứng khoán được Quốc hội thơng qua vào ngày 29/6/2006
thì điều kiện để chào bán chứng khốn lần đầu ra cơng chúng gồm có:
-Đối với cổ phiếu:
+ Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ
đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
+Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời
khơng có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán
+Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được
Đại hội đồng cổ đơng thơng qua.
-Đối với trái phiếu:
+Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ
đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế tốn
+Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời
khơng có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, khơng có các khoản nợ phải trả quá
hạn trên một năm

+ Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán
được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua.
4


+Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện
phát hành, thanh tốn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều
kiện khác.
Nói một cách cụ thể, tiêu chuẩn mà công ty phải đáp ứng trước khi được phép phát hành
chứng khốn ra cơng chúng được chia làm 2 nhóm tiêu chuẩn bao gồm các nhóm tiêu
chuẩn định lượng và nhóm tiêu chuẩn định tính:
*Các chỉ tiêu định lượng:
+Cơng ty phải có một quy mơ nhất định
+Cơng ty phải hoạt động có hiệu quả trong một số năm liên tục trước khi xin phép phát
hành chứng khốn ra cơng chúng.
+Tổng giá trị của đợt phát hành phải đạt được một quy mô nhất định.
+Một tỷ lệ nhất định của đợt phát hành phải được bán cho một lượng quy định những
công chúng đầu tư.
+Các thành viên sáng lập của công ty phải cam kết nắm giữ một tỷ lệ nhất định vốn cổ
phần của công ty trong một khoảng thời gian quy định.
*Các chỉ tiêu định tính:
+Các nhà quản lý cơng ty bao gồm thành viên ban giám đốc điều hành và hội đồng quản
trị phải có kinh nghiệm và trình độ quản lý công ty.
+Cơ cấu tổ chức của công ty phải hợp lý và phải vì lợi ích của các nhà đầu tư. Có nghĩa
là cơ cấu của cơng ty phải hạn chế ở mức độ cao nhất những xung đột liên quan đến
quyền lợi của các bên liên quan,xung đột giữa chủ sở hữu và nhà quản lí...
+Các báo cáo tài chính,báo cáo bạch và các tài liệu cung cấp thơng tin của cơng ty phải
có độ tin cậy cao nhất. Điều này có nghĩa là các báo cáo tài chính của cơng ty phải được
kiểm tốn bởi các tổ chức kiểm tốn có uy tín. Các tài liệu khác phải được lập theo đúng
quy định,ngơn từ và các kí hiệu trong tài liệu phải rõ ràng và phải được lập hay thẩm tra

của các tổ chức theo quy định.
+Công ty phải có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành.
Công ty phải được một hoặc một số tổ chức đứng ra cam kết bảo lãnh cho đợt phát hành
Việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của các công ty thường phải đáp
ứng các yêu cầu tiêu chuẩn cao của các cơ quan quản lý thị trường chứng khốn và phải
hồn thành các thủ tục khá phức tạp trước và sau khi phát hành chứng khốn ra cơng
chúng. Ngun nhân khiến các cơ quan quản lý đặt ra yêu cầu cao cho việc phát hành
IPO là:
-Phát hành chứng khoán lần đầu ra cơng chúng là việc phát hành chứng khốn cho một
số lượng lớn công chúng đầu tư. Nhiều người trong số đó là các nhà đầu tư nhỏ các nhà
đầu tư khơng có sự hiểu biết và khả năng phân tích cao về chứng khốn. Để bảo vệ các

5


nhà đầu tư này các chứng khoán phát hành phải là các chứng khốn có chất lượng cao
và các cơng ty phát hành phải là các cơng ty có triển vọng phát triển trong tương lai.
-Do các công ty nêu trên là các công ty lần đầu phát hành ra công chúng nên các thông
tin liên quan đến công ty không được nhiều người biết đến. Các chuyên gia phân tích
cũng khơng có điều kiện theo dõi các cơng ty này trước khi các công ty thực hiên việc
phát hành. Việc đưa ra yêu cầu cao về chất lượng đối với các công ty lần đầu phát hành
ra công chúng là để bù đắp những sự thiếu hụt về thông tin cho công chúng.
-Ở các nước đnag trong giai đoạn xây dựng thị trường chứng khoán như Việt Nam, thị
trường chứng khốn cịn là khái niệm mới mẻ nên nhiều tầng lớp dân cư còn dè dặt
trong việc chọn thị trường chứng khoán là nơi đầu tư các khoản tiết kiệm của mình.
Việc đưa ra các loại hàng hóa có chất lượng cao sẽ bước đầu tạo dựng được niềm tin
cho cơng chúng vào thị trường chứng khốn và đây cũng được coi là một trong những
biện pháp kích cầu chứng khoán trong giai đoạn đầu thành lập thị trường.
3. Quy trình thực hiện IPO
a. Quy trình thực hiện

Thơng thường việc phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng được thực hiện theo
các bước sau:
-Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ đơng về việc phát
hành chứng khốn ra cơng chúng, đồng thời thống nhất mục đích huy động vốn, số
lượng vốn cần huy động, chủng loại và số lượng chứng khoán cần phát hành, cơ cấu
vốn phát hành dự định phân phối cho các đối tượng: hội đồng quản trị, cổ đông hiện tại,
người lao động trong các doanh nghiệp, người bên ngoài doanh nghiệp, người nước
ngoài...
-Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc xin phép phát hành
chứng khốn ra cơng chúng. Chức năng chủ yếu của ban chuẩn bị là chuẩn bị các hồ sơ
xin phép phát hành để nộp lên cơ quan quản lí nhà nước về chứng khốn và thị trường
chứng khoán, lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành( nếu cần), cơng ty kiểm tốn, tổ chức
tư vẫn và cùng với các tổ chức này xây dựng phương án phát hành và dự thảo bản báo
cáo bạch để cung cấp cho các nhà đầu tư.
-Ban chuẩn bị lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành( đối với cơng ty có số vốn lớn thì
phải lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và tổ hợp hoạt động trên cơ sở hợp đồng giữa các tổ
chức phát hành). Tổ chức bảo lãnh phát hành với uy tín và mạng lưới rộng lớn của mình
sẽ giúp cho việc phân phối chứng khốn của tổ chức phát hành diễn ra một cách sn sẻ.
Chính vì vậy khi tiến hành phát hành chứng khốn ra cơng chúng thì việc lựa chọn tổ

6


chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa quan trọng và mang tính chất quyết định đến sự
thành bại của đợt phát hành.
-Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, cơng ty kiểm tốn, tổ chức tư vấn
tiến hành định giá chứng khoán phát hành. Định giá chứng khốn là khâu khó khăn nhất
và phức tạp nhất khi tiến hành phát hành chứng khốn ra cơng chúng. Nếu định giá
chúng khốn q cao thì sẽ gặp khó khăn trong việc bán chứng khoán, nếu định giá
chứng khoán quá thấp thì sẽ gây thiệt hại cho tổ chức phát hành. Vì thế việc định giá

chứng khốn một cách hợp lí sao cho người mua và người bán đều chấp nhận được là
hết sức quan trong và cần sự phối hợp của tổ chức bảo lãnh, công ty kiểm tốn và tổ
chức tư vấn của cơng ty.
- Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với
tổ chức phát hành.
- Cơng ty kiểm tốn xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin phép phát hành.
-Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên Ủy ban chứng khốn. Thơng thường tổ chức phát
hành sẽ được trả lời việc cấp hay từ chối cấp giấy phép trong một thời gian nhất định kể
từ ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành đầy đủ và hợp lệ. Trong thời gian chờ Ủy ban
chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ, tổ chức phát hành có thể sử dụng nội dung trong
bản báo cáo bạch sơ bộ để thăm dò thị trường.
-Sau khi được cấp phép phát hành tổ chức phát hành phải ra thông báo phát hành trên
các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời công bố ra công chúng bản báo cáo bạch
chính thức và việc thực hiện phân phối chứng khoán trong một thời gian nhất định kể từ
khi được cấp giấy phép. Thời hạn phân phối được quy định khác nhau đối với mỗi
nước. Ở Việt Nam theo quy định tại Nghị định 48/ Chính phủ về chứng khốn và thị
trường chứng khốn thì thời hạn là 90 ngày, trong trường hợp xét thấy hợp lí và cần
thiết, Ủy ban chứng khốn nhà nước có thể gia hạn thêm.
-Tiến hành đăng kí, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán chứng khoán sau khi kết thúc
đợt phân phối chứng khốn.
-Sau khi hồn thành đợt phân phối chứng khốn tổ chức phát hành cùng với tổ chức bảo
lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt phát hành cho Ủy ban chứng khốn và tiến hành
đăng kí vốn với cơ quan có thẩm quyền.
-Trường hợp tổ chức phát hành có đủ điều kiện niêm yết thì có thể làm đơn xin niêm yết
gửi lên Ủy ban chứng khoán và Sở giao dịch chứng khốn nơi cơng ty niêm yết
b.Các cách thức chào bán của IPO
Việc IPO có nhiều cách thức để tiến hành. Các dạng có thể thấy là:
-Đấu giá kiểu Hà Lan
-Bảo lãnh cam kết
-Dịch vụ với trách nhiệm cao nhất

7


-Mua buôn để chào bán lại
-Tự phát hành
Do lượng thủ tục pháp lý và chế tài khá chặt chẽ và rắc rối, mỗi vụ IPO thường cần một
vài công ty luật hỗ trợ. IPO có thể bao gồm một phần trong đó việc cổ đơng hiện tại
chuyển nhượng quyền sở hữu với số cổ phiếu hiện tại theo cách ta goi là giao dịch thứ
cấp, mặc dù vai trò được nhấn mạnh chủ yếu của IPO là phát hành mới và lần đầu ra
công chúng để huy động một lượng vốn góp đáng kể. Tuy nhiên, theo thơng lệ thế giới
cả luật pháp chứng khoán lẫn qui ước của các công ty bảo lãnh phát hành đều hạn chế
chức năng chuyển nhượng lượng cổ phần hiện hành theo phương thức giao dịch thứ cấp.
IPO thường được bán cho các nhà đầu tư tổ chức, với qui mô lớn và cũng dành ra một
tỷ lệ nhỏ cổ phần bán cho các khách hàng cá nhân quan trọng do công ty bảo lãnh đứng
ra dàn xếp. Ở các thị trường đã phát triển, nhà phát hành thường thả lỏng một điều
khoản cho phép nhà bão lãnh có thể tự ý tăng qui mô phát hành IPO lên tới 15% so với
dự kiến theo kế hoạch đã thống nhất để linh hoạt phản ứng trước nhu cầu thị trường, gọi
là phương án greenshoe. Greenshoe là điều khoản được nhất trí thực thi khi nhu cầu thị
trường tăng quá cao, đẩy giá lên, thì việc phát hành thêm tối đa 15% giúp bình ổn giá.
Đơi lúc nhà phát hành khơng đồng ý vì họ khơng có kế hoạch sử dụng số tiền do tăng
thêm lượng cổ phần bán ra.
c. Quy trình đấu giá khi thực hiện IPO
Có 3 phương thức tổ chức đấu giá: căn cứ vào giá trị cổ phần bán đấu giá và quyết định
của Ban chỉ đạo cổ phần hóa.
- Tại doanh nghiệp
- Tại tổ chức tài chính trung gian (Cơng ty chứng khoán)
- Tại Trung tâm giao dịch chứng khoán/Sở giao dịch chứng khoán
Bước 1: Chuẩn bị đấu giá
- Cơ quan quyết định cổ phần hóa/Ban chỉ đạo cổ phần hóa xác định giá khởi điểm của
cổ phần đấu giá.

- Công bố thông tin về doanh nghiệp chuẩn bị tổ chức đấu giá tối thiểu 20 ngày trước
ngày tổ chức đấu giá.
- Phối hợp với cơ quan tổ chức đấu giá thuyết trình về doanh nghiệp cho nhà đầu tư nếu
cần.
Bước 2: Thực hiện đấu giá
- Cơ quan tổ chức đấu giá tiến hành nhận đơn đăng ký mua và tiền đặt cọc của nhà đầu
tư theo quy chế đấu giá.
- Nhà đầu tư bỏ phiếu tham dự đấu giá bằng các hình thức: Bỏ phiếu trực tiếp tại doanh
nghiệp (nếu tổ chức đấu giá tại doanh nghiệp); Bỏ phiếu trực tiếp tại tổ chức tài chính
trung gian (nếu tổ chức đấu giá tại tổ chức tài chính trung gian); Bỏ phiếu trực tiếp tại
8


Trung tâm giao dịch chứng khoán/Sở giao dịch chứng khoán và các đại lý được chỉ
định; Bỏ phiếu qua đường bưu điện do cơ quan tổ chức đấu giá quy định.
Bước 3: Tổ chức đấu giá và xác định kết quả đấu giá
- Cơ quan tổ chức đấu giá tiến hành các thủ tục bóc phiếu tham dự đấu giá và nhập các
thông tin vào phần mềm đấu giá.
- Xác định kết quả đấu giá theo nguyên tắc lựa chọn giá đặt mua từ cao xuống thấp đến
khi đủ số lượng cổ phần chào bán. Tại mức giá trúng thầu thấp nhất, với trường hợp các
nhà đầu tư cùng đặt mức giá bằng nhau, nhưng tổng số cổ phần còn lại ít hơn tổng số cổ
phần đăng ký mua thì số cổ phần của từng nhà đầu tư được mua xác định như sau:
Số cổ phần nhà đầu tư được mua = Số cổ phần còn lại x (Số cổ phần từng nhà đầu tư
đăng ký mua/Tổng số cổ phần các nhà đầu tư đăng ký mua)
- Lập các biên bản liên quan đến buổi đấu giá gửi cho cơ quan quyết định cổ phần hóa,
Ban chỉ đạo cổ phần hóa, doanh nghiệp và cơ quan tổ chức đấu giá
- Công bố kết quả đấu giá cổ phần và thu tiền mua cổ phần.
Bước 4: Xử lý các trường hợp vi phạm quy chế đấu giá
- Việc xử lý các trường hợp vi phạm được thực hiện theo quy định của quy chế đấu giá.
- Nhà đầu tư không được nhận tiền đặt cọc nếu vi phạm quy chế đấu giá.

Bước 5: Xử lý đối với số cổ phần không bán hết trong đấu giá nếu có
- Nếu sổ cổ phần nhà đầu tư từ chối mua nhỏ hơn 30% tổng số cổ phần chào bán thì Ban
chỉ đạo cổ phần hóa thực hiện bán tiếp cho các nhà đầu tư đã tham dự đấu giá theo
phương thức thỏa thuận với giá khơng thấp hơn giá đấu thành cơng bình quân của cuộc
đấu giá.
- Nếu số lượng cổ phần nhà đầu tư trúng thầu từ chối mua từ 30% tổng số cổ phần chào
bán trở lên thì Ban chỉ đạo cổ phần hóa xem xét, quyết định tổ chức bán đấu giá tiếp số
cổ phần từ chối mua (đấu giá lần 2). Giá khởi điểm trong trường hợp đấu giá lần 2 này
không được thấp hơn giá đấu thành công thấp nhất.
4. Những thuận lợi và rủi ro của việc phát hành IPO
a.Thuận lợi
-Phát hành chứng khốn ra cơng chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng củacông
ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua
phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách hàng và nhà cung
ứng của cơng ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy cơng ty sẽ rất
có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
-Phát hành chứng khốn ra cơng chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản rịng, giúp cơng ty có
được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như
các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ phiếu của các
công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các khoản vay ngân
9


hàng. Ngồi ra, việc phát hành chứng khốn ra cơng chúng cũng giúp công ty trở thành
một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các cơng ty nước ngồi với tư cách làm đối tác
liên doanh.
-Phát hành chứng khoán ra cơng chúng giúp cơng ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ
nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khốn ra cơng chúng, cơng ty bao giờ cũng
dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua
cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên vốn thay

vì thu nhập thơng thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu
quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình.
-Phát hành chứng khốn ra cơng chúng, cơng ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống
quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng.
Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra được tính
liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị không trực
tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối trong quản lý
và điều hành cơng ty.
-Phát hành chứng khốn ra cơng chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các
báo cáo của cơng ty bởi vì các báo cáo của cơng ty phải được lập theo các tiêu chuẩn
chung do cơ quan quản lý qui định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh
kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.
b. Rủi Ro:
-Phát hành cổ phiếu ra công chúng làm phân tán quyền sở hữu và có thể làm mất quyền
kiểm sốt cơng ty của các cổ đơng sáng lập do hoạt động thơn tín cơng ty. Bên cạnh đó,
cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động do chịu ảnh hưởng của các
giao dịch cổ phiếu hàng ngày.
-Chi phí phát hành chứng khốn ra cơng chúng cao, thường chiếm từ 8-10% khoản vốn
huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi phí in ấn,
phí kiểm tốn, chi phí niêm yết… Ngồi ra, hàng năm cơng ty cũng phải chịu thêm các
khoản chi phí phụ như chi phí kiểm tốn các báo cáo tài chính, chi phí cho việc chuẩn
bị tài liệu nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng khốn và chi phí cơng bố thơng
tin định kỳ.
-Cơng ty phát hành chứng khốn ra cơng chúng phải tuân thủ một chế độ công bố thông
tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty khác. Hơn
nữa, việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí cạnh tranh, phương thức

10



hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu, cũng như nguy cơ bị rị rỉ thơng tin mật ra ngồi
có thể đưa cơng ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi.
-Đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước cơng chúng.
Ngồi ra, do qui định của pháp luật, việc chuyển nhượng vốn cổ phần của họ thường bị
hạn chế

11


Chương II: Thực trạng phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của các
doanh nghiệp Việt Nam
Sự cần thiết IPO trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khốn Việt Nam trong thời gian qua có bước phát triển, đã và đang
trở thành kênh huy động vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế. Với hơn 60 cơng ty chứng
khốn, hơn 20 cơng ty quản lý quỹ và hơn 200 công ty niêm yết năm 2007 đã đánh giấu
1 năm thị trường chứng khoán phát triển mạnh cả về quy mơ và chất lượng. Nhìn chung
thị trường vốn đã hình thành các yếu tố cho sự phát triển, nhưng chưa thực sự vững
chắc còn hàm chứa nhiều rủi ro. Vấn đề quan trọng hiện nay là cần có chính sách và
giải pháp để thị trường này tiếp tục phát triển bền vững.
Sự thành cơng của tiến trình cải cách DNNN đang phụ thuộc vào các đợt IPO. Trì hỗn
IPO càng làm chậm tiến trình đổi mới, cải cách kinh tế, thiệt hại khơng thể ước tính
được.
Ngồi ra để IPO mỗi doanh nghiệp phải lập kế hoạch trong một thời gian dài như tiến
hành đinh giá tài sản doanh nghiệp, th các cơng ty kiểm tốn nước ngồi thực hiện
kiểm toán theo các chuẩn mực quốc tế, mời các tổ chức nước ngồi làm cố vấn. Cổ
phần hóa bị trì hỗn phát sinh thêm nhiều chi phí về hình thức là các doanh nghiệp gánh
chịu nhưng về bản chất Nhà nước chịu với vai trò là chủ sở hữu. Chậm trễ cổ phần hóa
một doanh nghiệp cũng tạo ra tiền lệ xấu cho doanh nghiệp đi sau, khiến tiến trình cổ
phần hóa khó có thể hồn thành như kế hoạch.
Mặt khác, vào thời điểm khi Việt Nam gia nhập WTO ,đã có những cam kết về cải cách

doanh nghiệp nhà nước, cải thiên môi trường đầu tư. Các cam kết đã có lộ trình từng
bước, chậm một khâu phá vỡ cả hệ thống, làm mất niềm tin của nhà đầu tư nước ngồi.
Mất uy tín với quốc tế, thiệt hại sẽ rất khó lường. Ở thời điểm này hơn hết các doanh
nghiệp hiểu rõ áp lực cạnh tranh đang lớn dần, nhất là khi các cam kết mở cửa theo lộ
trình hội nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) đang gần kề. Việc IPO thời điểm
này để nhanh chóng nắm lợi thế về thời gian chuẩn bị cho khả năng đối trọng của mình.
Đó là sự chờ đợi lớn. Về kì vọng chung, cả cơ quan quản lí, nhà đầu tư và doanh nghiệp
đều tin tưởng ở khả năng vươn xa hơn và phát triển sâu hơn của thị trường chứng
khốn. Niềm tin đó có ở tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, ở vị thế Việt Nam
đang lên cao, ở tính ổn định về chính trị - xã hội. Tất nhiên đi cũng với niềm tin đó là
u cầu sự hồn thiện trong cơ chế quản lí để bảo vệ thị trường phát triển bền vững và
công bằng.
12


1.Thực trạng năm 2006,2007,2008,2009,2010,2011
Từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam thành lập (năm 2000)cho đến năm
2004,thị trường chứng khoán phát triển với tốc độ khá chậm, trung bình
khoảng vài công ty mới IPO mỗi năm. Những bước phát triển mạnh mẽ của
thị trường chỉ bắt đầu từ 9/2005 khitốc độ IPO của thị trường được đẩy lên một
cách mạnh mẽ. Nếu so sánh tốc độ phát triểnthị trường chứng khốn Việt Nam từ trước
và sau thời điểm 2004 thì ta sẽ nhận thấy IPO đã đem lại sức tăng trưởng cho thị trường
nhanh và mạnh thế nào.
Với việc thị trường chứng khốn tăng trưởng nóng năm 2006 và 2007, IPO của các
doanh nghiệp diễn ra rất thuận lợi, khi đó hầu hết các doanh nghiệp tiến hành IPO đều
thành công. Các doanh nghiệp khi IPO chỉ chú trọng đến việc làm thế nào để bán được
với giá cao nhất, cịn nhà đầu tư chỉ cần mua là có lợi nhuận. Cuối năm 2006, liên tiếp
các công ty đấu giá cổ phiếu lần đầu với lượng cổ phiếu tương đối lớn. Chỉ riêng trong
tháng 11/2006, một số công ty đã hồn thành IPO. Ví dụ như cơng ty cổ phần khu công
nghiệp Tân Tạo – Itaco với 45 triệu cổ phiếu, công ty cổ phần Cát Lợi với 8,4 triệu cổ

phiếu..v.v. Tổng số doanh nghiệp thực hiện IPO năm 2006 đạt hơn 40 doanh nghiệp và
đã tổ chức đấu giá gần 451 triệu cổ phần.
Nối tiếp sự thành công của năm 2006, bước vào năm 2007 hầu hết các công ty IPO đều
rất thành công, thu được một lượng vốn lớn. Với sự tăng trưởng trở lại của Vn-index,
hàng loạt các quyết định IPO được đưa ra: Các công ty nhà nước được đẩy mạnh q
trình cổ phần hóa theo chỉ thị của Chính phủ, các cơng ty cổ phần tư nhân cũng thi nhau
lên sàn, các công ty đã niêm yết hoặc mới đang ở thị trường OTC thì đua nhau tăng
vốn. Năm 2007 được kì vọng sẽ đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, nhiều ông lớn được giới đầu tư quan tâm IPO như:
Vietcombank, Mobiphone, Bảo Việt, BIDV, Đạm Phú Mĩ,… Đặc biệt hơn đó là, nhiều
cơng ty IPO cổ phiếu được các nhà đầu tư đưa ra những mức giá cao ngất ngưởng so
với giá khởi điểm. Điển hình, cổ phiếu của công ty nhiệt điện Phả Lại được đấu giá với
mức giá cao nhất lên tới 50 triệu đồng/cổ phiếu, đưa mức giá trung bình lên 69.710
đồng/cổ phiếu trong khi giá khởi điểm chỉ là 43.000 đồng/cổ phiếu.Tuy nhiên, về nửa
cuối năm 2007, mức đấu giá bình quân của các đợt IPO chỉ nhỉnh hơn mức giá khởi
điểm một chút. Điều này khiến số tiền thặng dư phát hành của doanh nghiệp không cao
như dự kiến. Và vào năm 2007. số lươ ̣ng doanh nghiêp cổ phầ n hóa là 116 trong khi dư ̣
̣
kiế n là 600.
13


Năm 2008 có thể đánh giá là một năm của IPO với rất nhiều kế hoạch IPO lớn đã được
vạch sắn từ năm 2007 như: tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Hà Nội-Habeco,
tổng cơng ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gịn-Sabeco. Tiếp theo Habeco, Sabeco là
hàng loạt các công ty lớn khác cũng dự tính tiến hành IPO năm 2008 như Mobifone,
Vinafone, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng như Incombank, Agribank, BIDV.... Dự
tính thì nhiều nhưng diễn biến bất ngờ từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã tác
động đáng kể đến Việt Nam. Thị trường niêm yết và OTC đều xuống dốc không phanh
khiến cho kế hoạch IPO diễn ra không như mong muốn của các nhà hoạch định thị

trường, mặc dù chất lượng cổ phiếu của các đợt IPO là khá tốt. nửa đầ u năm 2008,khá
nhiề u đơ ̣t IPO đươ ̣c ví như phiên chơ ̣ chiề u dù giá khởi điể m khá thấ p, thâ ̣m chí có cổ
phầ n giá còn thấ p hơn giá tri ̣ sổ sách nhưng vẫn it nhà đầ u tư tham gia đấ u giá.không
́
chỉ phải đấ u giá la ̣i vì còn có nhiề u phiên IPO phải hủy bỏ vì không có người tham gia
đấ u giá. Điều này cho thấy tâm lý các nhà đầu tư khơng cịn ưa chuộng hàng hóa IPO
nữa. Nế u như 2006 và 2007 thì doanh nghiêp phát hành IPO chỉ chú tro ̣ng làm thế nào
̣
bán giá cao nhấ t, còn nhà đầ u tư mua là có lơ ̣i nhuâ ̣n thì tới giai đoa ̣n này để có thể IPO
thành cơng , doanh nghiệp phải chứng minh được tiềm năng tăng trưởng cao, năng lực
quản trị của doanh nghiệp tốt, sản phẩm dịch vụ có chỗ đứng trên thị trường, thơng tin
cơng bố phải chính xác, minh bạch, đặc biệt là mức giá khởi điểm phải hợp lý để hấp
dẫn nhà đầu tư trong mối tương quan với giá cổ phiếu của các doanh nghiệp đã niêm
yết trên thị trường. Cả năm 2008 có 50 công ty tiến hành IPO, đấu giá trên 2 sàn HOSE
và HASTC. Ba cơng ty có số lượng cổ phiếu lớn nhất mang ra đấu giá là Sabeco,
Habeco và Vietinbank. Tổng cộng có tất cả 385.418.192 cổ phiếu phát hành ra cơng
chúng nhưng chỉ có 230.985.944 cổ phiếu được nhà đầu tư mua tương ứng với tỷ lệ
60%. Tổng số tiền IPO thu được năm 2008 đạt 9.870 tỷ đồng.
Bước sang năm 2009, thị trường chứng khoán khởi sắc nhưng các hoạt động IPO vẫn
trong cảnh chợ chiều. Cả năm 2009 chỉ có hơn 30 doanh nghiệp thực hiện IPO thơng
qua hai sở giao dịch chứng khốn. Hoạt động IPO những tháng đầu năm 2009 còn thua
cả năm 2008 là năm thị trường chứng khốn gặp khó khăn. Gần hết quý III nhưng
HOSE chỉ tổ chức IPO cho sáu doanh nghiệp, thấp hơn nhiều so với con số mười sáu
doanh nghiệp thực hiện IPO năm trước. Số lượng các doanh nghiệp thực hiện IPO trên
HNX có cao hơn đơi chút với mười một doanh nghiệp nhưng cũng chỉ bằng một phần
14


ba so với cùng kì năm trước. Trừ một vài doanh nghiệp như công ty gang thép Thái
Nguyên, công ty supe và hóa chất Lâm Thao đã bán hết cổ phần, các doanh nghiệp còn

lại đều chịu cảnh “mang đến lại mang về”. Như công ty Cổ phần Bến bãi Sài Gịn chỉ
bán được 22000/ 600000 cổ phần, cơng ty Dây và cáp điện Việt Nam (Cadivi) bán được
hơn 50000/ 2,4 triệu cổ phần, công ty TNHH một thành viên nước sach Sài Gòn bán
được 45000/ 1,6 triệu cổ phần chào bán, công ty Nông sản thưc phẩm xuất khẩu Cần
Thơ bán được 39000/ 10,3 triệu cổ phần. Như công ty giao nhận kho vận tải ngoại
thương TP.HCM tổ chức đấu giá đến lần thứ hai cũng chỉ bán được chưa đến một triệu
cổ phiếu trong tổng số mười hai phẩy bẩy triệu cổ phiếu đưa ra đấu giá, hay cơng ty du
lịch Bình Thuận phải đấu giá tới 4 lần để hồn tất IPO. Có doanh nghiệp phải hủy đấu
giá vì có ít, thậm chí khơng có nhà đầu tư tham gia như công ty du lịch Tà Cú. Theo
một số chuyên gia, các đợt IPO không thành công hoặc giá bán cổ phần quá thấp,
phương tính giá IPO của nhiều doanh nghiệp có vấn đề, các doanh nghiệp khác khơng
triển khai cổ phần hóa vào thời điểm này càng làm cho hàng hóa đưa ra đấu giá khơng
đa dạng, dẫn đến không hấp dẫn nhà đầu tư; cơ chế IPO và bán cho các nhà đầu tư còn
bất hợp lí. Thực tế các đợt IPO trong giai đoạn này thiếu vắng các doanh nghiệp lớn,
các thương hiệu mạnh để thu hút nhà đầu tư.
Năm 2010 là năm triển vọng nền kinh tế hồi phục. Theo số liệu thống kê của vụ quản lý
phát hành, UBCKNN tổng giá trị chứng khốn phát hành ra cơng chúng sáu tháng đầu
năm 2010 đã gần bằng giá trị phát hành cả năm 2009. Có được điều này là do năm 2009
có nhiều doanh nghiệp có kế hoạch IPO nhưng đã hỗn lại đến năm 2010 với hy vọng
nền kinh tế hồi phục có thể giúp cho hoạt động IPO của doanh nghiệp đạt kết quả cao
hơn. Tuy nhiên, việc tăng cung cổ phiếu bất ngờ trong hai quý đầu năm 2010 và tiếp tục
sang quý III, kết hợp thêm một số yếu tố vĩ mơ bất lợi khiến thị trường chứng khốn
lình xình trong suốt tám tháng đầu năm và bất ngờ sụt giảm mạnh trong những tháng
cuối năm cũng làm cho các thương vụ IPO tiếp theo của các doanh nghiệp trong năm
không được thành công. Các cuộc đấu giá cổ phần ở quý IV không thu hút được nhà
đầu tư do giá khá cao. Từ đầu tháng mười cuối năm đã có hơn mười doanh nghiệp đăng
ký đấu giá cổ phiếu trên HOSE nhưng rất ít doanh nghiệp thu hút được đơng nhà đầu tư
tham gia. Trong đó chỉ một đến hai đơn vị bán hết được cổ phiếu. Giữa tháng mười một,
tổng cơng ty khí VN (PVGas) đã đưa ra đấu giá hơn 95 triệu cổ phiếu. Mặc dù chỉ bán
được hơn 60 triệu cổ phiếu với mức giá khởi điểm là 31.000 đồng/cổ phiếu, nhưng cũng

15


đã được coi là thành công, thu hút được 1900 tỷ đồng của thị trường. Nguyên nhân của
các cuộc đấu giá chật vật này là vì nhà tư vấn cũng như doanh nghiệp đã dự đốn thị
trường cuối năm sơi động, thuận lợi cho việc đấu giá. Hàng loạt công ty đại chúng đã
được Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM hủy đấu giá với lý do khơng có nhà đầu tư
nào tham gia đăng ký khi đã kết thúc thời hạn đăng ký tham gia đấu giá và nộp tiền cọc
mua cổ phần. Theo Quy chế bán đấu giá cổ phần củacông ty, như vậy không đủ điều
kiện để tổ chức đấu giá nên cuộc đấu giá được coi làkhông thành. Các công ty bị hủy
đấu giá gồm: Công ty cổ phần Bến xe khách nội tỉnhKontum, Công ty cổ phần Cấp
thốt nước Bình Thuận, Cơng ty cổ phần Du lịch núi Tà Cú và Công ty cổ phần Vật tư
Nơng nghiệp Tiền Giang. Trong số này có Cơng ty cổ phần Du lịch núi Tà Cú được tổ
chức IPO nhiều lần cách nay mấy năm nhưng đến nay vẫn khơng thành cơng.Trong tình
hình nhà đầu tư rất dè dặt mua cổ phiếu niêm yết trên sàn, quyết định mua cổ phiếu IPO
càng được cân nhắc hơn nữa. Trước đây, khi mua cổ phiếu IPO, nhà đầu tư chờ cổ
phiếu lên sàn để hưởng chênh lệch giá. Còn thời gian qua, có rất nhiều cổ phiếu IPO
xong rồi nhưng chờ mãi không thấy lên sàn, giá đứng yên một mức trong vòng một
nămcoi như lỗ. Thực trạng cổ phiếu đấu giá bị ế ẩm thời điểm này cho thấy kết quả dự
đoán thị trường của các doanh nghiệp cũng như đơn vị tư vấn đấu giá khơng được chính
xác.
Năm 2011, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và thi trường chứng khoán liên tục sụt
giảm, dẫn đến hoạt động IPO của các doanh nghiệp diễn ra lặng lẽ hơn bao giờ hết. Hầu
như những doanh nghiêp tham gia phát hành lần đầu đều là những doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Mặc dù vậy, theo thống kê vẫn có 13 trên tổng số 21 doanh nghiệp bán được 100%
cổ phần đem đấu giá, chỉ có một số ít doanh nghiệp đã khơng thu hút được các nhà đầu
tư và thất bại hoàn toàn trong việc huy động vốn từ thị trường sơ cấp này. Theo báo cáo
phân tích từ Cơng ty chứng khóan VNDirect, tính từ đầu năm 2011, đã có 21 doanh
nghiệp tham gia IPO với tổng số lượng cổ phần bán được là 139,8 triệu cổ, chiếm
42,7% tổng sổ cổ phần đem ra đấu giá, tương đương với giá trị huy động được là

1.648,5 tỷ đồng. Như vậy, so năm 2010 tổng số vốn huy đông trên chưa bằng một nửa
và tỉ lệ thành công trong năm nay cũng giảm đáng kể. Những diễn biến xấu trên thị
trường chứng khoán từ đầu năm kéo theo rất nhiều cổ phiếu giao dich dưới mệnh giá.
Điều này khiến cho việc bán cổ phần dù giá khởi điểm sát mệnh giá cũng không thu hút
được nhiều sự quan tâm của giới đầu tư. Những người tham gia đấu giá chủ yếu là cán
16


bộ công nhân viên công ty, cổ đông muốn sở hữu cổ phần chiến lược nắm giữ lâu dài và
tin tưởng vào tương lai phát triển của doanh nghiệp. Đáng chú ý, cũng đã có 13 doanh
nghiệp bán được 100% cổ phần đấu giá, trong đó có một vài tổng công ty nhà nước như
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam, Tổng Công ty Thép, Tổng Công ty Miền Trung.
Phần lớn các cuộc đấu giá có giá khởi điểm sát mệnh giá và giá đấu trung bình khơng
chênh nhiều với giá khởi điểm. Vụ IPO có giá trị cao nhất là của Tổng công ty Xăng
dầu Việt Nam với 27,4 triệu cổ phần đem ra đấu giá và đã bán hết 100% cổ phần thu về
được hơn 400 tỷ đồng. Trong đợt đấu giá cổ phiếu của Tổng công ty Thép Việt Nam
(VNSteel) vào hồi tháng 6/ 2011, mặc dù doanh nghiệp này chỉ bán được 59% tổng số
cổ phần chào bán với mức giá 10.100 đồng/cổ phiếu, lượng vốn thu về 395 tỷ đồng
cũng đã là tương đối khả quan trong bối cảnh hiện nay. Nhìn vào cơ cấu trúng giá gồm
18 tổ chức và 293 cá nhân, VNSteel vẫn chứng tỏ sức hấp dẫn với thị trường nhờ mức
giá thấp, phù hợp với tiêu chí đầu tư dài hạn do doanh nghiệp có vốn điều lệ lớn lên tới
6.800 tỷ đồng và chiếm 50% thị phần sản xuất thép. Ngày 28 tháng 7 năm 2011,
petrolimex tổ chức IPO, Kết quả, tổng số cổ phần được bán là 27.425.933 cồ phần (đạt
100% số cổ phần Petrolimex bán ra lần đầu tiên); mức giá cao nhất 19.600 đồng/cổ
phần (với khối lượng đặt mua 10.000 cổ phần), mức giá thấp nhất 15.000 đồng/cổ phần,
mức giá bình quân 15.032 đồng/cổ phần.Dưới sức ép cổ phần hóa theo tiến độ đặt ra,
nhiều doanh nghiệp vẫn buộc phải tiến hành mặc dù giá trúng chỉ bằng hoặc chênh lệch
không đáng kể so với giá khởi điểm. Khi chỉ có 35% trong số 219,6 triệu cổ phần chào
bán được mua với giá khá thấp. Hai trường hợp thành công hiếm hoi là Công ty cổ phần
Lọc dầu Nam Việt (3 triệu cổ phần) và Tổng công ty Xây dựng miền Trung - Cosevco

(23,9 triệu cổ phần) chào bán được 100%. Tuy nhiên, mức giá đấu thầu thành công của
hai doanh nghiệp này cũng chỉ thấp hơn 11.000 đồng/cổ phiếu.
Tại thời điểm này, do khó khăn của thị trường chứng khốn, việc chào bán cổ phần
khơng thuận lợi nhiều với doanh nghiệp muốn thu về thặng dư vốn lớn. Hơn thế nữa,
doanh nghiệp sau khi IPO chịu sức ép lớn của cổ đông về minh bạch thông tin và bị
thúc ép niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khốn. Do tình hình thị trường hiện
vẫn đang xấu, nhiều doanh nghiệp đã phải trì hỗn việc niêm yết cổ phiếu trong một
thời gian dài. Chẳng hạn, Habeco đã IPO 15% vốn điều lệ từ năm 2008 với mức giá
trúng 5x, nhưng lãnh đạo doanh nghiệp này vẫn đang phải khất lần chuyện niêm yết cổ
phiếu với lý do cổ đông nhà nước chưa quyết và giá trị tài sản đất đai chưa được thống
nhất.
17


Trên thực tế, cho dù thị trường niêm yết ảm đảm, các doanh nghiệp tốt vẫn nhận được
sự quan tâm của giới đầu tư. Có điều là mức giá trúng sẽ không quá cao, chênh lệch
không quá 5% so với giá khởi điểm. Đối với Cosevco, giá trúng bình quân là
10.600đ/cổ phần, chỉ nhỉnh hơn chút ít so với mức giá khởi điểm 10.300đ/cổ phần.
Nguyên nhân sâu xa hơn của các vụ IPO thành công trong thời gian gần đây là sự thâu
tóm hoặc gắn kết của cổ đơng nội bộ, các tổ chức liên quan nếu doanh nghiệp có chỗ
đứng trên thị trường và sở hữu nhiều tài sản ngầm. Khơng ai có thể nắm rõ yếu tố sinh
lời này hơn các cổ đông nội bộ, công ty liên kết hay bộ máy điều hành nhiều năm gắn
bó với các doanh nghiệp.
Ví dụ như đợt chào bán 2,63 triệu cổ phần của TCT Địa ốc Sài Gòn tại CTCP Đầu tư
Xây dựng Chánh Phú Hịa. Đây hồn tồn là cuộc chơi của các tổ chức khi duy nhất 5 tổ
chức trúng thầu với tổng giá trị 41,3 tỷ đồng (khơng có cá nhân tham gia). Giờ đây,
những cơ hội sinh lời chớp nhống đã biến mất do chi phí cơ hội tăng cao bởi mặt bằng
lãi suất tăng và TTCK xuống dốc.
Trước khi kết thúc năm 2011, ngân hàng BIDV đã quyết định IPO bất chấp bối cảnh thị
trường không thuận lợi. Theo như lời một lãnh đạo của BIDV đã nói :”Việc quyết định

IPO khi thị trường xấu hay tốt là quyền của Chính phủ”. Và tại Thơng báo số 80 ngày
6/4/2011, Chính phủ đã kết luận là BIDV phải hồn thành cổ phần hóa ngay trong năm
2011 bởi mục tiêu đầu tiên không phải là Nhà nước thu tiền về, mà mục tiêu chính là để
nâng cao quản trị, cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước qua con đường cổ phần hóa
.Và theo thơng tin ban đầu được cơng bố từ Sở Giao dịch Chứng khốn Hà Nội (HNX),
sau khi kết thúc thời gian đăng ký, tổng khối lượng cổ phần đăng ký là 140.875.100 cổ
phần, bằng 166,2% số cổ phần chào bán. Như vậy, đây là đợt IPO với khối lượng chào
bán lớn nhất trong năm 2011 và có số lượng Nhà đầu tư đăng ký lớn thứ 2 tại Việt Nam
từ trước đến nay và là vụ đấu giá cổ phần ngân hàng lớn nhất. Việc IPO của BIDV ở
thời điểm cuối năm 2011 như một tín hiệu mở đường cho nhiều tổng cơng ty lớn nhà
nước cổ phần hóa tiếp theo. Các chuyên gia cho rằng đây có thể là một điểm tích cực về
mặt quy mơ cho thị trường chứng khốn trong năm 2012.
THỐNG KÊ SỐ DOANH NGHIỆP IPO THEO CÁC NĂM

18


Năm

Số DNSố cổ phần đấuSố cổ phần bán% số cổ phầnTổng giá trị cổ phần bán

IPO
2007 124
2008 71
2009 37
2010 40
2011(*) 21

giá
748,355,361

401,752,121
222,086,837
420,735,715
329,914,803

được
676,333,761
232,173,828
154,315,313
224,221,381
139,843,693

bán được
90.4%
57.8%
69.5%
53.3%
42,7%

được
43,805,651,257,900
8,191,536,614,600
1,898,826,432,627
3,976,533,156,200
1,648,548,005,150

(*): Chưa tính IPO của BIDV
Nhìn chung từ năm 2008 đến nay hàng loạt doanh nghiệp lớn đã phải trì hỗn việc cổ
phần hóa do thị trường chứng khốn gặp nhiều khó khăn. Hiện tại, phần lớn cổ phiếu
niêm yết đang "quá rẻ" nên chắc chắn những nhà đầu tư nhỏ lẻ sẽ không mặn mà với

các doanh nghiệp sắp IPO. Hơn nữa, với một số quy định mới của Chính phủ như việc
hạn chế doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại đầu tư tài chính; tín dụng cho
đầu tư chứng khoán bị siết lại dẫn đến dịng vốn vào thị trường chứng khốn bị sụt
giảm mạnh. Ngồi ra, dịng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) đóng vai trị khá lớn đối với thị
trường trước đây thì hiện nay cũng đã chững lại. Sự chậm chạp trong cổ phần hóa cịn
bắt nguồn từ những bất cập về cơ chế chính sách. Cho đến nay, việc định giá các tài sản
khác của doanh nghiệp đang gặp nhiều trở ngại. Phương pháp định giá tài sản doanh
nghiệp theo Nghị định 109 là lấy toàn bộ danh sách tài sản trên báo cáo tài chính của
doanh nghiệp rồi tính từng tài sản đó theo giá thị trường. Tuy nhiên, thực tế phương
pháp này không phản ánh đầy đủ giá trị một cơng ty. Ngồi ra, Bộ Tài chính cũng chưa
có quy định cụ thể trong việc tính giá trị quyền sử dụng đất đối với doanh nghiệp nhà
nước. Các giá trị vơ hình khác như thương hiệu, vị thế độc quyền cũng thường chưa
được định giá. Một rào cản lớn khác đối với q trình cổ phần hóa là do Nhà nước
"ngại" bán tài sản quốc gia với giá rẻ. Lo ngại này là có cơ sở khi hiện trên thị trường
niêm yết có đến hơn 70% cổ phiếu đang được giao dịch dưới giá trị sổ sách. Thực tế,
giá cổ phiếu của các doanh nghiệp được IPO trong thời gian qua cũng được bán ở mức
rất thấp. Vẫn cần đẩy nhanh q trình cổ phần hóa Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, việc cổ phần hóa theo lộ trình vẫn hết
sức cần thiết. Đây là một bước quan trọng trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Hiện
nay, phần lớn doanh nghiệp nhà nước vẫn bị đánh giá là hoạt động kém hiệu quả, kém
minh bạch, quản trị yếu và thiếu vốn. Do vậy, cổ phần hóa những doanh nghiệp này là
19


lời giải hữu hiệu để khắc phục những điểm yếu này. Cổ phần hóa sẽ giúp những doanh
nghiệp huy động thêm vốn, tìm đối tác chiến lược, minh bạch hóa hoạt động để phát
triển. Việc đẩy nhanh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đồng thời phát đi một tín
hiệu đối với nhà đầu tư quốc tế rằng Việt Nam đang đẩy nhanh xây dựng nền kinh tế thị
trường.
Và mô ̣t thực tra ̣ng nữa là dòng vố n đầu tư nước ngoài vẫn còn thờ ơ với thi trường IPO

̣
ở Viê ̣t Nam cũng là mô ̣t vấ n đề thách thức đă ̣t ra cho các doanh nghiêp cũng như là các
̣
nhà hoa ̣ch đinh thi trường ở Viê ̣t Nam.
̣
̣
Hiện nay quy trình IPO của các doanh nghiệp ở nước ta vẫn đang thực hiện theo các
bước: (1) - th cơng ty chứng khốn tư vấn, dựng phương án phát hành sau khi đã
thẩm định tài sản, kiểm toán; (2) - nhận tiền đặt cọc của Nhà đầu tư; (3) - Cơng ty
chứng khốn cùng đơn vị phát hành chào bán cổ phiếu tại các TTGDCK (Hà Nội hoặc
TP HCM) hay cũng có thể tổ chức tại doanh nghiệp; (4) - tiền thu được qua đấu giá sẽ
chuyển về đơn vị phát hành đồng thời trả lại tiền cọc với những trường hợp khơng
trúng thầu.
Quy trình này, về hình thức có vẻ đầy đủ nhưng xét về nội dung lại thiếu. Trước hết là
sự thiếu về hành lang pháp lý để loại trừ những trường hợp bỏ giá trên trời khiến nhiều
cuộc IPO phải thực hiện lần 2. Thứ hai là sự thiếu chuyên nghiệp của các Nhà đầu tư
dẫn đến mất tiền một cách không đáng. Một nghiên cứu công bố mới đây của Công ty
chứng khốn Thăng Long cho thấy có tới hơn 80% Nhà đầu tư thiếu kiến thức về kinh
tế - tài chính doanh nghiệp. Chính sự thiếu chuyên nghiệp này dẫn tới tình trạng Nhà
đầu tư bỏ giá bầy đàn rồi bị trả giá hớ nên bỏ cọc khiến nhiều cuộc IPO ế ẩm hàng triệu
cổ phiếu. Thứ ba là việc tổ chức đấu giá cho nhiều đối tượng tham gia cùng lúc gây ra
sự quá tải cho hệ thống các công ty tổ chức. Và cuối cùng, tất cả những cái thiếu trên đã
không thúc đẩy được hệ thống dịch vụ phát triển như: dịch vụ uỷ thác đấu giá, dịch vụ
quản lý quỹ, quản lý danh mục đầu tư mà một TTCK muốn phát triển lành mạnh và ổn
định thì hệ thống dịch vụ này phải làm xương sống. Với một thị trường mới phát triển
như TTCK Việt Nam đương nhiên cần phải có thời gian để lựa chọn ra mơ hình IPO
thích hợp. Tuy nhiên, nếu có thể thí điểm và rút kinh nghiệm ngay một vài mơ hình mà
các thị trường đã phát triển hàng trăm năm đang áp dụng thì lộ trình hồn thiện IPO ở
Việt Nam sẽ được rút ngắn lại. Cịn khơng, với những gì đang diễn ra hiện nay, rủi ro và
thất bại sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.


20


Bên cạnh đó Việt Nam có xu hướng định giá cao trong các đợt IPO. Điều này có
vẻ trái ngược với xu hướng chung của thị trường thế giới – nơi mà việc định giá
thấp mới là chủ đạo. Vậy tại sao lạicó sự khác biệt trong việc định giá cao tại thị
trường Việt Nam? Những yếu tố nào làm nên sự khác biệt này? Câu trả lời có thể
tóm tắt trong những ý chính sau: thời điểm IPO, bất cân xứng thông tin, kỳ vọng
của nhà đầu tư, chênh lệch cung cầu thị trường, ước muốn chủ quan của đơn vị
phát hành và sự làm giá của các nhà đầu tư.
2. Một số giải pháp kiến nghị cho tình hình IPO tại Việt Nam
Như chúng ta đã biết, TTCK ở Việt Nam trong thời gian qua không đạt được hiệu quả
như mong đợi, hàng loạt cổ phiếu giảm giá, đứng giá, chỉ số VNIndex liên tục thay đổi
và theo các chun gia tài chính thì TTCK khó có thể đạt được sự khởi sắc như những
tháng cuối năm 2006. Và điều đó tất yếu kéo theo sự e ngại của các công ty chuẩn bị
niêm yết cổ phiếu trên các sở giao dịch chứng khốn.Điều đó đồng nghĩa dẫn đến sự cẩn
trọng đôi khi quá e dè trước vấn đề IPO của các nhà đầu tư.
Vậy làm thế nào để đưa IPO đạt được tối ưu hóa lợi nhuận cho các cơng ty cũng như có
thể đa dạng hóa các danh mục đầu tư của các nhà đầu tư đồng thời thu hút nguồn vốn
đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp của các đối tác nước ngoài – vốn được coi là lực lượng
chủ chốt kích thích thị trường - đón nhận những đợt IPO mới…?

2.1.Nhà nước – kim chỉ nam cho IPO
Đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp là một trong các giải pháp phát
triển và hồn thiện TTCK Việt Nam, nó giúp phát triển quy mơ, nâng cao chất lượng
hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của thị trường cũng như thúc đẩy hoạt động IPO của các
doanh nghiệp.
* Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, đến năm 2010 vẫn chưa đạt được mục tiêu cổ

phần hóa các doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ đề ra.
Tính đến ngày 25/5/2011, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.850 doanh nghiệp và bộ
phận doanh nghiệp.Trong đó: cổ phần hóa 3.948 doanh nghiệp (Trung ương 1.654
doanh nghiệp; địa phương 2.294 doanh nghiệp); chuyển sang công ty TNHH một thành
21


viên và sáp nhập, hợp nhất, giao bán, khoán 1.902 doanh nghiệp. Năm 2010, chỉ có
thêm 144 DNNN được cổ phần hóa.
Trong khi việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn, các tổng cơng ty, tập đồn
kinh tế nhà nước có tầm quan trọng trong việc hình thành khu vực công ty cổ phần - yếu
tố quyết định quy mơ của thị trường chứng khốn trong tương lai. Đẩy mạnh cổ phần
hóa khơng chỉ là u cầu chuyển các DNNN thành cơng ty cổ phần mà cịn u cầu các
cơng ty này hoạt động theo đúng loại hình công ty cổ phần, nhất là các công ty cổ phần
lớn có tính đại chúng.
Có nhiều ngun nhân dẫn đến sự chậm trễ cổ phần hóa, trong đó có thể nói đến một vài
nguyên nhân cơ bản đã được nhiều bài báo, đề tài nghiên cứu bàn luận tới : các quy định
pháp lý hiện hành chưa thực sự khuyến khích cho tiến trình cho tiến trình cổ phần hóa,
chất lượng cơng tác tư vấn, định giá doanh nghiệp cịn nhiều bất cập...
Nghị định 109 và thông tư 146 đã có những quy định về xác định giá trị doanh nghiệp,
trong đó đưa giá trị th đất và chi phí quảng cáo vào giá trị doanh nghiệp trong nhiều
trường hợp đã làm tăng giá trị doanh nghiệp ,làm giảm khuyến khích đầu tư đối với các
nhà đầu tư. Thực tế IPO của một số DNNN trong thời gian qua cũng cho thấy, việc cổ
phần hóa qua IPO được các cơng ty chứng khoán tư vấn với mức giá quá cao, khơng
được thị trường chấp nhận nên cổ phần hóa thất bại, gây chùn bước cho các công ty
khác trong quá trình cổ phần hóa. Ngồi ra các cơng ty đã được IPO cổ phần hóa trong
giai đoạn thị trường thuận lợi , nay do điều kiện thị trường, giá cổ phiếu xuống mạnh so
với mức giá IPO làm thị trường có cảm giác bị mua đắt từ đó làm mất lòng tin của các
nhà đầu tư vào thị trường, vào các nhà cung cấp dịch vụ định giá và phần nào ở chính
sách.

Có thể nói rằng, q trình cổ phần hóa tuy đã đạt được những thành quả nhất định
nhưng nhìn chung tốc độ cổ phần hóa vẫn diễn ra rất chậm. Vì vậy, muốn thúc đẩy quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo ra các cơng ty cổ phần lớn có tiềm lực
mạnh niêm yết trên TTCK, góp phần hỗ trợ cho sự phát triển của TTCK Việt Nam
Nghị định 59 ra đời ban hành ngày 18/7/2011 , thay thế cho Nghị định 109 về chuyển
DN 100% vốn nhà nước thành cơng ty cổ phần sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hóa.
Trước tháng 9/2011, Nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài "kêu" khá nhiều về
những nút thắt mà họ phải đối mặt khi tham gia CPH như: phải mua cổ phần sau khi DN
22


tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu (IPO) với giá khơng hợp lý, việc tính lợi thế vị trí
địa lý đối với phần diện tích đất DN thuê khi xác định giá trị DN phản ánh không chuẩn
xác giá trị DN. Tuy nhiên, những bất cập này đã được hố giải trong Nghị định 59.
Theo đó, quy định mới cho phép DN được bán cổ phần cho cổ đông chiến lược trước
khi IPO. Trường hợp mua bán thỏa thuận trực tiếp giữa DN và NĐT hoặc đấu giá giữa
các NĐT chiến lược đã đăng ký mua cổ phần trước khi IPO, thì giá thỏa thuận giữa các
bên (trường hợp thỏa thuận) hoặc giá đấu thành công (đối với trường hợp đấu giá) là
không thấp hơn giá khởi điểm đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án
CPH phê duyệt.
Nghị định 59 đưa ra nguyên tắc, căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực
tế theo thị trường để DN trả tiền thuê đất, mà khơng quy định phải xác định lợi thế vị trí
địa lý đối với diện tích đất DN chọn hình thức thuê, vì khái niệm này gây nhiều vướng
mắc cho xác định giá trị DN thời gian qua. Quy định mới cũng loại diện tích đất sử
dụng vào mục đích phúc lợi, công cộng khi xác định giá trị đất đai trong q trình tính
giá trị DN, nên việc xác định giá trị DN minh bạch, xác thực hơn.
Để đẩy nhanh tiến trình CPH, chính sách mới cho phép nếu số cổ phần mà DN đưa ra
IPO lần đầu không bán đạt một tỷ lệ nhất định, thì DN vẫn được phép chuyển đổi mơ
hình hoạt động sang cơng ty cổ phần, với điều kiện trong dự thảo điều lệ để trình ĐHCĐ

lần đầu của DN thơng qua phải thể hiện rõ nội dung sẽ tiếp tục bán nốt số cổ phần đã
được phê duyệt khi đưa ra IPO, để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan. Đây là
biện pháp khắc phục tình trạng CPH "rùa bị" thời gian qua, do vướng quy định nếu số
lượng cổ phần không bán hết trên 30% tổng số cổ phần lần đầu chào bán, thì DN phải tổ
chức đấu giá bán tiếp mới được chuyển đổi hoạt động sang mơ hình cơng ty cổ phần
như trước khi Nghị định 59 có hiệu lực.
* Khuyến khích thành lập mới và sắp xếp lại các cơng ty cổ phần
Ngồi việc thúc đẩy q trình cổ phần hóa DNNN để tăng cung hàng hóa cho TTCK,
nhà nước cần có các chính sách khuyến khích thành lập mới các công ty cổ phần đặc
biệt là các cơng ty cổ phần đại chúng, bởi vì đây là loại cơng ty chủ lực cung cấp hàng
hóa cho TTCK.
Số cơng ty cổ phần đại chúng càng nhiều thì số lượng và chủng loại chứng khoán trên
thị trường càng tăng, nhà đầu tư có thêm nhiều cơ hội lựa chọn mục tiêu đầu tư, phân
tán rủi ro. Để thúc đẩy việc thành lập các công ty cổ phần đại chúng, nhà nước có thể
23


thực hiện một số chính sách khuyến khích như: chính sách thuế, phí và lệ phí, chính
sách khấu hao...
Cùng với việc khuyến khích thành lập mới các cơng ty cổ phần đại chúng, nhà nước cần
tiếp tục hoàn thiện các chính sách về tổ chức, sắp xếp lại các cơng ty cổ phần. Hiện nay,
phần lớn các công ty cổ phần đã được thành lập mới đều có quy mơ nhỏ và vừa. Để góp
phần tăng thêm hàng hóa -những mặt hàng có chất lượng cao trên thị trường, nhà nước
cần có quy chế khuyến khích hoặc bắt buộc (tùy theo từng lĩnh vực kinh doanh ) các
doanh nghiệp tiến hành tổ chức, sắp xếp lịa doanh nghiệp dưới các hình thức như mua
lại, sát nhập, hợp doanh, hợp nhất hoặc tự tăng quy mô kinh doanh bằng phát hành cổ
phiếu mới. Trường hợp hoạt động kém hiệu quả, không có xu hướng phát triển thì cần
tiến hành các thủ tục giải thể, phá sản để đẩm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư.
2.2.Các nhà đầu tư - lựa chọn sáng suốt
Chúng ta hiện nay mới dần hình thành 1TTCk trong nước sôi động và hấp dẫn, kéo theo

số lượng các nhà đầu tư ngày 1 lớn.Tuy nhiên, chúng ta mới chỉ là “ chơi chứng khoán”
chứ phần lớn chưa phải là “ đầu tư CK” như bản chất của nó.Việc các nhà đầu tư ồ ạt
mua cổ phiếu 1 cách cảm tính hoặc tham gia đấu giá IPO với 1 mức giá “ trên trời” chưa
phản ánh đúng giá trị thực của cố phiểu cũng góp phần làm chi thị trường CK và IPO có
những cơn sốt ảo và có những thiệt hại vơ cùng lớn : các công ty không huy động đc
lượng vốn cần thiết, các nhà đầu tư bỏ cọc hoặc thua lỗ…
Ví dụ : Trước đây chưa đến 3 tuần, chính các NĐTNN đã mua 36,32% trên tổng số
4.659.315 cổ phần bán đấu giá lại của Công ty Thủy điện Thác Mơ với giá bình quân là
36.786 đồng. Đi xa hơn nữa, trong tháng 5, quỹ Dragon Capital đã nhẹ nhàng đặt một
mức giá khá cao để mua 98% cổ phần IPO của Coteccons và sau đó các nhà đầu tư
trong nước mới nháo nhào tìm mua cổ phiếu này hoặc những cơng ty liên kết của
Coteccons vì mới bắt đầu nhận ra giá trị của công ty(!?).
Rồi những đợt IPO gây ầm ỉ như Bảo hiểm Dầu khí (PVI), Dây và Cáp điện Việt Nam
(Cadivi), Thủy điện Thác Mơ, Bảo Việt… đều để lại nhiều “thương vong” cho khơng ít
nhà đầu tư cá nhân bởi sự thiếu thông tin và tranh mua quá “mù quáng”. Sau những thất
bại đó, nhiều nhà đầu tư tỏ ra e ngại tham gia đấu giá và thờ ơ với các công ty mới chào
bán cổ phần và đó tiếp tục là sai lầm mới.
Vì vậy, lời khun dành cho các nhà đầu tư và nhất là các nhà đầu tư cá nhân cần có:
24


+kiến thức, sự hiểu biết rõ ràng và nhầt định về cơng ty mình định đầu tư
+ tìm kiếm thơng tin một cách cẩn thận hoặc thông qua các tổ chức tư vấn chuyên
nghiệp thì cơ hội sẽ lớn hơn và không phải đặt những mức giá mà “cả các tổ chức cũng
không dám đặt mua”
+sự tư vấn chuyên nghiệp của tổ chức để hỗ trợ và cần nhớ giá đấu thành công là giá
trúng ở mức giá hợp lý chứ khơng phải giá mua bằng mọi giá.….
+ đón nhận luồng thông tin được ban hành và công bố một cách cơng khau, minh bạchm
tránh tình trạng phía các đối tác tung ra thông tin sai lệch làm nhiễu thị trường…
2.3.Doanh nghiệp – Quyết định đúng đắn hợp thời cơ

3 yếu tố : Nhà nước _ Doanh nghiệp_ Nhà đầu tư là vô cùng mật thiết. Chúng ta đã đế
cập đến vai trị và giải pháp về phía Nhà nước và các nhà đầu tư,nhưng thực sự đóng vai
trị chủ chốt ở đây lại là ở phía các doanh nghiệp. Qua một số đợt Ipo vừa rồi, lời
khuyên dành cho các doanh nghiệp là:
- Thời điểm phát hành đóng vai trị quan trọng, việc dự báo tình hình để lựa chọn thời
điểm là cơng việc khơng đơn giản vì khi cung quá nhiều và dồn dập thì thị trường sẽ quá
tải và sụt giảm, cộng với sự đón nhận hờ hững của nhà đầu tư, sẽ khiến cho mức giá mà
DN đưa ra sẽ thành khơng hợp lý. Do đó, phải dự đoán sát cung cầu, điều tiết cung cầu
sẽ giúp cho việc giá IPO sẽ hợp lý hơn. Dự đoán sát cung cầu sẽ giúp cho đưa ra một
lượng cung phù hợp, từ đó sẽ dựa vào đó để xác định mức giá mà cả người mua và
người bán đều chấp nhận.
Đối với các công ty chuẩn bị niêm yết IPO cần có những sự lựa chọn cẩn trọng trong
việc tính tốn thời gian hợp lý, ước tính được gần đúng giá trị cổ phiểu đấu giá, tham
khảo ý kiến tư vấn của các chuyên gia tài chính tránh được tình trạng cung vượt quá cầu
IPO. khiến giá cố phiếu giảm mạnh, gây động thái không tốt cho CKVN.
Trong đợt IPO lớn gần đây của 2 doanh nghiệp nhà nước VNSteel và MHB, khơng một
nhà đầu tư nước ngồi nào đăng ký tham gia đấu giá cổ phần.Vậy vì sao khối ngoại lại
quay lưng với các đợt IPO của VNSteel và MHB? Điều này có nhiều nguyên nhân. Một
trong số đó là 2 doanh nghiệp này đã tiến hành IPO không đúng thời điểm. Nhu cầu đối
với thép hiện khá yếu do thị trường bất động sản đóng băng trong khi ngành ngân hàng
đang chịu sức ép về nhiều mặt.

25


×