Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.44 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH HIẾU

VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
KHAI THÁC HẢI SẢN XA BỜ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH HIẾU

VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
KHAI THÁC HẢI SẢN XA BỜ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. KIỀU THANH NGA

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám
đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình và
tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến TS. Kiều Thanh Nga, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho tôi với tất cả
lòng nhiệt tình và sự quan tâm.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thành phố Đà Nẵng, Chi cục Thủy sản thành phố Đà Nẵng, Trung tâm
Khuyến ngư nông lâm thành phố, Ban Quản lý Âu thuyền và Cảng cá Thọ Quang Đà
Nẵng, các phòng chức năng của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bạn bè, đồng
nghiệp, luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập
và nghiên cứu luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy,
cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Kiều Thanh
Nga.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Trần Minh Hiếu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KHAI THÁC HẢI SẢN XA BỜ TẠI
ĐÀ NẴNG .......................................................................................................................8
1.1. Cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải
sản xa bờ ..........................................................................................................................8
1.2. Cơ sở thực tiễn liên quan đến vấn đề chính sách hỗ trợ khai thác hải sản xa bờ
tại Đà Nẵng ....................................................................................................................23
CHƢƠNG 2. VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KHAI THÁC
HẢI SẢN XA BỜ Ở ĐÀ NẴNG .................................................................................30
2.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển khai thác hải sản xa bờ của Đà Nẵng ...................30
2.2. Thực trạng chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ tại Đà Nẵng từ
năm 2010 đến năm 2016................................................................................................30
2.3. Biện pháp thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ tại Đà
Nẵng...............................................................................................................................40
2.4. Đánh giá vấn đề chính sách hỗ trợ khai thác hải sản xa bờ tại Đà Nẵng ...............50
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KHAI THÁC HẢI
SẢN XA BỜ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................63
3.1. Định hướng, mục tiêu về phát triển khai thác hải sản xa bờ của Đà Nẵng đến
năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ...............................................................................63
3.2. Định hướng hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ đến
năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ...............................................................................65

3.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng ...........................................................................................69
3.4. Một số kiến nghị, đề xuất .......................................................................................76
KẾT LUẬN ..................................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

1.1.

Dân số trung bình, giai đoạn 2010 – 2016

26

1.2.

Năng lực và sản lượng khai thác thành phố Đà Nẵng

27

2.1.


Tổng hợp nghề lưới rê 3 lớp tau cá Đà Nẵng hiện nay

39

2.2.

Tổng hợp nghề lưới kéo qua các năm

39

2.3.

Số liệu đóng mới tàu theo Quyết định số 47/2014/QĐUBND

51

2.4.

Số liệu thực hiện đóng mới tàu theo Nghị định số 67

51

2.5.

Hỗ trợ nhiêu liệu theo Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg

53

2.6.


Kết quả thực hiện Quyết định số 118/2007/QĐ-TTg

55

3.1.

Quy hoạch một số chỉ tiêu khai thác hải sản

64

3.2.

3.3.

Quy hoạch khai thác hải sản theo các địa phương đến năm
2020
Quy hoạch nghề khai thác của thành phố (không tính thúng
máy)

65

65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Đà Nẵng là một trong số 28 tỉnh thành ven biển của cả nước có 6/8
quận, huyện tiếp giáp với biển (trong đó có huyện đảo Hoàng Sa được thành lập từ
tháng 01/1997, là một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà Nẵng 170 hải lý

(khoảng 315 km), gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đảo Đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá
Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm,
đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim
Yến và Đá Tháp, với diện tích: 305 km2, chiếm 23,76% diện tích thành phố Đà Nẵng
[31]), chiều dài bờ biển Đà Nẵng trên 89km, có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông
đường thủy, bộ, hàng không (có cảng nước sâu Tiên Sa, Liên Chiểu, nhà ga xe lửa, sân
bay quốc tế, hạ tầng đường bộ rộng đẹp). Đà Nẵng có khu vực biển nam Hải Vân, nam
bán đảo Sơn Trà với các hệ sinh thái có tính đa dạng sinh học cao như rạn san hô,
thảm cỏ biển, rong biển, các loài thủy sản đặc trưng của vùng rạn san hô phục vụ cho
phát triển du lịch và kinh tế xã hội của thành phố.
Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá ở Đà Nẵng đã và đang được đầu tư đồng
bộ, có khu công nghiệp thủy sản tập trung (cảng cá, chợ cá, âu thuyền, nhà máy chế biến,
chợ hậu cần, cửa hàng vật tư, thiết bị tàu cá, cơ sở dầu, nước đá, cơ sở đóng sửa tàu, dịch
vụ ăn uống, giải trí). Trong đó có Âu thuyền và Cảng cá Thọ Quang là đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng, mỗi năm
Âu thuyền Cảng cá Thọ Quang tiếp nhận trên 19.200 lượt tàu khai thác hải sản của Đà
Nẵng và các tỉnh bạn như: Bình Thuận, Khánh Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam,
Thừa thiên Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh,....; Đồng thời định hướng phát triển ngành thủy sản
thành phố Đà Nẵng theo hướng Trung tâm nghề cá khu vực miền Trung và cả nước.
Tính đến ngày 31/12/2016 tổng số tàu cá của thành phố Đà Nẵng có 1.650
chiếc, trong đó, thúng máy 474 chiếc, tàu công suất dưới 90cv có 726 chiếc, tàu công
suất từ 90cv trở lên có 450 chiếc, ngư trường khai thác chủ yếu ở Quần đảo Hoàng Sa,
biển miền Trung và Vịnh Bắc Bộ. Sản lượng khai thác thủy sản 5 năm 2011-2015 đạt
168.422 tấn, bình quân là 33.684 tấn/năm và năm 2016 đạt 34.500 tấn. Giá trị kim ngạch
xuất khẩu thủy sản của thành phố năm 2016 đạt trên 165 triệu USD.
Với tiềm năng và lợi thế về khai thác hải sản, việc thực hiện các chính sách hỗ
1


trợ phát triển khai thác hải sản được Đà Nẵng hết sức quan tâm. Thành phố Đà Nẵng là

một trong những địa phương thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển khai thác
hải sản xa bờ. Trong những năm qua, chính quyền thành phố đã có nhiều chủ trương,
chính sách, giải pháp quản lý, tăng cường năng lực và hiệu quả khai thác hải sản xa bờ,
hạn chế khai thác gần bờ để tái tạo nguồn lợi thủy sản đang bị cạn kiệt nói chung, khai
thác hải sản xa bờ nói riêng.
Phát triển khai thác hải sản xa bờ là hướng phát triển tất yếu trong quá trình
phát triển từ nghề cá truyền thống sang nghề cá hiện đại, là chương trình lớn được
triển khai thực hiện từ Trung ương đến các địa phương, nhằm gắn phát triển kinh tế
với an ninh, quốc phòng và bảo vệ chủ quyền biển Đảo. Đối với Trung ương, Chính
phủ đã ban hành các chính sách hỗ trợ khai thác hải xa bờ như Quyết định số
48/2010/QĐ-TTg ngày 13/7/2010, Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014,…
đây là những chính sách được đông đảo bà con ngư dân ủng hộ, phù hợp với thực tiễn
phát triển ngành thủy sản của Việt Nam. Đối với Đà Nẵng, bên cạnh chính sách hỗ trợ
của Trung ương, UBND thành phố đã có chính sách riêng, đặc thù nhằm hỗ trợ nâng
cao năng lực khai thác hải sản xa bờ như: Quyết định số 7068/QĐ-UBND ngày
29/8/2012 về một số chính sách hỗ trợ ngư dân thành phố Đà Nẵng đóng mới tàu khai
thác hải sản xa bờ, Quyết định số 47/2014/QĐ-UBND ngày 12/12/2014 về Quy định
cơ chế, chính sách hỗ trợ đóng mới tàu khai thác hải sản và tàu dịch vụ khai thác hải
sản cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thay thế Quyết định số
7068/QĐ-UBND, Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND ngày 01 tháng 12 năm 2014 ban
hành quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục phê duyệt đối tượng được hưởng chính sách tín
dụng đóng mới, nâng cấp tàu cá theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014
của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng,... Nhờ thực hiện những chính sách này, hoạt động khai thác hải sản xa bờ ở Đà
Nẵng đã được những kết quả đáng ghi nhận trong phát triển nghề cá theo hướng vươn
khơi, hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn những khó khăn,
hạn chế trong chính sách và việc thực hiện chính sách ảnh hưởng đến hiệu quả của
hoạt động khai thác hải sản ở Đà Nẵng. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề chính
sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ ở Đà Nẵng là rất cần thiết nhằm phân
tích, đánh giá một cách toàn diện về nội dung chính sách, việc thực thi chính sách

2


cũng như kết quả, tìm ra những tồn tại, hạn chế trong nội tại của chính sách và nguyên
nhân của nó để đưa ra các giải pháp phù hợp hơn và hiệu quả hơn nhằm thúc đẩy hoạt
động khai thác hải sản xa bờ ở Đà Nẵng, nâng cao đời sống ngư dân và đóng góp cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của Đà Nẵng. Vì vậy, qua thời gian công tác tại Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, tôi quyết định chọn đề tài: “Vấn đề chính sách hỗ trợ
phát triển khai thác hải sản xa bờ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề chính sách phát triển khai thác hải sản xa bờ được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm, đã được thể hiện một cách cụ thể trong hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã có điều kiện tiếp cận một
số công trình nghiên cứu và các bài viết như sau:
- Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng Chính
phủ (2010). Chiến lược này đã xác định tầm quan trọng của ngành thủy sản Việt Nam
trong những năm tới, đề ra lộ trình, mục tiêu phát triển ngành thủy sản một cách đồng
bộ từ khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ,… đào tạo nguồn nhân lực….
Chiến lược của Chính phủ là cơ sở để các Bộ, ngành, UBND các tỉnh/thành phố cụ thể
hóa chiến lược ở từng địa phương trong thời gian tới.
- Báo cáo Dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030” và Dự án “Khai thác hải sản của Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Viện Kinh tế Quy hoạch thủy sản (2012, Hà Nội).
Hai dự án đã đánh giá tình hình khai thác hải sản Việt Nam trong những năm qua; hiện
trạng về tàu thuyền, mùa vụ khai thác, cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu cần nghề cá,….; đồng
thời đề ra kế hoạch phát triển ngành khai thác hải sản thời gian tới.
- Thủ tướng Chính phủ (2013) “Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến
năm 2020, tầm nhìn 2030”, mục tiêu là ngành thủy sản cơ bản được công nghiệp hóa
vào năm 2020, hiện đại hóa vào năm 2030 và tiếp tục phát triển toàn diện, hiệu quả
bền vững, trở thành ngành sản xuất hàng hóa lớn, có cơ cấu và các hình thức tổ chức

sản xuất hợp lý, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, hội
nhập vững chắc vào nền kinh tế quốc tế, từng bước nâng cao thu nhập và mức sống
của nông, ngư dân; đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn lợi thủy sản và góp
phần bảo vệ quốc phòng, an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
3


- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), “Dự thảo Tờ trình ban hành
Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP này 07 tháng 7
năm 2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản”. Đây là nội dung rất
quan trọng trong việc sửa đổi, điều chỉnh một số nội dung chính sách hỗ trợ ngư dân khai
thác hải sản xa bờ thời gian qua triển khai chưa hiệu quả, chưa thực hiện được, cụ thể như
là: về chính sách đầu tư; về chính sách tín dụng hỗ trợ lãi suất vốn vay đóng mới, nâng
cấp tàu cá, chính sách bảo hiểm hay chính sách ưu đãi thuế,...
- Đối với bài viết của Ninh Thị Thu Thủy về “Chính sách hỗ trợ khai thác thủy
sản xa bờ của thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí Kinh tế- xã hội Đà Nẵng số 60/2014, tác
giả của bài viết đã trình bày tổng quan về phát triển khai thác thủy sản xa bờ, đánh giá
thực trạng các nguồn lực cho khai thác thủy sản xa bờ, đồng thời nêu tình hình thực
hiện các chính sách hỗ trợ khai thác thủy sản xa bờ tại Đà Nẵng giai đoạn 2010-2014.
- Trung Kiên, “Tích cực triển khai thực hiện chính sách khai thác hải sản xa
bờ” trên Trang thông tin điện tử của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, trong bài viết
nêu một cách khai quát thực trạng thực hiện chính sách khải sản hải sản xa bờ của Việt
Nam từ những năm 1997 đến 2016.
- Lê Thanh Sơn (2017), Luận án tiến sĩ kinh tế: “Chính sách phát triển kinh tế
biển và hải sản tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu”, luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu, có căn
cứ khoa học rõ ràng nhằm hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế biển và hải đảo tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu định hướng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
- Phan Thị Thu (2015), Luận văn thạc sĩ kinh tế “Phát triển khai thác thủy sản
xa bờ tại thành phố Đà Nẵng”, đánh giá thực trạng về phát triển khai thác thủy sản xa
bờ và một số giải pháp để phát triển khai thác thủy sản xa bờ của thành phố Đà Nẵng.

- Nguyễn Văn Lâm (2013), Luận văn thạc sĩ kinh tế “Phát triển tổ hợp tác khai
thác hải sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”, luận văn đánh giá thực
trạng phát triển tổ đội khai thác hải sản nhằm tương trợ trong quá trình khai thác, giúp
đỡ nhau trong tìm kiếm ngư trường và cứu nạn, cứu hộ trên biển khi có sự cố xảy ra.
- Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2008) “Quy hoạch tổng thể phát triển
ngành nông nghiệp thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”, trong đó nêu ra một số giải
pháp, định hướng phát triển ngành nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2010 - 2020.
- Dự thảo điều chỉnh “Quy hoạch tổng thể ngành Nông nghiệp và Phát triển
4


nông thôn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (2017).
- UBND thành phố Đà Nẵng (2011) “Đề án chuyển đổi cơ cấu nghề, cơ cấu tàu
thuyền trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo hướng phát triển bền vững”, đây là Đề án
chuyển dịch cơ cấu tàu thuyền, số lượng tàu cá có công suất nhỏ từ 20 – 90CV giảm dần,
tăng số lượng tàu thuyền có công suất lớn, tức là tăng số tàu có công suất 400CV trở lên.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016) “Báo cáo đánh giá kết quả 5
năm thực hiện Đề án chuyển đổi cơ cấu nghề, cơ cấu tàu thuyền trên địa bàn thành
phố theo hướng phát triển bền vững (2011-2016)”.
- UBND thành phố Đà Nẵng (2017), “Báo cáo Việc thực hiện chính sách, pháp
luật đối với cá nhân, tổ chức khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản trong phát triển kinh
tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn thành phố”, đây là báo cáo đánh
giá thực trạng triển khai thực thi các chính sách về hỗ trợ ngư dân trên địa bàn thành phố.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng (2017) “Báo cáo
tham dự diễn đàn phát triển đô thị lần thứ 6 tại Yokohama, Nhật Bản”, nội dung báo
cáo này giới thiệu tổng quan về hiện trạng nghề cá Đà Nẵng, thực trạng và giải pháp
môi trường của Âu thuyền và Cảng cá Thọ Quang.
- Chi cục Thủy sản thành phố Đà Nẵng (2017) “Báo cáo tình hình đóng mới tàu
cá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, nội dung báo cáo tập trung đánh giá việc dịch
chuyển tàu cá theo hướng có lợi, đóng mới tàu thuyền có công suất lớn, cải hoán nâng

cấp tàu có công suất nhỏ lên tàu có công suất lớn, ngư dân mua các tàu có công suất từ
90cv trở lên ở các địa phương khác về hoạt động, trang bị thêm trang thiết bị máy móc
để vươn khơi đánh bắt, nâng hiệu quả kinh tế vừa tham gia bảo vệ chủ quyền quốc gia
trên biển theo đúng định hướng của ngành.
- Trung tâm Khuyến ngư nông lâm thành phố Đà Nẵng (2016) “Báo cáo chuyển
đổi cơ cấu nghề và ứng dụng các trang thiết bị khai thác trên tàu khai thác xa bờ tại
thành phố Đà Nẵng”, đây là nội dung liên quan đến công tác bảo quản sản phẩm sau
thu hoạch của ngư dân, sử dụng phương tiện, máy móc hiện đại vào trong khai thác hải
sản, chuyển đổi một số nghề cấm khai thác, vươn khơi khai thác.
Các công trình trên chủ yếu là các chính sách được ban hành hoặc báo cáo, quy
hoạch về phát triển khai thác thủy sản, có rất ít công trình nghiên cứu về khai thác hải
sản xa bờ. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện từ
5


lý luận đến thực tiễn về vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ ở
Đà Nẵng. Tìm hiểu thực trạng thực thi chính sách, những kết quả đạt được, làm rõ
nguyên nhân của những tồn tài, hạn chế. Để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp góp
phần hoàn thiện chính sách và biện pháp thực hiện phù hợp, hiệu quả chính sách hỗ trợ
phát triển khai thác hải sản xa bờ ở Đà Nẵng. Đề tài này sẽ góp phần giải quyết những
nội dung còn trống đó. Mong rằng những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần
vào việc hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách hỗ trợ phát
triển khai thác hải sản xa bờ ở thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá những kết quả, phát hiện ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
trong nội tại của chính sách, biện pháp thực hiện chính sách hỗ trợ khai thác hải sản xa
bờ ở Đà Nẵng, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách và thực thi
chính sách hỗ trợ khai thác hải sản xa bờ hiệu quả hơn đảm bảo theo định hướng phát
triển khai thác hải sản xa bờ trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề chính sách hỗ trợ phát
triển khai thác hải sản xa bờ ở Đà Nẵng;
- Nghiên cứu vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ thông
qua phân tích, đánh giá chính sách và thực trạng thực thi chính sách này ở Đà Nẵng;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách và thực thi chính sách hỗ trợ phát
triển khai thác hải sản xa bờ một cách hiệu quả hơn ở Đà Nẵng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề chính sách và thực thi chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ ở
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian: Các chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa
bờ và tình hình thực hiện chính sách này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Về phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2016, năm 2010 là năm bắt đầu
triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ khai thác hải sản xa bờ tại Đà Nẵng.
6


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật hiện thực kết hợp với
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước và tình hình thực tiễn của địa phương để
giải quyết các vấn đề đặt ra. Đây cũng là cơ sở để vận dụng các phương pháp chuyên
môn trong quá trình nghiên cứu của đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định tính và sử dụng số liệu thứ cấp: Thu thập dữ liệu mô tả và
phân tích đặc điểm, thông tin toàn diện về các điều kiện kinh tế, xã hội trên địa bàn
thành phố phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp phân tích đánh giá, so sánh thực chứng, phân tích chuẩn

tắc trong phân tích kinh tế và các phương pháp thống kê với sự trợ giúp của các phần
mềm Excel.
- Sử dụng một số phương pháp khác: Phương pháp thu thập thông tin; khảo cứu
tài liệu để tổng hợp, lượng hóa các số liệu, thông tin một cách chính xác, khách quan
nhằm phân tích, đánh giá phục vụ cho suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận: Đóng góp bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về chính sách
chuyên ngành là chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ ở nước ta hiện nay.
6.2. Về thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá, phân tích tình hình thực thi chính sách hỗ
trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ; nhằm tiếp tục duy trì, phát huy những ưu điểm, cách
làm mới, hay mang lại hiệu quả thiết thực; khắc phục những tồn tại, hạn chế và đề ra giải
pháp để tổ chức thực hiện tốt hơn chính sách hỗ trợ khai thác hải sản xa bờ ở Đà Nẵng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến chính sách hỗ trợ phát triển
khai thác hải sản xa bờ tại thành phố Đà Nẵng
Chương 2. Vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ tại Đà
Nẵng
Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách
hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ tại thành phố Đà Nẵng
7


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN
VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KHAI THÁC
HẢI SẢN XA BỜ TẠI ĐÀ NẴNG
1.1. Cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển khai
thác hải sản xa bờ
1.1.1. Các khái niệm

- Khai thác hải sản xa bờ: Là việc khai thác các nguồn lợi hải sản ở vùng biển
giới hạn bởi tuyến lộng và ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế (từ 24 hải lý)
được trang bị bởi tàu thuyền có công suất từ 90 CV trở lên.
- Phát triển khai thác hải sản xa bờ: Là phát triển hệ thống tàu thuyền, hệ thống
cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá, các nguồn lực vật chất tham gia như: vốn, lao
động, khoa học công nghệ đánh bắt hải sản,… trong hoạt động khai thác hải sản đảm
bảo nó được phát triển ổn định bằng tổng thể các phương pháp, biện pháp khai thác
nhằm bảo vệ nguồn lợi hải sản ven bờ, sử dụng hợp lý các nguồn lực để gia tăng kết
quả, hiệu quả khai thác, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường và xã hội.
- Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị nhằm vạch ra
những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lí với các vấn đề, hiện
tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lí sự phát triển nhằm đạt tới những mục
tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách công được William Jenkins (năm 1978)
đưa ra định nghĩa như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết định liên quan lẫn nhau
của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn mục tiêu và
các giải pháp để đạt được mục tiêu nào đó”. Ở Việt Nam chính sách công được khái niệm
trên Tạp chí lý luận chính trị số 1/2014, “Chính sách công là một tập hợp các quyết định
chính trị có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và lựa chọn các giải pháp, các công
cụ nhằm giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.
- Chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ: Từ quan niệm về “chính
sách công”, “khai thác hải sản xa bờ” và “phát triển khai thác hải sản xa bờ” nêu trên,
chúng ta có thể định nghĩa về chính sách phát triển khai thác hải sản xa bờ như sau:
“Chính sách phát triển khai thác hải sản xa bờ là tập hợp các quyết định chính trị8


pháp lý có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để giải
quyết các vấn đề của tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực khai thác hải sản xa
bờ như cho vay ưu đãi đóng mới tàu thuyền công suất lớn (từ 400 cv trở lên), hỗ trợ
bảo hiểm, hỗ trợ chi phí xăng dầu khai thác hải sản xa bờ,... theo mục tiêu tổng thể
của chính sách đã được xác định”.

Dẫu ra đời từ rất sớm, nhưng nghề cá Việt Nam cho đến những năm giữa thế kỷ
trước vẫn mang đậm dấu ấn của một loại hình hoạt động kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự
túc, trình độ sản xuất còn lạc hậu và thủ công, tàu thuyền đánh bắt hải sản công suất
nhỏ và chủ yếu đánh bắt gần bờ. Hoạt động nghề cá chỉ được xem như một nghề phụ
trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Từ sau những năm 1950, đánh giá được vị trí ngày càng đáng kể và sự đóng góp
mà nghề cá có thể mang lại cho nền kinh tế quốc dân, cùng với quá trình khôi phục và
phát triển kinh tế ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã bắt đầu quan tâm phát triển nghề
cá và hình thành các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, đánh dấu, một cách
nhìn nhận mới đối với nghề cá. Từ đó, ngành Thuỷ sản đã dần hình thành và phát triển
như một ngành kinh tế - kỹ thuật có vai trò và đóng góp ngày càng lớn cho đất nước.
Quá trình phát triển có thể phân chia một cách tương đối thành 3 giai đoạn chính [32]:
- Giai đoạn 1954 - 1960: kinh tế thuỷ sản bắt đầu được chăm lo phát triển để
manh nha một ngành kinh tế kỹ thuật. Đây là thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế ở
miền Bắc. Trong thời kỳ này, với sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa, các tổ
chức nghề cá công nghiệp như các tập đoàn đánh cá với đoàn tàu đánh cá Hạ Long,
Việt - Đức, Việt - Trung, nhà máy cá hộp Hạ Long được hình thành. Đặc biệt, phong
trào hợp tác hoá được triển khai rộng khắp trong nghề cá.
- Giai đoạn 1960 – 1980, ngành Thuỷ sản có những giai đoạn phát triển khác
nhau gắn với diễn biến của lịch sử đất nước.
- Giai đoạn những năm 1960 - 1975, đánh dấu bằng việc thành lập Tổng cục
Thủy sản năm 1960. Đây là thời điểm ra đời của ngành Thủy sản Việt Nam như một
chỉnh thể ngành kinh tế-kỹ thuật của đất nước. Tuy nhiên, đây là giai đoạn đất nước có
chiến tranh, cán bộ và ngư dân ngành thuỷ sản “vững tay lưới, chắc tay súng”, hăng
hái thi đua lao động sản xuất với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, cùng cả nước
thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đánh
9


thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam”. Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển có công

sức lớn của ngư dân.
- Những năm 1976 – 1980, đất nước thống nhất, ngành Thủy sản bước sang giai
đoạn phát triển mới trên phạm vi cả nước. Tầm cao mới của ngành được đánh dấu
bằng việc thành lập Bộ Hải sản năm 1976. Thực hiện 10 năm Di chúc Bác Hồ, ngành
đã phát động thành công phong trào “Ao cá Bác Hồ” rộng khắp trong cả nước, đem lại
tác dụng rất lớn.
Do hậu quả nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn
phục hồi. Mặt khác, cơ chế quản lý lúc này chưa phù hợp, tiêu thụ theo cách giao nộp
sản phẩm, đánh giá kết quả theo khối lượng hàng hoá, không chú trọng giá trị sản
phẩm. Điều này đã làm giảm động lực thúc đẩy sản xuất thủy sản, kinh tế thủy sản sa
sút nghiêm trọng vào cuối những năm 1980.
Giai đoạn 1981 đến nay, Bộ Hải sản được tổ chức lại thành Bộ Thủy sản sau đó
sáp nhập với Bộ Nông nghiệp thành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành
Thủy sản bước vào giai đoạn phát triển toàn diện cả về khai thác, nuôi trồng, hậu cần
dịch vụ, chế biến và xuất khẩu, đặc biệt những năm gần đây việc đẩy mạnh nghiên cứu
và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong khai thác hải sản xa bờ đã
góp phần rất lớn trong việc phát triển kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế để giữ vững
nhịp độ tăng trưởng, đồng thời bảo vệ được chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Đối với Đà Nẵng, thành phố trực thuộc Trung ương kể từ ngày 01/01/1997
được chia tách từ tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, cùng với sự phát triển chung của thành
phố về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, dịch vụ, công nghiệp, thương mại, dịch vụ,
ngành thủy sản cũng dần được phát triển qua từng năm và đạt được những kết quả
đáng kể trong nền kinh tế của thành phố. Để phát triển khai thác hải sản xa bờ, Đà
Nẵng đã đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu cần nghề cá đáp ứng nhu cầu của người dân,
áp dụng tiến bộ khoa học hiện đại trong khai thác, đảm bảo an toàn, an ninh trên biển,
góp phần nâng cao thu nhập của người dân ven biển.
1.1.2. Mục đích, yêu cầu của chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản
xa bờ
1.1.2.1. Mục đích
Tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác hải sản xa bờ có điều

10


kiện vay vốn để đóng mới, cải hoán tàu cá, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, hỗ trợ chi phí
xăng dầu chuyển biển khai thác ở vùng biển xa, trang bị kiến thức hàng hải, kỹ thuật
đánh bắt hải sản hiện đại, … nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, phát triển kinh tế,
đồng thời hiện diện của người dân tại các vùng biển, đảo của Việt Nam, góp phần bảo
vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
1.1.2.2. Yêu cầu
Trên cơ sở hệ thống văn bản của đảng và nhà nước ban hành, các cấp chính
quyền, tổ chức cá nhân liên quan tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả, nâng cao
năng lực đánh bắt hải sản để phát triển khai thác hải sản ở các vùng biển xa, góp phần
bảo vệ môi trường, tái tạo nguồn lợi thủy sản ven bờ và gắn với bảo vệ chủ quyền biển
đảo Việt Nam.
1.1.3. Đặc điểm, vai trò và sự cần thiết của chính sách hỗ trợ khai thác hải
sản xa bờ
1.1.3.1. Đặc điểm của khai thác hải sản xa bờ [22]
- Khai thác hải sản xa bờ là hoạt động đánh bắt hải sản ở vùng biển ngoài khơi
xa, ngư trường khai thác của các ngư dân tính từ 30 m độ sâu nước biển, ở khu vực
miền Trung là 50 m;
- Tính chất đặc thù của hoạt động khai thác hải sản xa bờ là thời gian khai thác
dài ngày (trung bình một chuyển biển ra khơi của ngư dân thường kéo dài từ 1 - 2
tháng, nếu thời tiết thuận lợi, trúng vụ thì tối thiểu cũng mất từ 7 - 10 ngày);
- Thời tiết quyết định rất lớn đến thời gian hoạt động trên biển của ngư dân;
- Do bám biển dài ngày như vậy nên hoạt động khai thác hải sản xa bờ tiềm ẩn
rất nhiều yếu tố rủi ro như rủi ro thời tiết, rủi ro an toàn vệ sinh lao động, điều kiện
sống và sinh hoạt của ngư dân.
1.1.3.2. Vai trò của khai thác hải sản xa bờ
Nước ta là một trong số ít quốc gia được thiên nhiên ban phát tài nguyên biển
phong phú và đa dạng. Nằm phía tây Thái Bình Dương, bờ biển Việt Nam có chiều dài

hơn 3.260km cùng hơn 1 triệu km² vùng biển đặc quyền kinh tế. Với 28 tỉnh thành có
biển là điều kiện cho phép khai thác nhiều lợi thế về kinh tế biển khác nhau.
Bên cạnh đó, Biển Đông của chúng ta nằm ở vị trí trung tâm vùng kinh tế Đông
Á phát triển năng động, cũng là một trong những đường hàng hải quan trọng và nhộn
11


nhịp thuộc loại nhất thế giới. Vị trí này không chỉ quan trọng về kinh tế mà cả về an
ninh, nhất là khi chúng ta có cảng Cam Ranh là mơ ước của các cường quốc quân sự.
Trong một thời gian dài, ngư dân Việt Nam chủ yếu đánh bắt cá ven bờ, chưa
coi trọng việc đánh bắt xa bờ mặc dù sở hữu vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn. Thế
nhưng những năm gần đây, tình hình đã đổi khác, đánh bắt hải sản xa bờ giữ một vai
trò quan trọng đối với Việt Nam cả về khía cạnh thu nhập quốc gia (chiếm 7% GDP)
và tạo công ăn việc làm cho người dân.
Theo báo cáo được công bố vào năm 2014 của Tổ chức Nông lương Thế giới
(FAO), Việt Nam đứng vị trí thứ 9 trên toàn thế giới năm 2012 về sản lượng cá đánh
bắt được, với hơn 2,418 triệu tấn [1].
Như đa số các quốc gia ven Biển Đông, từ một thập niên qua, Việt Nam đã ghi
nhận tăng trưởng mạnh về khai thác hải sản. Hơn nữa, từ khi “Đổi mới”, những
chuyển đổi quan trọng đã được thực hiện như chuyển hướng từ sản xuất sang khai thác
(Việt Nam là nước đứng thứ 4 về xuất khẩu cá và hải sản xa bờ), phát triển mạnh lĩnh
vực nuôi thủy hải sản, tăng số lượng ngư dân và cuối cùng là hướng về đánh bắt thủy
hải sản xa bờ [1].
Trong tình hình căng thẳng trên Biển Đông, thời gian gần đây do các hành vi
ngang ngược của Trung Quốc, cũng như việc Trung Quốc hạ đặt Giàn khoan Hải
Dương - 981 trái phép trên vùng biển của Việt Nam (năm 2014), gây khó khăn cho
hoạt động đánh bắt của ngư dân, chính vị vậy việc chú trọng đánh bắt hải sản xa bờ có
tầm quan trọng trong bảo vệ chủ quyền biển đào. Đồng thời với mục đích gìn giữ
nguồn lợi hải sản ven bờ vốn đã được triệt để khai thác lâu nay khiến sản lượng ngày
càng thấp, Chính phủ tích cực ủng hộ việc khai thác hải sản xa bờ.

Đà Nẵng là một thị trường tiêu thụ thủy sản rộng lớn, khu công nghiệp chế biến
và dịch vụ thủy sản Thọ Quang được xem là một mắt xích quan trọng trong tổ hợp đưa
Đà Nẵng trở thành Trung tâm nghề cá lớn của khu vực miền Trung. Về thị trường xuất
khẩu, cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho hoạt động khai thác thủy
sản Đà Nẵng. Ngoài ra, Đà Nẵng có vị trí chiến lược về công tác quốc phòng, quân sự
của đất nước.
1.1.3.3. Sự cần thiết của chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ
Với đặc điểm và vai trò hết sức quan trọng của khai thác hải sản xa bờ, nên
12


chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ rất cần thiết đối với các nước có
biển như Việt Nam, hay như Đà Nẵng nói riêng. Một số chính sách phát triển thủy sản
được xem như một chương trình mang tính đột phá trong việc phát triển ngành khai
thác hải sản của Việt Nam. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật như: Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg, Nghị định 67/2017/NĐ-CP;
Thành phố ban hành Quyết định 7068/QĐ-UBND, Quyết định 47/2014/QĐ-UBND,…
liên quan đến những chính sách về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, chính sách ưu đãi thuế
và một số chính sách khác nhằm phát triển ngành thuỷ sản, đồng thời góp phần bảo vệ
chủ quyền quốc gia trên biển.
Như vậy, theo văn bản quy định của Trung ương, nhà nước sẽ hỗ trợ đóng mới
tàu thuyền, bảo hiểm thân tàu và ngư lưới cụ trên mỗi tàu theo giải công suất máy
chính. Chính sách mới này đã mang đến cơ hội cho các ngư dân xây dựng đội tàu đánh
cá lớn, mạnh, phát triển mạnh mẽ ngành khai thác thuỷ sản, làm giàu cho ngư dân,
đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Nhằm giảm bớt gánh nặng do giá cả đầu vào tăng mạnh, giá cả đầu ra không ổn
định, chính sách hỗ trợ chi phí xăng dầu chuyến biển cho ngư dân, đây là việc làm kịp
thời và hiệu quả nhằm giúp bà con ngư dân vượt qua khó khăn, vươn khơi bám biển.
Một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước là phải đẩy mạnh
kinh tế biển, làm giàu từ biển. Trong đó ngành công nghiệp đóng tàu được ưu tiên phát

triển, vừa phục vụ phát triển kinh tế, bảo đảm cuộc sống của ngư dân nhưng cũng vừa
bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. Với những chính sách hỗ trợ, Chính phủ ưu tiên
cao nhất đối với việc đóng mới các tàu dịch vụ hậu cần vỏ sắt, chuyên cung cấp các
nhu yếu phẩm, nước, dầu và thu mua hải sản ngay trên biển; hình thành các đội tàu
đánh bắt xa bờ lớn, hiện đại, vươn khơi xa, bám biển dài ngày. Đồng thời tập trung
đầu tư cơ sở hạ tầng, các khu cảng, neo đậu, trú tránh bão.
1.1.4. Những yêu cầu cơ bản đối với việc tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ
phát triển khai thác hải sản xa bờ
1.1.4.1. Yêu cầu thực hiện đúng mục tiêu chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải
sản xa bờ
Chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ được Đảng và Nhà nước ta
xác định là mục tiêu tiên quyết và xuyên suốt, thể hiện trong các nghị quyết của Đảng,
13


được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật từ Trung ương đến địa phương,
vì vậy, cần phải tuân thủ triệt để mục tiêu này. Trong quá trình tổ chức thực hiện chính
sách, có những biến động khó lường về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng thì có thể
thay đổi biện pháp, cách thức tổ chức thực hiện, nhưng không được làm thay đổi mục
tiêu của chính sách.
1.1.4.2. Yêu cầu bảo đảm tính hệ thống trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ
phát triển khai thác hải sản xa bờ
Tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ đòi hỏi
có sự tham gia, phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, từ Trung ương đến địa phương;
có sự thống nhất chỉ đạo, hành động của các cơ quan, đơn vị liên quan; trên cơ sở đó
hình thành nên các mối quan hệ đan xen; vì vậy, trong quá trình thực hiện chính sách
phải đảm bảo nguyên tắc tính hệ thống.
Thứ nhất là theo tính thứ bậc trên, dưới theo phân cấp quản lý theo cấp hành chính;
cấp dưới phải phục tùng sự chỉ đạo, điều hành của cấp trên trong thực hiện chính sách
đảm bảo chính sách được thực hiện thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.

Thứ hai là tính hệ thống theo chiều ngang, có sự phối hợp thực hiện giữa các
ngành, các cơ quan, các tổ chức chính trị – xã hội trong cùng cấp; sự tham gia của các
doanh nghiệp và cá nhân trong hoạt động lĩnh vực thủy sản, đảm bảo việc thực hiện
chính sách được sâu rộng và chặt chẽ, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội.
Thứ ba là tính thống nhất của các loại chính sách trong hệ thống chính sách, sự
thống nhất giữa mục tiêu chính sách với mục tiêu chung, thống nhất giữa mục tiêu
chính sách và biện pháp chính sách; giữa chính sách với các công cụ quản lý khác. Có
như vậy mới đảm bảo sự vận hành trơn tru, thống nhất cao trong nội bộ hệ thống chính
sách, tránh sự mâu thuẫn, xung đột trong hệ thống chính sách.
1.1.4.3. Yêu cầu bảo đảm tính pháp lý, khoa học, hợp lý trong thực hiện chính
sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ
Tính pháp lý trong thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ
là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia thực hiện chính sách
này. Tính pháp lý trong thực hiện hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng trong phạm vi toàn quốc, tất cả các cơ
quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải thực hiện đúng; trong đó quy định rõ
14


trách nhiệm, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện chính sách, thủ tục
giải quyết các mối quan hệ trong thực hiện chính sách, cưỡng chế thực hiện chính sách
trong những điều kiện cần thiết; cũng như quy định tiêu chuẩn, chế độ chính sách hỗ trợ
phát triển khai thác hải sản xa bờ được quyền thụ hưởng.
Bên cạnh phải đảm bảo yêu cầu về tính pháp lý, trong thực hiện chính sách hỗ trợ
phát triển khai thác hải sản xa bờ phải được triển khai tổ chức thực hiện theo nguyên tắc,
quy trình chặt chẽ đảm bảo tính khoa học và hợp lý theo thứ tự các bước từ cao xuống thấp,
từ trước đến sau; không thể tự ý thực hiện một cách tùy tiện, ngẫu hứng theo sự chủ quan,
duy ý chí phá vỡ các nguyên tắc và các quy định của chính sách. Trong triển khai tổ chức
thực hiện phải chuẩn bị kỹ các điều kiện cần thiết, đảm bảo cho việc thực hiện hiệu quả;
Ngoài những chế độ, chính sách của Trung ương, từng địa phương phải linh động xem xét,

tùy theo khả năng, điều kiện kinh tế của từng địa phương để có chế độ, chính sách hỗ trợ
thêm cho phù hợp.
1.1.4.4. Yêu cầu bảo đảm lợi ích thực sự cho các đối tượng thụ hưởng chính
sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ
Vấn đề là giải quyết cho được đầy đủ, đảm bảo lợi ích thực sự cho các đối
tượng thụ hưởng chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ là yêu cầu rất
quan trọng trong thực hiện chính sách, đây là đích cuối cùng của toàn bộ quá trình
thực hiện chính sách. Tức là trong quá trình thực hiện chính sách, mỗi địa phương có
thể có phương pháp này hay phương pháp khác, cách làm này hay cách làm khác
những mong muốn và mục đích cuối cùng của chủ thể chính sách là đưa chính sách
đến được với đối tượng thụ hưởng chính sách (bao gồm cả ngư dân và doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực khai thác thủy sản) và đảm bảo lợi ích một cách thực sự cho
các đối tượng thụ hưởng chính sách nhằm góp phần nâng cao đời sống kinh tế, vật
chất, tinh thần và nhu cầu thiết thực cho các đối tượng thụ hưởng chính sách, góp phần
phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ chủ quyền biên giới biển đảo. Yêu cầu của chính sách
đặt ra là làm sao phải tạo được sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ lên mọi mặt đời
sống xã hội của các đối tượng thụ hưởng chính sách như: việc hỗ trợ ngư dân đóng
mới tàu khai thác hải sản xa bờ, hỗ trợ chi phí xăng dầu, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm
thuyền viên, hỗ trợ đào tạo, sửa chữa tàu thuyền, hỗ trợ ngư dân khắc phục rủi ro do
thiên tai trên biển, ngư lưới cụ,... đặc biệt làm cho các đối tượng chính sách cảm thấy
15


yên tâm bám biển, yêu biển đảo quê hương và phát triển kinh tế gia đình; đồng thời
chính sách này phải tạo được niềm tin của các đối tượng thụ hưởng chính sách đối với
Đảng, với Nhà nước. Yêu cầu này đòi hỏi sự nỗ lực, phối hợp chặt chẽ của cả hệ thống
chính trị trong cả chu trình thực hiện chính sách. Thỏa mãn được các yêu cầu này, xem
như sự thành công của chính sách.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải
sản xa bờ

1.1.5.1. Các yếu tố thuộc về chính sách
Hệ thống chính trị bị chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến nội dung, hình thức của
chính sách nói chung và chính hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ nói riêng, bao
gồm các yếu tố về quan điểm kinh tế, chính trị, xã hội và quyết tâm của Đảng và Nhà
nước. Các quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách phải tuân thủ và căn cứ vào thể
chế, là cơ sở pháp lý cao nhất mà tất cả mọi tổ chức, cá nhân trong quá trình triển khai
thực hiện chính sách phải làm theo. Vì vậy, chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải
sản xa bờ trước hết phải thực hiện cho được mục tiêu của Đảng và Nhà nước đó là
phục vụ vì lợi ích của tổ chức, ngư dân và toàn xã hội.
Việc thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ còn phụ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố bên trong của chính sách như: hệ thống chính trị xã hội,
khả năng kinh tế của Nhà nước, vai trò của các cơ quan tuyên truyền, từng điều kiện
cụ thể của địa phương và quan hệ bên trong của hệ thống cơ quan thực thi chính sách.
1.1.5.2. Yếu tố nhận thức
Khẳng định rằng, chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ cần được
nhìn nhận một cách đúng đắn và đầy đủ về quan điểm, mục đích của Đảng và Nhà
nước đã đặt ra trong hệ thống chính trị và chúng ta phải nhận thức đây là chính sách
ưu đãi đặc biệt, là chính sách cần phải được thực hiện thường xuyên và liên tục. Chúng
ta phải nhận thức nghiêm túc việc vươn khơi bám biển của bà con ngư dân ngoài việc
phát triển kinh tế, tăng thu nhập của người dân, còn phải kể đến vấn đề thể hiện quyền
và chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Vì vậy, việc thực hiện chính sách là trách
nhiệm, nghĩa vụ của cả hệ thống chính trị, của mọi tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội.
1.1.5.3. Yếu tố kinh tế
Cũng cần biết thêm, yếu tố kinh tế có tác động rất lớn trong việc thực hiện
16


chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ. Nếu một đất nước phát triển mạnh
về kinh tế, xã hội ổn định sẽ là điều kiện rất thuận lợi cho việc tổ chức thực thi các
chính sách.

Khi điều kiện kinh tế có sự thay đổi sẽ có tác động rất lớn đến việc thực thi
chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ. Nhằm phát huy được lợi thế của
kinh tế biển, Nhà nước cần phải đầu tư nguồn kinh phí để đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá. Do vậy yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến việc thực
thi các chính sách liên quan đến khai thác hải sản xa bờ. Do vậy, khi nên kinh tế phát
triển, Nhà nước có nguồn thu ngân sách cao, sẽ có nguồn kinh phí phân bổ ổn định
hàng năm cho việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản, nhằm tạo
điều kiện cho bà con ngư dân và các đối tượng chính sách có điều kiện thụ hưởng chính
sách, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, góp phần ổn định xã hội.
1.1.5.4. Yếu tố xã hội
Chúng ta biết rằng, một đất nước hòa bình, ổn định về an ninh chính trị, người
dân phấn khởi và tin tưởng, ủng hộ Đảng, Nhà nước, hăng say lao động sản xuất và đây
cũng là cơ sở là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển
sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, giúp cho việc tích lũy phúc lợi lớn hơn
để tiếp tục duy trì, thực hiện chính sách. Ngược lại, một xã hội bất ổn về an ninh chính
trị, xã hội luôn luôn biến động sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế đất nước, sẽ kéo nền
kinh tế phát triển chậm, ảnh hưởng đến nguồn lực để duy trì thực hiện chính sách.
Trong những năm gần đây, đất nước ta đã duy trì được sự ổn định về mặt xã hội;
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; kinh tế đã dần phục hồi và có
những bước phát triển ổn định, tạo điều kiện cho Đảng và Nhà nước ta tiếp tục duy trì,
và từng bước mở rộng, nâng cao các chính sách đối với ngư dân, giúp cho các đối tượng
phấn khởi, yên tâm và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, những thay đổi về các điều kiện xã hội như cơ cấu dân số, trình độ,
dân trí, cơ cấu gia đình,… của ngư dân cũng có thể ảnh hưởng đến các hoạt động khai
thác hải sản xa bờ. Vì vậy chính sách hỗ trợ phát triển khai thác hải sản xa bờ để giải
quyết những vấn đề liên quan đến ngư dân để phát triển kinh tế.
1.1.5.5. Yếu tố điều kiện tự nhiên
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai
17



quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa có nhiều đảo lớn nhỏ có thể xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ khai thác hải sản.
Vùng biển Việt Nam rộng khoảng 1 triệu km2, bao gồm vùng nước nội thủy,
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế có nhiều ngư trường lớn cho khai thác hải sản. Có thể
chia vùng biển Việt Nam thành 5 vùng nhỏ [29]:
Vịnh Bắc Bộ: tính từ vĩ tuyến 170N trở lên phía Bắc là một vịnh nông, có độ
sâu trung bình khoảng 38,5m và nơi sâu nhất ở của vịnh không quá 100m.
Vùng biển Trung Bộ: giới hạn từ vĩ độ 11030'N đến 170N. Đáy biển có độ dốc
và độ sâu lớn. Độ sâu thay đổi nhanh nhất ở khu vực từ Quy Nhơn đến Nha Trang,
đường đẳng sâu 200m nằm sát bờ, cách bờ 20-30 hải lý đã sâu 1.000 - 2.000m.
Vùng biển Đông Nam Bộ: giới hạn từ vĩ độ 60N - 11030'N. Đường bờ biển khúc
khuỷu lồi lõm, độ dốc đáy biển không lớn. Đường đẳng sâu 200m chạy rất xa bờ. Hệ
thống sông Cửu Long với nhiều cửa sông đổ ra biển nên chế độ dòng chảy rất phức tạp.
Vùng biển Tây Nam Bộ (Vịnh Thái Lan): giới hạn từ vĩ độ 6030'N - 11030'N, là
một vịnh kín, đáy hình lòng chảo nơi sâu nhất không quá 80m.
Vùng giữa Biển Đông: bao gồm khu vực phía Tây quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Đáy biển rất sâu, nhiều chỗ sâu 1.000 - 3.800m. Vùng ven các đảo có quần
thể san hô. Vùng biển này có thể khai thác cá ngừ đại dương, mực, cá nhám và các rạn
san hô.
Bên cạnh những yếu tố tự nhiên nêu trên, đặc điểm về trữ lượng, sinh học, ngư
trường, thời tiết, mùa vụ các nhân tố khác tác động đến khai thác hải sản thông qua
những biến động về sản lượng khai thác, tỷ lệ sinh sản, thời gian sinh sản, thời gian
sinh trưởng, tỷ lệ chết tự nhiên… Trữ lượng tính toán trên cơ sở khả năng sinh sản tự
nhiên, tỷ lệ chết tự nhiên và tỷ lệ khai thác do con người. Việc khai thác quá mức sẽ
làm giảm trữ lượng hải sản, do đó không thể gia tăng cường lực mãi mà phải gắn với
đặc điểm sinh học.
Sự thay đổi khí hậu có tác động đến các hệ sinh thái biển làm biến động nguồn
lợi cá biển vì vậy làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cộng đồng ngư dân khu
vực ven biển. Các ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu đối với môi trường và các

hệ thống kinh tế - xã hội có thể được đánh giá qua sự nhạy cảm, mức độ thích nghi và
mức độ dễ bị tổn thương của hệ thống. Tại Việt Nam, hiện chưa có các nghiên cứu đầy
18


đủ về tác động của biến đổi khí hậu đối với khai thác hải sản. Tuy nhiên, với những
nguy cơ và thách thức đang tiềm ẩn đối với lĩnh vực khai thác hải sản, các ảnh hưởng
tiềm tàng của biến đổi khí hậu có thể sẽ rất lớn. Các ảnh hưởng này phần nào đã được
thể hiện qua sự thiệt hại do bão gây ra đối với cộng đồng ngư dân ven biển trong
những năm gần đây.
1.1.5.6. Yếu tố nguồn lực: Con người, tài chính, cơ sở vật chất
Đặc điểm về chủ tàu, thuyền trưởng, máy trưởng, nhân công liên quan đến lao
động như trình độ văn hóa, thời gian làm nghề, truyền thống nghề, kinh nghiệm, sức
khỏe, bằng cấp.
Theo thống kê của Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản, lao động trực tiếp tham
gia khai thác hải sản ở Việt Nam chiếm khoảng 17% số lao động toàn ngành thủy sản
[30]. Nghề khai thác hải sản của Việt Nam là nghề tự phát, chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm theo kiểu “cha truyền con nối”, phương tiện khai thác nhìn chung lỗi thời, lạc hậu
và đặc điểm của ngành khai thác hải sản nặng nhọc, luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nên đòi hỏi
người lao động phải là nam giới, có sức khỏe. Hầu hết lao động tham gia khai thác hải sản
là ngư dân ven biển, trình độ văn hóa chưa học hết phổ thông, trình độ chuyên môn nghề
nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, do trình độ thấp nên hạn chế khả năng tiếp thu kiến
thức về quản lý, kỹ thuật đánh bắt và các khả năng chuyển đổi nghề.
- Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường sá, cầu cống, kết cấu hạ tầng giao thông, cầu,
cảng,... Đây là những điều kiện cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
chế biến, thu mua hải sản hoạt động.
- Cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá bao gồm: các khu dịch vụ để cung ứng xăng
dầu, nước đá, thức ăn, đồ uống; các thiết bị ngư lưới cụ, thiết bị khai thác; chợ bán sản
phẩm, cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền,...
1.1.5.7. Yếu tố thực hiện chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường

Trong hoạt động khai thác hải sản, thị trường đóng một vai trò hết sức quan
trọng, nó góp phần không nhỏ quyết định hiệu quả khai thác của từng chuyến biển. Do
đặc điểm của ngành khai thác hải sản xa bờ còn chịu ảnh hưởng của nhóm nhân tố thị
trường cả đầu vào lẫn đầu ra:
Thị trường đầu vào bao gồm: chi phí xăng, dầu, thức ăn, đá cây,... trong các chi
phí nêu trên thì chi phí về nhiên liệu chiếm tỷ trọng cao nhất (gần 80% tổng chi phí).
19


×