PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất
cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân
dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong
sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của
nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là
niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi con người Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là thuật ngữ dùng để đề cập về những tư
tưởng của Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam đúc kết lại, sử dụng
như là hệ thống tư tưởng chính tại Việt Nam hiện nay, bên cạnh chủ nghĩa
Mác-Lênin. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn tăng
cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, cùng với những mặt
tích cực của cơ chế thị trường, những tác động tiêu cực đang xói mòn đạo
đức, đời sống văn hóa của nhân dân ta. Song, Đảng ta nhất quán cho rằng:
Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước
1
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và “phát triển con người với tư
cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới
đất nước... Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người
là mục tiêu phấn đấu của chế độ ta”
2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON
NGƯỜI
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa
là thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc
sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người:
“Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ
Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng.
Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn
cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách
nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô
cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi
cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể
phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân,
Người viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên
lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống
riêng của bản thân và của gia đình mình”. Trong quan điểm về thực hiện một
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân
chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải
được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp
luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn
tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người
trên toàn thế giới.
3
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm
trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến
một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo
khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc
Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là
những “người nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”. Tấm lòng Hồ Chí Minh
luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người,
tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và
nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, “lòng thương yêu nhân dân, thương
yêu nhân loại” là “không bao giờ thay đổi”. Người có một niềm tin lớn ở sức
mạnh sáng tạo của con người.
Lòng tin mãnh liệt và vô tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào
những con người bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm
tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế
cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động trong nước và nước ngoài.
Người đã khẳng định: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương
ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê
gớm khi thời cơ đến”. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
đó là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng
chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với
quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối
gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí
Minh: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không
có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân”, thì các nhà Nho phong kiến
xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực “lấy dân làm gốc”, mặc dù cũng
chủ trương khoan thư sức dân, nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở
chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một “kế sách”, một phương tiện để thực
hiện mục đích “trị nước”, “bình thiên hạ”. Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối
4
của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng
họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm
tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân
tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin:
“Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử”.
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân
của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền
thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước
khác có cùng quan điểm “ái quốc là ái dân”, nhưng điểm khác cơ bản trong tư
tưởng “ái dân” của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức,
tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau
khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con
người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ
nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về
nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó
tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc
gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương
nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo
cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự
đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ.
Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không
thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm
vi toàn thế giới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục
tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của
chính sự nghiệp đó. Đó là bản chất và cũng là đặc trưng của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người.
5
Tóm lại, quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của “cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu
thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản
thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong
khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý
trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về
con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua
thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố
quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
1.2 Vai trò của con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin
ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi
dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và
của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như
xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ thực tế của đất nước trước và sau đổi mới cũng như nắm
bắt được xu hướng đầu tư, phát triển của các nước trên thế giới, từ đại hội
6
Đảng lần thứ VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng
đầy đủ hơn vai trò của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Con
người luôn được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế
- xã hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã ghi rõ: “Con người
là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”. Đồng
thời, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, được thông qua
tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao là một đột phát chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững”.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những
tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: “Đây là cuộc
chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những
cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không
“dựa vào lực lượng của toàn dân”. Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không
bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công
thức bất biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ
bản nhất. Theo Người: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội
trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi
7
người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc”; “Chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân” xây
dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung
sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp
với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy
luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập
khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm
của Ăng-ghen: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái
cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn
theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ
trạng thái hiện nay”. Vì vậy, không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc
lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, “cần có con người xã hội chủ
nghĩa”, Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con
người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội
và giải phóng chính bản thân con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương
con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là
người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh,
“Lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại” là “không bao giờ thay
đổi”. Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin
mãnh liệt và vô tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người
bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba
tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư
của những người dân lao động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng
định: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì
đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến”.
Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những
8
phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn
bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các
nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí
Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết toàn dân”, thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có
những tư tưởng tích cực “lấy dân làm gốc”, mặc dù cũng chủ trương khoan
thư sức dân”, nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa
vào dân cũng như một “kế sách”, một phương tiện để thực hiện mục đích “trị
nước”, “bình thiên hạ”. Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh,
tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một
quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức
mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con
người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: “Quần
chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử”.
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân
của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền
thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước
khác có cùng quan điểm “ái quốc là ái dân”, nhưng điểm khác cơ bản trong tư
tưởng “ái dân” của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức,
tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau
khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con
người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ
nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về
nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó
tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc
gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương
9
nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo
cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự
đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ.
Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không
thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm
vi toàn thế giới.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết
hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể
lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công
dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh
thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự
là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến
đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật,
có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình
thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam.
Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh
mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết
hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách;
phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng
cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ
ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến
10
với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội.
Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu
nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát
triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp
đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo
giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội.
Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú
trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên,
giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn,
khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm
và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính
và chất lượng dân số.
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các
tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai
cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng, phát huy
vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo của
đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Xây dựng
đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm
xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế
hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện
bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích đáng
lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào
định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành
tốt pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng
đất nước.
11
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật
thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống
tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù
hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử
lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
12
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN LƯỢC
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Nguồn lực con người là yếu tố quyết định quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên
thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta.Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá
trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính
trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái
mới về chất. Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi
hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn
lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn
lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn
bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn
nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân
lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình
khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phái, nhà nước, sản xuất, văn hoá), mà
họ còn làm người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử
(suy đến cùng) cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ
có nhận thức được điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện
đặc biệt trong việc xem xét “con người chủ thể” bình diện “con người cá
nhân” có nghĩa là nâng nhận thức lên một trình độ mới - quan niệm “cái cá
13
nhân” là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động của “cái xã hội”
khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được
sự tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người không
chỉ có những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những
thách thức, nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp,
ô nhiễm môi trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội). Vì vậy trong mỗi con
người luôn có những “giằng xé” bởi những cực “chủ tớ” giàu nghèo, thiện ác,
… trong điều kiện này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất
nghề nghiệp chuyên môn cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của họ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc
toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người “chủ thể, ở đây chỉ
cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều
quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu,
tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh
đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh…
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng “con
người chủ thể” không chỉ trên bình diện “con người - xã hội” mà còn trên cả
bình diện “con người cá nhân”. Hơn nữa là “con người - chuyên môn nghề
nghiệp” nhất định (như nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi
ích tương ứng với chúng. Chỉ có quan niệm và cách làm như vậy chúng ta
mới biết tác động vào đâu và tác động như thế nào để nâng cao tích cực của
chủ thể hành động.
Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự
thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch
định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào
năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
14
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hoàn thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công
nghệ, sản xuất, tăng năng suất lao động công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là
thực hiện xã hội hoá nhiều mặt, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao
trình độ quản lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản
xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân
tố con người trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ
thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có
khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện
nhân tố con người.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực
hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ, văn
hoá và xã hội…
2.2 Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay.
Mục tiêu “Xây dựng nước ta thành thành một nước công nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh giữ vững, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn
minh”. Đó trước hết là cuộc cách mạng con người vì con người và do con
người. Bởi khi chúng ta nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những
ưu việt đó không do ai đưa đến. Đó phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và
bền bỉ của toàn dân ta với những con người phát triển cả về trí lực về cả khả
15
năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội và đạo đức tình cảm trong
sáng.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-21930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định “con người là vốn quý nhất
chăm lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ
ta”. Trên thực tế trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo
hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có nhiều thành
công như mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những
người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân
dân, của những người lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân”. Việc gì
có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức
tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung
tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì
lợi ích trăm năm trồng người” và “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa” đã trở thành tư tưởng quán xuyến
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền
ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt
việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” Đảng ta đã chỉ rõ: “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là:
Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã
hội”. Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con
người, của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
16
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá tị lớn lao và
có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách
nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát
huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa,
với tinh tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách mạng con
người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự
nghiệp xây dựng đó.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể
không phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây
dựng xã hội ta thành một xã hội “công bằng, nhân ái”, “tốt đẹp và toàn diện”
để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ,
nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng
ta “tăng trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục,
văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền
với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc”
chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường
chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời những giá trị
truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình trở
thành cái bóng của người khác.
Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì mục tiêu phát triển con người
toàn diện thì con người ở đây không chỉ hiểu với tư cách là người lao động
sản xuất mà còn với tư cách là công dân của xã hội, một cá nhân trong tập thể,
một thành viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ trước vận
mệnh quốc gia. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất
17
cao những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp
biết làm ăn, những nhà quản lý, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu
những công dân yêu nước, ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt
hậu để cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung.
Có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm
yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng trưởng kinh
tế với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì sự nghiệp
phát triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối cao.
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực. Muốn sử dụng tốt nguồn lực
này chúng ta phải hiểu rõ thực trạng và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta
mới có thể khắc phục và phát triển nguồn nhân lực được.
Tựu trung lại, nguồn lực con người là nhân tố đóng vai trò hết
sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Đại
hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một
trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”. Con
người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Sự thành công hay thất bại, tốc độ nhanh hay chậm của quá
trình đó phụ thuộc vào phương thức khai thác nguồn lực con người. Để khai
thác có hiệu quả nguồn lực đó, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay cần
phải tuyển dụng lao động thông qua việc tạo ra nhiều việc làm trên cơ sở phát
triển kinh tế - xã hội. Bên cạch đó, để khai thác có hiệu quả nguồn lực con
người vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần có sự tác động đúng đắn, một
cách hợp lý vào lợi ích của người lao động.
18
PHẦN KẾT LUẬN
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan
duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới
quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân
mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải
phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh
tụ) chỉ là “đầy tớ trung thành” có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là
người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã
vượt xa và khác về chất so với tư tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu
nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là
điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa
nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng
cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của
con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới
đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn
Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo
dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân.
Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để
khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính
trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề
cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận
thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập,
rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.
19
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt
Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy
được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính
sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng
và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong “chiến lược phát
triển toàn diện”; đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội”.
20
MỤC LỤC
Trang
21