Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167 KB, 41 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nghĩa của từ

CNVCLĐ
BHXH

Công nhân viên chức lao động
Bảo hiểm xã hội

BHYT



Bảo hiểm y tế

BHTN
NLĐ
LĐLĐ
NLĐ
NSDLĐ

Bảo hiểm tự nguyện
Người lao động
Liên đoàn lao động

Người lao động
Người sử dụng lao động


PHẦN MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển của Cách mạng Việt Nam, sự lớn mạnh của
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Công đoàn Việt Nam đã thể
hiện rõ vai trò của mình đối với đất nước và xã hội, đó là tích cực tuyên truyền,
phổ biến và triển khai thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, đặc biệt là đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, thực
hiện công bằng xã hội. Nhiều phong trào thi đua do Công đoàn phát động, tổ

chức thực hiện đạt hiệu quả. Công đoàn cũng đã tích cực tham gia xây dựng
Đảng, bổ sung cho Đảng nhiều cán bộ trưởng thành từ phong trào công nhân và
hoạt động công đoàn. Quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Công đoàn Việt Nam với
các tổ chức công đoàn quốc tế, công đoàn các nước ngày càng mở rộng. Bước vào
thời kỳ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi vận hành theo cơ chế thị trường,
vì vậy, tính chất của quan hệ lao động so với nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây đã
thay đổi. Do có sự thay đổi về tính chất của quan hệ lao động, dẫn đến đã ảnh
hưởng trực tiếp đối với hoạt động của các tổ chức Công đoàn. Trước đây quan hệ
lao động là do Nhà nước và công nhân lao động tạo thành và lấy lợi ích chung làm
điểm xuất phát, còn hiện nay, quan hệ lao động là do doanh nghiệp và người lao
động tạo thành trên cơ sở hai bên giúp đỡ lẫn nhau cùng có lợi. Do tính chất quan
hệ lao động thay đổi, nên những xung đột trong quan hệ lao động những năm gần

đây ngày càng có xu hướng gia tăng. Cũng do sự thay đổi tính chất của quan hệ lao
động, đòi hỏi các tổ chức Công đoàn phải lấy lĩnh vực lao động làm lĩnh vực hoạt
động cơ bản và lấy việc điều hòa, ổn định quan hệ lao động làm nhiệm vụ xã hội
cơ bản. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Công đoàn
có vai trò điều hòa và ổn định quan hệ lao động xã hội, đây là vai trò không một tổ


chức nào khác có thể thay thế. Bởi vì, Công đoàn là đại diện một bên của quan hệ
lao động, thiếu Công đoàn không thể tạo thành quan hệ lao động hoàn chỉnh.
Chính sự điều tiết quan hệ lao động yêu cầu Công đoàn phải tham gia, bởi vì việc
điều tiết quan hệ lao động trong cơ chế thị trường là do hai bên trong quan hệ lao
động qua cơ chế thị trường tự điều tiết, không có sự tham gia của Công đoàn, quan

hệ lao động sẽ không thể vận hành bình thường. Hiện nay, có gần 10 triệu công
nhân đang làm việc trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó, có
trên 1,5 triệu công nhân làm việc tạicác khu công nghiệp, khu chế xuất, nơi được
áp dụng công nghệ tiên tiến, sảnxuất ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã luôn xác định: Phát triển đoàn viên,
xây dựng công đoàn trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm. Các cấp công đoàn, nhất là Công đoàn cơ sở
trong doanh nghiệp cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong công nhân, người
lao động và người sử dụng lao động về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, về tổ chức công đoàn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú; coi
trọng việc nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của người lao động để

kịp thời phản ánh, kiến nghị với cấp ủy, chính quyền đồng cấp nghiên cứu, giải
quyết. Tổ chức thực hiện các phong trào “xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” và
cuộc vận động “xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh công nghiệp”, các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể thao, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh... chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho người lao động; góp phần
xây dựng cơ sở đảng ở khu vực này.
Các cấp Công đoàn đã chủ động hướng dẫn, giúp đỡ Công đoàn cơ sở
trong các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức
hội nghị người lao động thương lượng với người sử dụng lao động ký thỏa ước


lao động tập thể theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Tổng Liên đoàn

Lao động Việt Nam nhằm bảo đảm các quyền lợi cơ bản của người lao động;
tham gia giải quyết có hiệu quả nhiều vụ tranh chấp lao động dẫn đến ngừng việc
tập thể và đình công tự phát, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại
doanh nghiệp. Công tác phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở và xây
dựng tổ chức công đoàn vững mạnh trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế được thực hiện và đã trở thành cuộc vận động sâu rộng trong tổ chức công
đoàn.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động của Công đoàn cơ sở
trong thực tiễn vẫn còn nhiều tồn tại hạn chế đó là: Vai trò tham gia quản lý, đại
diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động hiệu quả
còn thấp. Một bộ phận cán bộ công đoàn chưa thật sự có tâm huyết, trách nhiệm

với công tác công đoàn, chưa phát huy hết chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của
mình.
Từ các phân tích trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Vai trò của tổ chức công đoàn
cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” để làm bài tiểu luận của mình.
Ngoài danh mục các từ viết tắt, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì bài
tiểu luận được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Công đoàn cơ sở trong các
doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp.
Chương 3: Kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Công đoàn cơ
sở trong các doanh nghiệp.



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Vai trò của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp
1.1. Khái quát chung về vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp
Trong những năm qua, với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của tổ
chức công đoàn ngày càng mở rộng và được khẳng định. Công đoàn đã có mặt
trong tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Mọi hoạt động của
Công đoàn gắn liền với đời sống kinh tế, xã hội. Công đoàn vận động công nhân,

viên chức, lao động thi đua sản xuất, công tác, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh
kinh tế, nâng cao đời sống người lao động, làm giàu cho đơn vị và đất nước.
Công đoàn cũng đã góp phần to lớn vào việc ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội, chăm lo xây dựng giai cấp công nhân, người lao động ngày càng
vững mạnh, bởi đây là giai cấp tiên phong, lực lượng nòng cốt trong liên minh
công, nông, trí, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Công đoàn tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, xây dựng và
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị mà Công đoàn là một thành
viên rất quan trọng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Về văn hoá - xã hội, hoạt động của Công đoàn góp phần chăm lo xây
dựng, bảo đảm sự thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân; làm cho giai



cấp công nhân thực sự là giai cấp lãnh đạo cách mạng, quyết định quá trình
phát triển và tiến bộ của xã hội.
Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước và đội ngũ công nhân, lao động
trong khu vực này có xu hướng giảm dần; công nhân, lao động trong các thành
phần kinh tế khu vực ngoài quốc doanh ngày càng tăng. Tuy nhiên, sự gia tăng về
số lượng chưa phản ánh được đầy đủ sự lớn mạnh của giai cấp công nhân và tổ
chức công đoàn. Hoạt động của các tổ chức công đoàn đã và đang góp phần giáo
dục xây dựng giai cấp công nhân, người lao động trở thành một lực lượng đoàn
kết, thống nhất, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, nêu cao ý thức
cảnh giác cách mạng của công nhân, viên chức, lao động, kiên quyết đấu tranh
chống âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực phản động, thù địch nhằm phá

hoại những thành quả của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo;
Công đoàn giáo dục và rèn luyện nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật, nâng cao trình
độ học vấn, tay nghề và năng lực làm chủ khoa học công nghệ, đề cao và phát
huy những giá trị cao đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại để xây dựng giai cấp công nhân, lao động thực sự xứng đáng là
giai cấp tiên phong, lãnh đạo cách mạng. Với vai trò đó, một mặt, Công đoàn
phải tôn trọng, đề cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao
động, góp phần thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức quản lý
kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước; mặt khác, phát huy dân chủ, Công đoàn tích
cực tham gia xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới, góp phần làm
cho kinh tế quốc doanh giữ vững vai trò chủ đạo, phát triển, đồng thời khuyến
khích các thành phần kinh tế khác.

Trong cơ chế thị trường, do cạnh tranh về kinh tế, người sử dụng lao động
dù vô tình hay cố tình, còn vi phạm lợi ích chính đáng của người lao động. Công
đoàn là tổ chức chính trị xã hội của công nhân và lao động trong doanh nghiệp,


có vị trí là người đại diện hợp pháp duy nhất cho người lao động trong quan hệ
lao động với người sử dụng lao động. Trong mối quan hệ đó, Công đoàn và chủ
doanh nghiệp đảm bảo sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh nhằm giải quyết hài hoà quyền và lợi ích của mỗi bên trong quan hệ lao
động. Nội dung và mục đích của mối quan hệ giữa Công đoàn và người sử dụng
lao động là nhằm làm cho doanh nghiệp phát triển, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp chính đáng của công nhân, lao động. Công đoàn có trách nhiệm phối hợp

với người sử dụng lao động vận động đoàn viên, công nhân, lao động sản xuất
với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao nhất ... đảm bảo sự ổn định và phát
triển bền vững của doanh nghiệp; tạo cơ sở ổn định việc làm, cải thiện điều
kiện làm việc và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Trong mối quan hệ với người sử dụng lao động, Công đoàn vừa phải xây
dựng quan hệ đoàn kết hợp tác vừa phải đấu tranh bảo vệ cho được quyền lợi của
công nhân, lao động nhưng phải theo hướng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, góp phần giải quyết vấn đề việc làm, đời sống người lao động. Đây
thực sự là mối quan hệ khó khăn, tế nhị và phức tạp trong điều kiện phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Công đoàn còn có nghĩa vụ giáo dục cho công nhân, người lao động hiểu
rõ và thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động, về quan hệ với

người sử dụng lao động. Mối quan hệ này có tính chất quan hệ chủ - thợ, Công
đoàn cần vừa đấu tranh, vừa hợp tác vì lợi ích hợp pháp của công nhân, lao động
và lợi ích chung của xã hội.
Với tư cách là người đại diện cho người lao động, Công đoàn còn có trách
nhiệm tham gia xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, ổn định, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người lao động. Khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao
động được bảo vệ, người lao động sẽ tự nguyện, nhiệt tình, hăng hái hoạt động


Công đoàn, làm cho vai trò của Công đoàn ngày càng có ảnh hưởng tích cực hơn
đối với doanh nghiệp nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung.
Có thể thấy, hoạt động đại diện và bảo vệ cho người lao động vừa là chức

năng, vai trò vừa là nhiệm vụ của tổ chức công đoàn. Những nhiệm vụ này đã được
thể chế trong các văn bản pháp luật của nhà nước như Hiến pháp, Luật Công đoàn,
Bộ luật Lao động và được chi tiết hóa thành những nhiệm vụ trực tiếp của tổ chức
công đoàn trong suốt quá trình hoạt động. Đây là những nhiệm vụ trọng tâm mà
công đoàn cần phải thực hiện trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay.
Hơn nữa, vai trò của Công đoàn cơ sở nói riêng và các cấp công đoàn nói
chung cũng đã được pháp luật Việt Nam quan tâm và quy định khá rõ ràng. Cụ thể,
theo điều 188 Bộ Luật lao động năm 2012 quy định:
“1. Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động, tham gia, thương
lượng, ký kết và giám sát việc thỏa ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương,

định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế
dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp
lao động, đối thoại, hợp tác với người sử dụng lao động xây dựng quan hệ hài
hòa, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức.
2. Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, có trách nhiệm hỗ trợ công đoàn cơ
sở thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định tại khoản 1 Điều này, tuyên
truyền giáo dục nâng cao hiểu biết về pháp luật về lao động, pháp luật về công
đoàn cho người lao động.
3. Ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên
trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như quy định tại khoản 1 Điều này



4. Tổ chức công đoàn các cấp tham gia với cơ quan quản lý nhà nước cùng
cấp và tổ chức đại diện người sử dụng lao động để trao đổi, giải quyết các vấn đề
về lao động.”
Vai trò và lợi ích của tổ chức Công đoàn đối với người lao động
Nếu trong doanh nghiệp tổ chức được Công đoàn cơ sở, thì tổ chức này sẽ
đại diện tham gia giám sát doanh nghiệp trong việc ký kết Hợp đồng lao động
cho người lao động. Bên cạnh đó, Công đoàn cơ sở còn chủ động phối hợp cùng
doanh nghiệp xây dựng thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, đôn đốc
doanh nghiệp mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động.
Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp cũng là nơi giải quyết những
khúc mắc của người lao động với doanh nghiệp, tham gia ý kiến với doanh
nghiệp trong việc tổ chức bữa ăn ca cho người lao động, đóng góp ý kiến với

doanh nghiệp về môi trường làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của
người lao động; đề nghị doanh nghiệp kiểm tra lại hệ thống thông gió, chống
nóng, hạn chế tiếng ồn và trang bị đầy đủ thiết bị bảo hộ lao động theo đúng công
việc cho người lao động...
Vai trò và lợi ích của tổ chức Công đoàn cơ sở đối với doanh nghiệp
Công đoàn cơ sở sẽ trực tiếp tham gia hỗ trợ người sử dụng lao động xây
dựng nội quy lao động, bảng lương, thỏa ước lao động tập thể. Khi doanh nghiệp
phải thay đổi cơ cấu hoặc cải tiến công nghệ, tổ chức công đoàn có thể giúp
doanh nghiệp sắp xếp lao động một cách hợp lý để phát huy tối đa hiệu quả của
nguồn lực lao động, cũng như chấm dứt hợp đồng lao động đối với những trường
hợp không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Khi có tranh chấp xảy ra như đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kỷ

luật lao động, đình công…, Công đoàn cơ sở sẽ tổ chức đối thoại nhằm dung hòa


lợi ích của người lao động với người sử dụng lao động trên tư cách là một chủ thể
độc lập, trung gian giải quyết tranh chấp lao động. Khi có tổ chức công đoàn,
doanh nghiệp sẽ có "người" giám sát thực hiện các quy định của pháp luật về chế
độ của người lao động, từ đó sẽ hạn chế mạnh tai nạn lao động, công nhân hoặc
người lao động bỏ việc, làm việc không hết trách nhiệm, không tôn trọng cam
kết, thoả ước lao động...
Khi vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp được phát huy
hiệu quả thì phong trào sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp được đẩy mạnh,
sẽ đem lại những lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp cũng như người lao động

trong doanh nghiệp. Đồng thời, tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển bền vững
và xây dựng đội ngũ lao động vững mạnh, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, uy
tín, hình ảnh, thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường.
Bên cạnh đó, Công đoàn cơ sở còn đóng một vai trò quan trọng trong việc
tham gia xây dựng các tiêu chí văn hoá của doanh nghiệp, tuyên truyền sâu rộng
nhằm góp phần xây dựng văn hoá ở doanh nghiệp. Cụ thể, Công đoàn cơ sở tham
gia với lãnh đạo đặt ra một định hướng và tầm nhìn mang tính chiến lược của
doanh nghiệp (đây cũng chính là để thực hiện chức năng tham gia quản lý). Dựa
vào hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp, cũng như những mặt mạnh, mặt
yếu, những cơ hội, khó khăn mà doanh nghiệp đang và sẽ phải đối mặt để góp ý
với lãnh đạo nên tập trung nguồn lực vào đâu, đầu tư vào đâu, áp dụng các biện
pháp quản lý nào để doanh nghiệp có thể phát triển bền vững. Công đoàn cơ sở

cũng tham gia thực hiện khen thưởng trên cơ sở công bằng và tạo ra môi trường
làm việc trong sạch, cởi mở, dân chủ. Để làm được việc này, tổ chức công đoàn
cơ sở cần tham mưu và tham gia cùng lãnh đạo xây dựng quy chế khen thưởng rõ
ràng trên cơ sở đánh giá hiệu quả công việc. Khen thưởng ở đây không chỉ là
khen thưởng vật chất mà còn bao hàm cả về mặt tinh thần. Đó là lời khen ngợi


chân thành, lời động viên khích lệ đúng lúc, đúng chỗ của lãnh đạo đối với người
lao động. Khen thưởng không công bằng sẽ phản tác dụng và chắc chắn sẽ huỷ
hoại danh tính, hình ảnh của người lãnh đạo, của doanh nghiệp trong con mắt
người lao động. Môi trường làm việc trong sạch, cởi mở, dân chủ là yếu tố cơ bản
của văn hoá doanh nghiệp. Đây chính là những nội dung của quy chế dân chủ mà

công đoàn tham gia cùng lãnh đạo doanh nghiệp xây dựng và chỉ đạo thực hiện.
1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp
1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp Nhà nước
Theo điều 19 Điều lệ Công đoàn Việt Nam 2013 có quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của các tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp Nhà nước, cụ
thể:
- Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn và nghĩa vụ của người lao
động; vận động người lao động chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội
quy, quy chế của doanh nghiệp và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

- Phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở
doanh nghiệp, tổ chức các hình thức thực hiện dân chủ tại nơi làm việc; đại diện
cho tập thể lao động thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao
động tập thể; tham gia xây dựng điều lệ hoạt động, các nội quy, quy chế, phương
án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; xây dựng, ký kết quy chế phối hợp hoạt
động với Giám đốc doanh nghiệp.
- Tập hợp yêu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, người
lao động; tổ chức đối thoại giữa người lao động và Giám đốc doanh nghiệp; hướng


dẫn người lao động giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc; cử đại diện
tham gia các hội đồng xét và giải quyết các quyền lợi của đoàn viên, người lao

động; tham gia với Giám đốc giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện làm việc,
chăm sóc sức khỏe người lao động, nâng cao thu nhập, đời sống và phúc lợi của
đoàn viên, người lao động; vận động đoàn viên, người lao động tham gia các hoạt
động văn hóa, thể thao, xã hội, tương trợ giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp, khi khó
khăn, hoạn nạn và đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, ngăn chặn các tệ nạn xã
hội.
- Giám sát việc thi hành pháp luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
Công đoàn, đoàn viên, người lao động; tham gia giải quyết tranh chấp lao động,
thực hiện các quyền của Công đoàn cơ sở, tổ chức và Lãnh đạo đình công theo
đúng quy định của pháp luật; tổ chức, quản lý mạng lưới an toàn, vệ sinh viên và
giám sát công tác an toàn vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động
trong doanh nghiệp; phát động, phối hợp tổ chức các phong trào thi đua trong

doanh nghiệp.
- Phát triển, quản lý đoàn viên; xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh và
tham gia xây dựng Đảng.
- Quản lý tài chính, tài sản của công đoàn theo quy định của pháp luật và tổ
chức Công đoàn.
Như vậy, có thể thấy, trong các doanh nghiệp Nhà nước thì công đoàn cơ sở
đóng vai trò là tổ chức quan trọng trong việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa,
ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp, vừa đảm bảo quyền lợi của Người lao động,
cũng vừa đảm bảo quyền lợi cho Người sử dụng lao động. Từ đó, tạo tiền đề cho
quan hệ lao động phát triển dựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa NLĐ và NSDLĐ



1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức Công đoàn cơ sở trong các hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã
Theo điều 21 Điều lệ Công đoàn Việt Nam 2013
- Tuyên truyền, phổ biến và vận động thành viên, người lao động thực hiện
tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
của tổ chức Công đoàn, Nghị quyết Đại hội thành viên và điều lệ hợp tác xã.
- Đại diện người lao động thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện
thỏa ước lao động tập thể; hướng dẫn người lao động (không phải là thành viên)
giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc. Giám sát Hội đồng Quản trị thực
hiện chế độ, chính sách, phân phối thu nhập, lợi nhuận đối với thành viên.
- Tham gia với Hội đồng Quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc) để có biện
pháp cải thiện điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe người lao động, nâng cao thu

nhập, đời sống, phúc lợi của thành viên và người lao động; tham gia giải quyết
tranh chấp lao động; thực hiện các quyền của Công đoàn cơ sở về tổ chức và Lãnh
đạo đình công; tổ chức, quản lý mạng lưới an toàn vệ sinh viên và giám sát công
tác an toàn, vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động trong hợp tác xã;
vận động thành viên và người lao động tham gia các hoạt động, văn hóa, thể thao,
hoạt động xã hội, giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp, khi khó khăn, hoạn nạn.
- Phát triển, quản lý đoàn viên; xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh và
tham gia xây dựng Đảng.
- Quản lý tài chính, tài sản của Công đoàn theo quy định của pháp luật và
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức Công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp ngoài Nhà nước



Theo điều 22 Điều lệ Công đoàn Việt Nam 2013
- Tuyên truyền, phổ biến, vận động người lao động thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của tổ chức Công
đoàn và nội quy, quy chế của doanh nghiệp.
- Đại diện tập thể lao động thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện
thỏa ước lao động tập thể; phối hợp với người sử dụng lao động hoặc đại diện
người sử dụng lao động thực hiện quy chế dân chủ, mở hội nghị người lao động,
xây dựng và ký kết quy chế phối hợp hoạt động; hướng dẫn người lao động giao
kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc. Đại diện cho tập thể lao động tham gia
giải quyết các tranh chấp lao động, thực hiện các quyền của Công đoàn cơ sở, tổ

chức và Lãnh đạo đình công theo quy định của pháp luật.
- Tập hợp yêu cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và
người lao động; tổ chức đối thoại giữa người lao động và người sử dụng lao động;
phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức các phong trào thi đua, phát triển sản
xuất kinh doanh chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với người lao động; vận
động người lao động tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, hoạt động xã hội,
hỗ trợ giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, đấu tranh ngăn chặn các
tệ nạn xã hội.
- Giám sát việc thực hiện pháp luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ người
lao động và Công đoàn; tham gia các hội đồng của doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật và điều lệ doanh nghiệp; tham gia xây dựng các nội quy, quy chế có liên
quan đến quyền, lợi ích của người lao động; tổ chức, quản lý mạng lưới an toàn, vệ

sinh viên và giám sát công tác an toàn vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe người
lao động trong doanh nghiệp.


- Phát triển, quản lý đoàn viên; xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh và
tham gia xây dựng Đảng.
- Quản lý tài chính, tài sản của Công đoàn theo quy định của pháp luật và
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ VIỆT NAM

HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hoạt động của các tổ chức Công đoàn ở nước ta hiện nay
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, lực lượng CNVCLĐ
của nước ta tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu lao động thay đổi theo
hướng giảm ở khu vực nhà nước và tăng nhanh ở khu vực ngoài nhà nước. Chất
lượng CNVCLĐ được nâng lên nhiều mặt: tuổi đời trẻ, được đào tạo cơ bản, có tác
phong làm việc công nghiệp, kỷ luật lao động, có tay nghề và khả năng tiếp cận
khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại. Đa số CNVCLĐ có phẩm chất đạo đức tốt,
bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng, ủng hộ và quyết tâm thực hiện đường lối
của Đảng. Tuy nhiên, vẫn còn bộ phận CNVCLĐ ngoài khu vực nhà nước ít quan
tâm đến chính trị, hiểu biết pháp luật còn hạn chế.
Trong những năm gần đây, nước ta kêu gọi đầu tư, mở rộng các khu công

nghiệp ở các thành phố cũng như khu vực nông thôn, mỗi năm giải quyết việc làm
cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, do tình hình suy giảm kinh tế, một số doanh
nghiệp thu hẹp sản xuất, ngừng hoạt động hoặc giải thể nên một bộ phận CNVCLĐ
thiếu việc làm. Về việc tăng lương tối thiểu vùng đã được tăng lên theo nghị định
153/2016/NĐ – CP của Chính phủ. Tiền lương tăng nhưng mức sống chưa được cải
thiện vì giá cả tiêu dung tăng nhanh hơn tiền lương, do đó, phần lớn CNVCLĐ đời
sống khó khăn, không có điều kiện tích lũy. CNVCLĐ tại các khu công nghiệp
phải sống trong những khu nhà trọ tạm bợ, thiếu thốn, không có điều kiện sinh hoạt
văn hóa tinh thần.
Việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT),
bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đối với CNVCLĐ ở cơ quan hành chính, đơn vị sự



nghiệp đạt 98%. Tại các khu công nghiệp và chế xuất, hơn 80% CNVCLĐ được
tham gia BHXH, BHYT, BHTN. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp đóng bảo
hiểm theo mức lương tối thiểu, một số doanh nghiệp áp dụng theo mức lương làm
căn cứ ký hợp đồng lao động đã gây thiệt thòi cho người lao động (NLĐ). Tình
trạng doanh nghiệp chiếm dụng, đóng chậm, nợ BHXH với số tiền hàng chục tỷ
đồng đã xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của NLĐ.
2.2. Vai trò của Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
2.2.1. Vai trò của công đoàn cơ sở với chế độ việc làm, tiền lương và thu nhập
của người lao động
Theo khoản 2 Điều 44 Bộ luật Lao động 2012, trong trường hợp vì lí do kinh
tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc, thì người sử

dụng lao động có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động
theo qui định Điều 46 của Bộ luật này; trong trường hợp người sử dụng lao động
không thế giải quyết được việc làm mà phải cho người lao động thôi việc thì phải
trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động theo quy định tại điều 49 của Bộ luật
này. Việc cho thôi việc đối với nhiều người lao động theo quy định tại điều này chỉ
được tiến hành sau khi đã trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và
thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.
Theo điều 129 Bộ Luật lao động 2012 cũng cho phép người sử dụng lao
động được quyền tạm đình chỉ công việc của người lao động trong trường hợp cần
thiết theo luật định. Nhưng để đảm bảo an toàn cho lợi ích của người lao động
trong trường hợp này thì pháp luật cũng quy định thêm: “ Việc tạm đình chỉ công
việc của người lao động chỉ được thực hiện sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức

đại diện tập thể lao động tại cơ sở”. Điều này khẳng định tổ chức công


đoàn cơ sở là tổ chức của người lao động, đại diện cho tập thể lao động và thiết
thực bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Mặt khác, điều mà người lao động quan tâm trên hết khi tham gia vào quan
hệ lao động không gì khác hơn là tiền lương và thu nhập. Theo điều 90 Bộ Luật lao
động 2012 thì:
- Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao
động để thực hiện công việc theo thỏa thuận.
Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp
lương và các khoản bổ sung khác.

Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu
do Chính phủ quy định.
- Tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào năng suất lao động và chất
lượng công việc.
- Người sử dụng lao động phải đảm bảo trả lương bình đẳng, không phân
biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau.
Tổ chức công đoàn là tổ chức đại diện và trực tiếp bảo vệ quyền lợi tập thể
của người lao động trong các doanh nghiệp. Vai trò của Công đoàn trong việc
đảm bảo tiền lương cho người lao động tức là Công đoàn vừa thực hiện chức
năng bảo vệ lợi ích vừa phát huy chức năng tham gia quản lý kinh tế, bởi tiền
lương luôn gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Đây là một trong
những nội dung quan trọng trong hoạt động bảo vệ lợi ích người lao động của

Công đoàn. Để thực hiện tốt vai trò này của Công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp, Điều 93 Bộ luật Lao động 2012 quy định : "Khi xây dựng thang lương,


bảng lương, định mức lao động, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của
Ban chấp hành Công đoàn cơ sở".
Như vậy, để đảm bảo cho người lao động trong các doanh nghiệp được trả
lương xứng đáng với sức lao động của họ bỏ ra, Công đoàn cơ sở cần chủ động
nghiên cứu đặc điểm sản xuất, quy trình công nghệ, tổ chức lao động để góp ý
kiến với Ban Giám đốc lựa chọn hình thức trả lương hợp lý.
Một việc thiết thực khác để bảo vệ người lao động trong doanh nghiệp là
Công đoàn cơ sở phải tham gia xây dựng định mức lao động ở các doanh nghiệp.

Trong các doanh nghiệp, định mức lao động thường được nâng lên rất cao nhằm
đạt mục tiêu của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc gia tăng định mức để tính
lương sản lượng, hoặc việc thuê lao động thời vụ để chạy kịp tiến độ đơn hàng sẽ
là một trong những yếu tố không nhỏ gây ảnh hưởng đến thu nhập của người lao
động.
Để bảo vệ người lao động, Công đoàn nên thường xuyên tổ chức cho công
nhân lao động bàn bạc và trao đổi về tình hình thực hiện thực hiện định mức lao
động qua từng thời gian, theo dõi và kiểm tra việc xây dựng định mức của các
doanh nghiệp. Việc xây dựng định mức lao động phải có căn cứ kỹ thuật, đảm
bảo tính hiện thực, phải phù hợp với khả năng của người lao động, với điều kiện
sản xuất kinh doanh và tiền lương thu nhập của họ.
2.2.2. Vai trò của Công đoàn cơ sở trong đảm bảo điều kiện lao động

Công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp là tổ chức đại diện cho quyền lợi
của người lao động. Công đoàn cơ sở thông qua thỏa ước lao động tập thể thông
qua quyền thương lượng đối với chủ doanh nghiệp để thực hiện vai trò của mình
trong việc đảm bảo điều kiện lao động và an toàn vệ sinh lao động cho người lao
động.


2.2.2.1. Đảm bảo điều kiện lao động
Các điều kiện lao động được đề cập ở đây bao gồm những phương tiện,
công cụ, trang thiết bị, máy móc, các điều kiện về nhà xưởng, không gian để
người lao động làm việc và những điều kiện đáp ứng nhu cầu tinh thần, nhu cầu
giao tiếp xã hội của người lao động.

Những doanh nghiệp quan tâm đến sức khỏe người lao động đều phải xây
dựng đầy đủ các điều kiện lao động, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động. Điều này
không chỉ giúp người lao động hoàn thành công việc, đảm bảo sức khỏe, mà còn
làm cho họ cảm thấy an toàn, từ đó gắn bó với công ty, tăng động lực làm việc.
Bên cạnh sự quan tâm đầu tư của chủ doanh nghiệp, tổ chức công đoàn cơ sở có
nhiệm vụ là người đại diện cho quyền lợi người lao động, đồng thời là người trực
tiếp tham gia sản xuất có quyền đề nghị, đề xuất về công tác trang bị các phương
tiện, công cụ phục vụ, bảo hộ lao động, các yêu cầu về môi trường không gian
làm việc hay là các chế độ phụ cấp độc hại kèm theo.
Điều kiện lao động đối với người lao động không chỉ dừng lại ở việc trang
bị máy móc, các dụng cụ trang thiết bị cá nhân, môi trường làm việc lao động,
mà cả các chế độ chính sách của công ty, doanh nghiệp đối với nhu cầu văn hóa

tinh thần của người lao động, thậm chí là đảm bảo các mối quan hệ xã hội của
người lao động như nhà ở, trường học cho con cái, nhu cầu giao tiếp xã hội...
2.2.2.2. Đảm bảo an toàn vệ sinh lao động
Bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh lao động luôn luôn là một nội dung
rất quan trọng của pháp luật lao động, là một biện pháp chủ yếu về cải thiện điều
kiện lao động. Với nhận thức con người là vốn quý nhất, Đảng và Nhà nước ta
càng đề cao yêu cầu đảm bảo an toàn lao động, bảo vệ sức khoẻ của người lao
động, gắn liền với sản xuất theo phương châm "an toàn để sản xuất, sản xuất phải


an toàn". Công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động mang tính quần chúng rộng
rãi, do vậy chúng là một nội dung quan trọng thuộc chức năng bảo vệ quyền và

lợi ích người lao động của tổ chức công đoàn. Theo điểm c khoản 2 Điều 14 Luật
công đoàn 2012, trường hợp phát hiện nơi làm việc có yếu tố ảnh hưởng hoặc nguy
hiểm đến sức khoẻ, tính mạng người lao động, Công đoàn có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có trách nhiệm thực hiện ngay biện pháp
khắc phục, bảo đảm an toàn lao động, kể cả trường hợp phải tạm ngừng hoạt động.
Hiện nay, người sử dụng lao động và người lao động đã từng bước nâng
cao nhận thức trách nhiệm của mình trong đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động,
nhưng trên thực tế, tai nạn lao động xảy ra đáng lo ngại, tai nạn lao động chết
người có xu hướng gia tăng. Một số cơ sở cố tình vi phạm các quy định của pháp
luật về bảo hộ lao động, công nhân làm việc trong điều kiện mất an toàn dẫn đến
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Mặt khác, môi trường lao động bị ô nhiễm
nghiêm trọng, nồng độ các chất độc hại, các yếu tố nguy hiểm rất cao vượt quá

giới hạn cho phép nhiều lần mà chưa được cơ quan Nhà nước giải quyết, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người lao động và năng suất công việc cần
thực hiện.
2.2.3. Vai trò của Công đoàn cơ sở trong việc nâng cao đời sống vật chất, văn
hóa tinh thần cho người lao động
Tại Việt Nam , vai trò của tổ chức công đoàn thể hiện mạnh nhất và rõ nhất
ở các hoạt động về nâng cao đời sống, vật chất, văn hóa tinh thần cho người lao
động.
Tại các doanh nghiệp, các hoạt động này thường được tạo điều kiện và các
tổ chức công đoàn cơ sở rất thuận lợi trong việc tiến hành các hoạt động nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần cho người lao động. Bên cạnh vai trò, trách nhiệm của



tổ chức công đoàn thì các hoạt động trên cũng được các nhà quản lý, các chủ
doanh nghiệp rất quan tâm, bởi vì, khái niệm văn hóa tổ chức ngày càng được các
nhà quản trị Việt Nam coi trọng trong việc nâng cao hiệu quả điều hành quản lý
doanh nghiệp.
Các hoạt động thường thấy ở các doanh nghiệp như là các hội thi, hội thao
do doanh nghiệp tự tổ chức hoặc phong trào cấp thành phố phát động. Đa phần
Công đoàn cơ sở của các doanh nghiệp đều tổ chức tham quan, dã ngoại hoặc có
chế độ tiền thưởng cho lao động hàng năm vào các dịp lễ, tết.
Ngoài ra Liên đoàn Lao động các thành phố phối hợp với các cụm công
nghiệp, các khu chế xuất, các tổ chức công đoàn cơ sở tổ chức nhiều hoạt động
có chiều sâu, mang lại những hiệu quả thiết thực như: Lễ phát động “Tháng Công

nhân”, tuyên dương CNVCLĐ tiêu biểu, Hội thao truyền thống CNVCLĐ thành
phố; Hội diễn nghệ thuật quần chúng; Hội thi “Tiếng hát công nhân lao động”,
“Ngày hội công nhân các khu công nghiệp và khu chế xuất”, “Ngày pháp luật”,
chương trình bán hàng bình ổn giá, trao nhà “Mái ấm Công đoàn”, trợ cấp
CNVCLĐ khó khăn. Quỹ “Mái ấm Công đoàn” đã thực sự thu hút được sự tham
gia của nhiều đoàn viên, lao động và đem lại hiệu quả thiết thực. Nhiều công nhân
đã được hưởng lợi từ nguồn quỹ này để sử dụng vào việc xây dựng, sửa chữa nhà
ở, hay trang bị ti vi, điện, nước tại các khu nhà ở tập thể của công nhân.
2.2.4. Vai trò của Công đoàn cơ sở trong việc thương lượng và ký kết thỏa ước
lao động tập thể
Công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp có quyền đề xuất yêu cầu ký kết và
dự thảo nội dung thỏa ước lao động tập thể. Ban chấp hành Công đoàn cơ sở có

quyền dự họp thương lượng. Chủ tịch Công đoàn cơ sở có quyền cùng người sử


dụng lao động chủ trì hội nghị thảo luận, thương lượng và ký kết thoả ước lao
động tập thể với người sử dụng lao động.
Công đoàn cơ sở có quyền phối hợp với người sử dụng lao động kiểm tra,
xem xét và xử lý những trường hợp làm trái với thoả ước lao động tập thể đã ký
kết, phát hiện những vướng mắc, tồn tại để kiến nghị, thương lượng với người sử
dụng lao động giải quyết kịp thời. Trong quá trình thực hiện thoả ước lao động tập
thể, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở có quyền tiến hành thương lượng với người
sử dụng lao động để bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế thoả ước lao động tập thể.
Theo Điều 73 Bộ luật Lao động 2012, thoả ước lao động tập thể là văn bản

thoả thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao
động mà 2 bên đã đạt được thông qua thương lượng tập thể. Thỏa ước tập thể do
đại diện tập thể lao động và người sử dụng lao động thương lượng và kí kết theo
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và công khai. Nội dung thỏa ước tập thể không
được trái với quy định của pháp luật lao động và pháp luật khác. Nhà nước khuyến
khích việc ký kết thỏa ước tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao
động so với quy định của pháp luật lao động.
Theo Điều 74 Bộ luật Lao động, thì đại diện thương lượng thoả ước tập thể
của hai bên gồm: Bên tập thể lao động là Ban chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc tổ
chức công đoàn lâm thời; Bên người sử dụng lao động là “người đại diện theo pháp
luật” của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Số lượng đại diện thương lượng thoả ước
tập thể của các bên do hai bên thoả thuận nhưng phải ngang nhau. Đại diện ký kết

của bên tập thể lao động là Chủ tịch Ban chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc người
có giấy uỷ quyền của Ban chấp hành Công đoàn. Đại diện ký kết của bên người
sử dụng lao động là Giám đốc doanh nghiệp hoặc người có giấy uỷ quyền của
Giám đốc doanh nghiệp. Việc ký kết thoả ước tập thể chỉ được tiến hành khi có
trên 50% số người của tập thể lao động trong doanh nghiệp tán thành nội dung


thoả ước đã thương lượng và có trên 50% đại diện Ban chỉ huy Công đoàn cơ sở
biểu quyết đồng ý.
Thông qua thỏa ước lao động tập thể, mỗi bên đều có quyền đề xuất yêu
cầu ký kết và nội dung thoả ước tập thể. Khi nhận được yêu cầu, bên nhận yêu
cầu phải chấp nhận việc thương lượng và phải thoả thuận thời gian bắt đầu

thương lượng chậm nhất 20 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nội dung chủ
yếu của thoả ước tập thể gồm những cam kết về việc làm và bảo đảm việc làm;
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương;
định mức lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với
người lao động (theo quy định của Điều 46 Bộ luật Lao động).
2.2.5. Vai trò của Công đoàn cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp lao động và
đình công
Tranh chấp lao động và đình công là phản ứng cao nhất của người lao động
đối với người sử dụng lao động khi những quyền và lợi ích chính đáng của họ bị
xâm phạm. Theo khoản 7 Điều 3 Bộ luật Lao động 2012: “Tranh chấp lao động là
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao
động. Tranh chấp lao động gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa những người lao

động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể người
lao động với người sử dụng lao động”.
Đình công là đấu tranh có tổ chức của tập thể người lao động trong doanh
nghiệp hay một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp bằng cách cùng nhau nghỉ việc
nhằm yêu cầu người sử dụng lao động đáp ứng những quyền và lợi ích hợp pháp
phát sinh trong quan hệ lao động.
Có thể nói, đình công là biện pháp trực tiếp, mạnh mẽ nhất của người lao
động để đòi thực hiện đúng các nghĩa vụ của người sử dụng lao động theo pháp


luật, nhất là đòi thoả mãn những yêu sách của người lao động về tiền lương, điều
kiện làm việc và những đảm bảo xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của họ. Tập thể người lao động chỉ được tiến hành đình công khi tranh chấp lao
động giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động đã được giải quyết theo
trình tự giải quyết tranh chấp lao động mà họ vẫn không thoả mãn. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam, thì chỉ chấp nhận Công đoàn là tổ chức duy nhất có
quyền khởi xướng và lãnh đạo cuộc đình công hợp pháp.
Theo khoản 1 Điều 213 Bộ luật Lao động 2012 quy định: “Khi có trên 50%
số người được lấy ý kiến đồng ý với phương án của Ban chấp hành công đoàn đưa
ra thì Ban chấp hành công đoàn ra quyết định đình công bằng văn bản”. Như vậy,
pháp luật Việt Nam đã thừa nhận quyền đình công của người lao động thông qua
sự tổ chức của công đoàn cơ sở. Có thể nói, tổ chức đình công là một quyền đặc
biệt của công đoàn cơ sở. Đây là vai trò to lớn của công đoàn bở vì công đoàn phải
làm sao đảm bảo cho tập thể lao động thực hiện được quyền đình công hợp pháp,

đồng thời hạn chế những cuộc đình công bất hợp pháp, tránh gây mất ổn định trong
quan hệ lao động và trật tự an toàn xã hội.
Người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế Nhà
nước thường cố tình tránh né thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định
của pháp luật lao động, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, đối xử thô bạo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao động, lối
quản lý cửa quyền, hách dịch đã gây nên căm phẫn trong tập thể người lao động
và tất yếu sẽ phát sinh tranh chấp lao động. Về phía người lao động, những yêu
cầu do họ đưa ra trong các cuộc tranh chấp hầu hết là chính đáng. Tuy nhiên,
hình thức đấu tranh còn thiếu tính tổ chức và mang tính tự phát, trình độ của
người lao động còn thấp lại không am hiểu pháp luật, nên họ còn lúng túng trong



×