"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Lời nói đầu
Sự ra đời hình thành và phát triển của triết học là một quá trình lịch sử
lâu dài. Đó là q trình đấu tranh quyết liệt giữa các phái về những quan niệm
khác nhau, đặc biệt là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm bàn về vấn đề vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Chủ nghĩa duy vật, dù là duy vật chất phát cổ đại duy vật máy móc siêu
hình hay duy vật biện chứng đều coi vật chất là cái có trước, ý thưcs là cái có
sau. Trái lại chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm khách quan đều xuất phát
từ tinh thần, đều coi tinh thần là cái có trước, ý thức là cái có sau. Khái niệm
vật chất, ý thức ln ln là trường đấu tranh quyết liệt có khi đổ máu giữa các
phái duy tâm và duy vật. Cuộc đấu tranh xét tới cùng phản ánh cuộc đấu tranh
giai cấp diễn ra trong xã hội đã phân chia thành giai cấp đối địch.
Nhận thức triết học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bất cứ xã hội
nào, đặc biệt trong thời đại ngày nay khi con người đang dần bước vào thế giới
văn minh cao hơn ở đó khoa học kỹ thuật đã phát triển và đạt được thành tựu
hết sức đáng kể, con người ngày càng tiến đến hoàn thiện hơn thì nhận thức
triết học là u cầu địi hỏi thiết yêú của đời sống. Nó là một phương tiện để
đạt được tới các mục tiêu tối cao của nó, xác định vị trí của con người trong vũ
trụ, nó là khoa học của các khoa học khác, nó đảm nhận chức năng tư duy cho
“sự khôn ngoan”, vai trị thiện chí.
Triết học biện chứng, với tư cách là phương pháp luận chung với tư cách
là kẻ hướng dẫn giúp đỡ cho nhận thức biết tìm phương hướng trong những
hiện tượng phức tạp nhất, bao giờ cũng trở nên cần thiết khi các nhiệm vụ của
khoa học càng trở nên phức tạp. Đặc biệt là việc nhận thức nghiên cứu về vật
chất, ý thức và mối quan hệ vật chất -ý thức ln là vấn đề chính cho mọi thời
đại, thời đại ngày nay cũng vậy.
1
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Chương I:
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUAN NIỆM
VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG.
A. Cơ sở lý luận.
Triết học Mác đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin đã có khái niệm hết
sức chặt chẽ đúng đắn về vật chất, ý thức và đặc biệt là mối quan hệ giữa vật
chất- ý thức. Nó quan niệm về một thế giới khách quan mà con người cảm
nhận được nhận thức được qua cảm giác.
I. Vật chất.
1. Sự hình thành các quan niệm về vật chất.
a. Quan niệm cổ xưa.
Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất, họ cho
sự tồn tại ấy là một “ tinh thần tuyệt đối” nào đó. Chẳng hạn:
Pratơng, một nhà duy tâm lớn nhất thời cổ, đại diện cho giới thượng lưu
quí tộcở A-ten lúc bấy giờ cho rằng vật chất chỉ tồn tại được dưới dangj khả
năng vào ý niệm.
Heghen, nhà duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức, cho rằng
vật chất là do “ý niệm tuyết đối” sinh ra, ý niệm này đến giai đoạn phát triển
nhất định của nó sẽ tồn tại dưới hình thức những sự vật cụ thể.
Mạt khác quan điểm của tơn giáo cĩng có quan niệm khác, họ phủ nhận
hết trơn các quan niệm duy vật, coi đó là điều vơ lí, đã bao phủ bức màn ngu
ngốc lên cả giai đoạn dàicủa kịch sử trong đó triết học đã biến thành nữ tì của
thần học, giáo hội khơng thích chủ nghĩa duy vật và khái niệm vật chất theo
nghĩa triết học không coi chủ nghĩa duy vật là một thế giới quan, nghĩa là một
cách hiểu biết nào đó về xã hội mà vu cáo những nhà duy vật là người vô luân
lý.
2
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Một đại biểu mà tên tuổi của ông gắn với học thuyết về nguyên tử, một
đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại,đó là Đe-mơ-git. Nổi bật trong
triết học của Đêmôgrit là học thuyết về nguyên tử. Khái niệm nguyên tử được
xây dựng trên cơ sở các khái niệm về”tồn tại” và “không tồn tại”.
Các đại biểu có tên tuổi của chủ nghĩa duy tâm khách quan, bằng cách
diễn đạt khác nhau, tuy không phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất
nhưng lại khiến cho sự tồn tại ấy phụ thuộc vào một tinh thần phổ biến nào đó.
b. Triết học thời trung cổ.
Thời kì trung cổ đánh dấu bởi sự tan rã của chế độ nô lệ và sự ra đời chế
độ phong kiến là thời kì mà đặc điểm của khuynh hướng triết học là sự phát
triển của chủ nghĩa kinh viện. Tiêu biểu là:
Ôguýtistanh(554-430) ở Bắc Phi là đại biểu triết học lớn nhất cho triết
học Cơ đốc giáo. Ông quan niệm thế giới là giầu có, phong phú do thượng đế
sáng tạo và được nhận thức bởi thượng đế.
Tômat đa-canh(1225-1274) sinh ta ở Italia, nhà triết học đạo thiên chúa
giáo, nhà triết học kinh điển. Ơng phân tích khơng ranh giới giữa triết học là
thần học. Đối tượng triết học la chân lý của lý trí, đối tượng của thần học là
lịng tin tơn giáo. Ơng hạ thấp vai trị của triết học.
c. Triết học thế kỉ XV-XVIII
Thời kì này đánh giấu bởi sự phát triển một bước của xã hội loài người
khi mà những phát minh mới ra đời, thành tựu khoa học đã chứng minh một
cách rõ nét về quan điểm triết học chẳng hạn.
Nhà tư tưởng Côpennic (1473-1543) người BaLan với thuyết mặt trời là
trung tâm đã bác bỏ quan điểm kinh thánh đạo cơ đốc giáo. Đây là một phát
minh được xem là cuộc cách mạng trên trời” đánh dấu một bước trong cách
mạng trong quan hệ xã hội.
3
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Brunô(1548-1600) nhà triết học Italia, ngươi kế tục phát triển triết học
Cơ-pê-nic. Ơng chứng minh về tính khơng thống nhất vật chất của thế giới vật
chất.
Tuy nhiên cả hai ông vẫn còn tồn tại tư tưởng lẫn lộn các yếu tố duy vật
với duy tâm và có tính chất phiến thần luận.
Đến thời kỳ thế kỷ XVII-XVIII là thời kỳ phát triển rầm rộ của triết học
Tây âu. Do sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất làm quan hệ sản xuất
phong kiến lỗi thời đánh dấu bởi các cuộc cách mạng tư sản. Tất cả đều làm
tiền đề cho sự phát triển mới với nhiều đại biểu nổi tiếng.
Phan-xi Be-can(1561-1626) nhà triết học Anh. Ông đặt triết học của
mình vào nhiệm vụ tìm kiếm con đường nhận thức sâu sắc thế giới tự nhiên.
Tô-mát Hốp-pơ(1522-1679) nhà triết học duy vật Anh, người kế tục và
hệ thống hoá triết học của Be-can. Ông là người đầu tiên sáng tạo ra hệ thống
đầu tiên của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong lịch sử triết học. Chủ nghĩa duy
vật trong triết học của ơng có hình thức phù hợp với đặc trưng và yêu cầu của
khoa học tự nhiên thời đó.
Barut Xpinơda(1632-1677) nhà triết học Hà Lan nổi tiếng, nhà duy vật
và vô thần, nhà tư tưởng của tầng lớp dân chủ tư sản, thế giới quan của ông là
phản ánh giai đoạn phát triển của các mối quan hệ tư sản ở Hà Lan.
Beccơli (1685-1753) nhà triết học duy tâm, triết học của ông chứa đầy
tư tưởng thần bí, đối lập chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm. Triết học
Bacơli là mẫu mực và là một trong những nguồn gốc của các lý thuyết triết học
duy tâm chủ quan cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Hêghen(1770-1831) nhà biện chứng, nhà duy tâm khách quan ông cho
rằng khởi nguồn của thế giới là “ý niệm tuyệt đối” hay “ tinh thần thế giới”.
Hệ thống triết học của ông là lôzic học, triết học và tự nhiên, triết học về tinh
thần. Chính phép biện chứng của Hêghen đã mâu thuẫn với triết học duy tâm
của ông và trở thành nguồn lí luận cho triết học Macxit.
4
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Phơbách(1804-1872) nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kì trước Mac
đại biểu nổi tiếng của triết học Đức, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đan chủ
Đức. Phơbách có cơng lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen.
Triết học của Phơbách mang tính nhân bản chống chủ nghĩa duy tâm, chủ
nghĩa duy vật tầm thường, chống quan niệm tơn giáo.
Tóm lại, cùng với sự tiến bộ của khoa học tự nhiên chủ nghĩa duy vật
nói chung và khái niệm duy vật nói riêng thế kỉ VII và XVIII đã tiến bộ được
bước dài. Mặc dù cịn nhiều hạn chế nhưng nó đã mở ra cho thế giới một kỷ
nguyên mới về triết học, nó là cơ sở, nguồn gốc cho sự ra đời của triết học
Mac-Lênin.
2. Triết học Mac-Lênin, khái niệm về vật chất.
a. Khái niệm:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ hiện thực khách quan mà
con người biết được là do cảm giác, cảm giác chép lại, chụp ảnh lại, phản ánh
hiện thực khách quan đó, nhưng tồn tại hay không phụ thuộc vào cảm giác.
b. Đặc điểm:
- Vật chất là thực tại khách quan.
- Vật chất có hai thuộc tính cơ bản là thuộc tính khách quan và thuộc
tính chủ quan. Vật chất là thuộc tính thứ nhất, ý thức là thuộc tính thứ hai, vật
chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
c. ý nghĩa.
Định nghĩa về vật chất của Lênin đã thể hiện tính khoa học một cách
lơzic mang tính biện chứng lịch sử về thế giới vật chất vêg sự tồn tại khách
quan của thế giới. Nó chứng tỏ sức mạnh tư duy trìu tượng của triết học, nó
đưa lại niềm tin cho các nhà khoa học tự do nghiên cứu sáng tạo đồng thời nó
chính là cơ sở lí luận để củng cố chủ nghĩa duy vật tạo nền tảng chống chủ
nghĩa duy tâm.
5
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
II. Ý thức.
Vật chất luôn vận động, biến đổi. Trong quá trình vận động và phát triển
đến một mức độ nào đó đã có đủ những điều kiện thuận lợi thì sớm muộn vật
chất cũng sinh ra;” sản vật tối cao của mình là tính biết suy nghĩ” sản sinh ra
thực tế có ý thức.
Vậy ý thức là gì: ý thức ở đâu ra?
Đối với chủ nghĩa duy tâm thì sự ra đời của chủ nghĩa ý thức là một
phán đốn chưa được giải đáp về ngun tắc. Vì ý thức khơng phải là vật cản
mà con người có thể cảm nhận bằng giác quan họ đã gán cho ý thức một
nguồn gốc siêu nhiên, coi ý thức là hoạt động, đặctính của một thực thể vật
chất là linh hồn.
Thuyết “chúa sáng chế” trong kinh thánh, một chuyện thần bí thể hiện
quan điểm ý thức có trước và sáng tạo ra vật chất, sự ra đời của thuyết này
ngay từ đầu đã bị phê phán và dần dần ngày càng thấy rõ sự khơng phù hợp
của nó đã có sẵn và vĩnh viễn, vô tận. Chỉ khi nào con người dã có trình độ
cao, nhận thức được thế giới thì mới có ý thức.
* Nguồn gốc của ý thức phải xuất phát từ cả nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội.
Từ những hiện tượng tự nhiên, thế giới vật chất vận động liên tục những
diễn biến xảy ra xung quanh ta mà chúng ta cảm nhận đưọc bằng giác quan,
mà hình thành dần phản xạ, phản xạ có điều kiện và phản xạ khơng có điều
kiện. Q trình tiến hố của lồi người trải qua thời gian dài trong lịch sử, con
người ngày càng hồn thiện mình hơn, đặc biệt là khi biết sử dụng công cụ lao
động, q trình lao động làm con người ln tìm mọi cách chinh phục tự
nhiên. Họ có nhu cầu trao đổi với nhau từ đó tư duy và ngơn ngữ ra đời và dần
dần hoàn thiện nhận thức, những cảm giác thu nhận được đem lại trong con
người, được phân tích ra cuối cùng là ý thức được hình thành nghĩa là ý thức là
6
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
sản phẩm của một thứ vật chất có tổ chức cao la óc con người, óc là khí quan
tư duy của ý thức.
Vậy ý thức là gì?
Ý thức thuộc lĩnh vực hoạt động tinh thần của con người, chỉ có trong
con người, ý thức là thuộc tính hay sản phẩm của kết cấu vật chất có tính chất
cao, sản phẩm của sản xuất xã hội, của sự phát triển xã hội.
III. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Nội dung của ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất một cách tích cực.
Năng lực phản ánh đó là của ý thức, tính độc lập tương đối và tác dụng tích
cực với thực tiễn.
Hêghen, nhà triết học cổ điển Đức có hệ thống duy tâm hồn chỉnh nhất
đã coi “ tinh thần thế giới “ là nền tảng của tự nhiên và xã hội. Theo hêghen thì
sự vận động của tư duy mà ông dặt cho cái tên là ý niệm và biến nó thành một
chủ thể độc lập, chính là chúa sáng tạo ra hiện thực này chỉ là hiện tượng bên
ngoài của ý niệm mà thơi. Theo tơi thì sự vận động của tư duy chỉ là sự phản
ánh sự vận động của hiện thực và biến hình v trong đầu óc con người.
Đến các nhà chủ nghĩa duy vật biện chứng thuộc trường phái triết học
Macxit mà đại diện lớn là chủ nghĩa Mac-Lênin đã nêu một cách đầy đủ, khoa
học, chính xác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, coi ngun lí vật chất
có trước ý thức có sau. Nghĩa là: ý thức, tư duy không thể tồn tại được nếu
khơng có những điều kiện vật chất là bộ óc con người, ý thức tư duy con người
không thể tồn tại được nếu khơng có khách thể vật chất bên ngoài là thế giới tự
nhiên.
Ý thức, vật chất là hai cái khác nhau, không thể coi ý thức cũng là vật
chất như quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường. Chủ nghĩa duyvật tầm
thường đã đem đối lập với cái cực đoan của thần học: Rút ra vật chất bằng một
cực đoan khác: đồng nhất tinh thần với vật chất.
7
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi vật chất có trước, ý thức có sau là sản
phẩm của vật chất là phản ánh của giới tự nhiên khách quan, nhưng khơng hề
coi đó là sự phản ánh thụ động, tiêu cực. Vì ý thức được hình thành trong quá
trình con người tác động tích cực đến tự nhiên, thay đổi bộ mặt tự nhiên làm
cho nó thích ứng với nhu cầu của mình, nó trở nên tích cực với cải tạo tự
nhiên. Là sản phẩm của thựctiễn, nó tác động trở lại thực tiễn.
Việc xem ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào
là vấn đề vĩnh viễn của triết học, nó là sự phân chia của hai phái. Những người
quả quyết rằng tinh thần có trước tự nhiên, và do đó cuối cùng thừa nhận sáng
tạo ra thế giới chỉ thuộc về chủ nghĩa duy tâm. Ngược lại, những người cho thế
giới tự nhiên có trước chỉ thuộc về trường phái khác nhau của chủ nghĩa duy
vật.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức mà đã giải quyết được vấn đề thứ hai của triết học, đó là tư
duy của chúng ta nhận thức được thế giới hiện thực.
Sự đối lập về quan điểm giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
quanh khái niệm về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng luôn là vấn đề
không bao giờ cũ. Nó là vấn đề lớn về mặt nhận thức và thực tiễn.
Thật vậy lần đầu tiên trong lịch sử triết học những người sáng lập ra chủ
nghĩa Mác coi vật chất là cái có trước, vật chất quyết định ý thức, ý thức do
tồn tại xã hội do vật chất quyết định và phản ánh thế giới vật chất.
Tồn tại vật chất trong đó tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội
với tất cả tính chất phức tạp và mâu thuẫn của nó. Cơ sở vật chất của đời sống
xã hội là phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất sẽ sinh ra một ý
thức xã hội nhất định. ý thức xã hội là tổng hợp những lí luận chính trị và pháp
luật, những quan điểm tôn giáo triết học và đạo đức của một xã hội ... nó gồm
tất cả các quan niệm tồn tại xã hội trên cơ sở phương thức sản xuất nhất định.
Nói ý thức xã hội khơng có nghĩa là nói ý thức chung. Giữa chúng giống nhau
là chúng đều là thuộc tính của bộ óc con người, đều là sự phản ánh của tồn tại
khách quan vào đầu óc của con người nhưngý thức xã hội chỉ phản ánh xã hội
8
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
cịn ý thức nói chung là phản ánh về thế giới khách quan. ý thức nói chung
phản ánh dưới dạng khái niệm, suy lý, phán đốn thì ý thức xã hội lại phản ánh
tồn tại xã hội qua những hình thái đặc thù như triết học, tơn giáo... Tóm lại
chúng giống nhau nguồn gốc nhưng khác nhau về nội dung, hình thức và
phương thức phản ánh.
Tóm lại quan niệm về vật chất, ý thức và quan hệ với vật chất mà chủ
nghĩa duy vật biện chứng thuộc phái triết học Macxit. Lý luận triết học
MácLênin đã làm sáng tỏ được ba vấn đề đó. Nó quan niệm về thế giới tồn tại
khách quan, tất cả những đang tồn tại khách quan đang vận động đều nói
chung là vật chất. Được con người chúng ta cảm giác được, nó tác động vào
bộ não của con người và tại bộ óc của con người nó đựoc phân tích mổ xẻ,
nghĩa là ta nhận thức được đó là ý thức của con người. Trên cơ sở đó nhận
thấy rõ được mối quan hệ vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Vật
chất là cái thứ nhất, là cái có trước, là cái quyết định, ý thức là cái có sau, là
cái phản ánh thế giới vật chất đang tồn tại khách quan.
9
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
B. Cơ sở thực tiễn.
I. Sự cần thiết phải có triết học khoa học.
Vào thời Hy Lạp cổ đại, triết học có nghĩa là mọi tư tưởng duy lý về con
người và tự nhiên là như vậy, nó bao gồm cả khoa học. Vào thời cận đại do
tình trạng lý trí được chế tạo hố nhanh chóng và khoa học, trở thành độc lập
triết học phương Tây thấy mình bó hẹp vào sự phân tích cái khái niệm, ngơn
ngữ và ý thức. Nhiều vấn đề triết học cổ đại bàn đến nay bị bỏ quên vì bị chê
bai của triết học cổ đại. Những nhà khoa học bậc nhất đặc biệt ngày càng trở
thành có tính chất triết học hơn, việc ranh giới giữa triết học và khoa học cụ
thể là ngày càng rõ. Nhưng nhờ những thành tựu của khoa học mà triết học
càng chứng minh tính đúng đắn của mình về quan niệm vật chất, ý thức và mối
quan hệ vật chất về một thế giới thống nhất tồn tại khách quan chúng ta, mà
chúng ta cảm nhận được nó thơng cảm giác, chúng ta nhận thức được thế giới.
II. Triết học tự nhiên.
Triết học các hệ thống không thừa nhận một ranh giới tuyệt đối nào đó
trong các lĩnh vực phức tạp có tổ chức đã được tổ chức lại thành tôn ti. Lĩnh
vực vô cơ và lĩnh vực hữu cơ, cũng như lĩnh vực cá nhân và lĩnh vực xã hội
đều là những mặt có quan hệ về mặt khái niệm. Những đặc tính khơng thể giản
lược được với tính cách những tổng thể những tiếp đoạn về không gian và thời
gian của một trật tự lặp đi lặp lại của sự tồn tại ổn định có tính chất điều khiển
học và những mặt liên quan với nhau có tính chất tơn ti trong việc thích nghi.
Nhờ tình trạng các khoa học kinh nghiệm và các mơ hình trong hệ thống phát
triển nhanh chóng, ngay các mơ hình này có thể được xác lập một cách chặt
chẽ và cải tiến những cách nhìn tiêu biểu của các nhà triết học tự nhiên qua
các thời đại.
10
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
III. Triết học tư duy.
Nếu như triết học về các hệ thống không thừa nhận một ranh giới tuyệt
đối nào giữa các hiện tượng có tính chất phức tạp và có tổ chức ở các cấp độ
tơn ti khác nhau, khi triết học này không thể tư duy vào bất kỳ cấp độ nào.
Triết học các hệ thống quan niệm “tư duy là ý thức khả năng suy nghĩ về bản
thân mình, mặc dầu những khat năng như vậy chỉ có thể phát triển oqr một vài
tư duy. Mỗi khi những tác động từ bên ngoài ảnh hưởng đến hệ thống và phù
hợp với những lực bên trong vẫn duy trì, hệ thống trình độ ổn định năng động
của nó thì hệ thống có những cảm giác tương tự như những cảm giác thích thú
và thoả mãn của chúng ta. Vởy chúng ta đi đến hai triển vọng của triết học các
hệ thống. Nó cho phép triết học xác lập những biểu hiện nhiều mặt của tư duy
con người trong mối quan hệ với những hiện tượng tự điều chỉnh có tính chất
điều khiển học trong cơ thể của con người. Sự bộc lộ mặt nguồn gốc chủng
loại của những khả năng tự điều chỉnh ở trong sinh thành của chủng loaị cũng
như sự tóm tắt và xây dựng của chúng trong sự sinh thành cá thể cấp cho ta
khảo sát về triết học.
IV. Triết học với các vấn đề đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo:
Con người là một hệ thống năng động trong cấu trúc đang phát triển của
tự nhiên. Con người dễ bị tổn thương về mặt cấu trúc qua những quá trình liên
hệ phản hồi, nhờ đó các thế giới hình thức của tri giác được tạo thành với các
đặc điểm bất biến của nó là hình dáng, kích thước và vận động, để đến biểu
hiện cao nhất của con người là tư duy.
Con người là một bộ phận khăng khít của các tơn ti bao gồm toàn thế
giới của những hệ thống năng lượng làm cho sự ổn định một cách điều khiển
học. Sự phối hợp nhau của tất cả những hệ thống như vậy trong các hệ thống ở
cấp độ cao nhất cung cấp những tiêu chuẩn thích nghi và do đó cung cấp
những tiêu chuẩn đánh giá cho tất cả mọi hệ thống. Các nhà triết học về hệ
thống có thể rút ra những khái niệm về tốt và xấu, tốt hơn và xấu hơn và lấy
chất liệu thơng tin khoa học có tính chất kinh nghiệm khác cho các sườn
những khái niệm đạo đức.
11
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Theo quan điểm hệ thống, con người là một hệ thống năng động nhất
quán được phân tích, ở hai hướng về mặt tinh thần và thể xác. Các biến cố xảy
ra trong hệ thống này là những kiểu xuất hiện đặc biệt tương đối tách rời, đó là
những kinh nghiệm mỹ học và kinh nghiệm tôn giáo. Các cấu trúc ý nghĩa là lệ
thuộc vào tổ chức của hệ thống này và cảm giác của nó với mơi trường xung
quanh.
Triết học và những vấn đề xung quanh triết học, đều có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, biện chứng cho nhau cùng giải quyết một vấn đề chung nào đó
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà mọi thời đại đều nhắc đến trên
những quan điểm riêng. Thời đại ngày nay khi mà nhân loại đang tiến lên
những bước cao của tiến trình lịch sử của thời đại, thời đại của văn minh, tri
thức và khoa học là bước đo tiêu chuẩn. Thế giới văn minh mà ở đó lượng vật
chất đã được sản xuất ra rất lớn, nhờ thành tựu to lớn của khoa học kỹ thuật,
người ta càng thấy rõ tính đúng đắn của quan niệm chủ nghĩa Mác Lênin về
thế giới vật chất. Thế giới đang tồn tại, xã hội thì đang vận động một cách có
quy luật, xã hội tiến tới phương thức sản xuất mới với lực lượng sản xuất phát
triển mạnh chưa từng thấy, tạo ra quan hệ sản xuất mới.
V. Thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Thời đại hậu công nghiệp và những thành tựu khoa học đã đạt được tới
đỉnh cao kỳ diệu. Nổi bật trong thời đại ngày nay là xu thế tồn cầu hố ngày
càng mở rộng và phát triển theo nhiều hướng, đa dạng và phong phú diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Sau khi nhận thức được thực tiễn của những thay đổi của cách
mạng thế giới trong những thập kỷ 80, đặc biệt là ở các nước xã hội chủ nghĩa
như Liên Xô và Đông Âu; sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản và thành tựu khoa
học lớn đã áp dụng vào cuộc sống. Cũng như thực trạng cách mạng Việt Nam,
Đảng đã sớm giác ngộ và thực hiện khởi xướng đổi mới tại Đại hội VI và tiếp
tục công cuộc đổi mới trong những kỳ Đại hội tiếp theo, đặc biệt là đến Đại
hội lần thứ VII và VIII với chiến lược xác định xây dựng Cơng nghiệp hố -
12
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
HIện đại hoá, phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thành tựu mà
toàn Đảng, toàn dân ta đạt được trong 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện
CNH-HĐH là những tiền đề cơ bản cho cách mạng Việt Nam. Tiếp tục phát
huy sức mạnh, đồng thời bắt nhịp và đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới,
đưa nhân dân thoát khỏi nghèo đói với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng cơ sở cho cách mạng chủ nghĩa xã
hội
13
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Chương II:
BIỆN CHỨNG VỀ MỚI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG HIỆN NAY.
I. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong sự nghiệp cách mạng hiện
nay, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin.
1. Sự thay đổi mới các vấn đề trong thời đại ngày nay.
Thế giới đã và đang có sự thay đổi to lớn về nhiều mặt. Đặc biệt với
việc tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, với thành tựu hết sức rực rỡ,
nó mở ra cho thế giới quanh ta một kỷ nguyên mới về cách nhìn nhận, cách
đánh giá và cách luận. Khoa học hiện đại đã có những bước nhảy vọt, những
phát minh mới khẳng định tính khoa học của thế giới vật chất và sự vận động
của nó.
Chúng ta đang tiến tới một thế giới văn minh mới, ở đó khoa học kỹ
thuật phát triển rất hiện đại, lực lượng sản xuất cũng phát triển rất nhanh và
làm tạo ra nhiều mối quan hệ chung và riêng của xã hội, tạo ra một lượng vật
chất lớn, đa dạng và phong phú. Con người ngày càng có nhu cầu nhiều hơn,
đặc biệt là nhu cầu về các hoạt động xã hội, chính trị, văn hố, tơn giáo. Tờt cả
đều dần được hiện đại hố, thơng tin liên lạc nhanh chóng. Với thành tựu của
cơng nghệ thông tin, về điện tử. ĐâY là thành tựu hết sức kỳ diệu của con
người, nó nâng cao sức mạnh trí óc, nó giúp chúng ta suy nghĩ sâu hơn về
chúng ta và cả về thế giới. Thành tựu của khoa học kỹ thuật trong những thập
niên qua là hết sức rực rỡ, người ta càng ngày càng khám phá ra thế giới này.
Thật đa dạng và phong phú, con người còn tự tạo ra được các loại chất liệu
mới. Tất nhiên nó phải là vật chất của các vật chất khác. Khoa học đánh dấu
bởi những mốc son lịch sử, loài người chúng ta tiến qua những giai đoạn lịch
sử khác nhau với những nền văn minh khác nhau, con người nhận thức về thế
giới ngày một sâu sắc hơn. Thế giới tồn tại và vận động một cách khách quan
theo những quy luật chung, riêng khác nhau. Ngày nay con người càng hiểu
biết về nguồn gốc của mình hơn. Bước đột phá của khoa học về chứng minh
cấu tạo chất của cơ thể vật chất chúng ta, thời đại của công nghệ sinh học đang
14
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
chiếm ưu thế trong khoa học hiện đại ngày nay. Về việc tìm ra chất mới, cấu
tạo của cơ thể sống với quy luật tồn tại của chúng. Con người càng hiểu về
chính mình hơn. Nó mở ra cho con người những hy vọng lớn, đồng thời nó
cũng chứa đựng những lo ngại về sinh thái, đạo đức nhân văn và pháp luật.
Nhân loại còn chứng kiến một thành tựu kỳ diệu về thế giới, về sự tồn
tại của thế giới. Cuộc chinh phục vũ trụ đã cho con người nhìn về thế giới từ
góc độ xa hơn, rộng hơn, sự tồn tại của thế giới cũng như vận động của nó là
một quy luật khách quan, vốn sinh ra đã là vậy. Người ta có thể sờ mó, nắm
bắt ... được sự vật cụ thể, nó khơng phải là một cái gì đó siêu nhiên, vơ thần
như những quan điểm của thần học, tôn giáo ... về sự tồn tại một lực lượng
siêu nhiên, một cái vô thức ban đầu.
Tóm lại, thành tựu của khoa học kỹ thuật đã thu được thành tựu to lớn,
nó làm tăng của cải vật chất xã hội và làm cho cuộc sống của con người ngày
càng văn minh hơn. Con người ngày càng nhận thức đúng đắn, chính xác hơn
về thế giới.
Thành tựu khoa học mới cũng tạo ra lực lượng sản xuất mới lớn hơn,
mạnh hơn tạo ra những mối quan hệ xã hội mới, quan hệ sản xuất mới, phát
triển thiết lập phương thức sản xuất mới.
Nhân loại đã và đang bước vào thời kỳ văn minh mới, nhưng nhìn nhận
về thế giới vẫn chưa phải là thống nhất. Đặc biệt là quan điểm về chính trị,
kinh tế, tơn giáo, văn hoá, xã hội... trên quan điểm của chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản luôn luôn muốn thủ tiêu chủ nghĩa xã hội , phủ nhận
tất cả những gì vốn có của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, khi mà chủ nghĩa xã hội đang ở trong giai đoạn hết sức khó khăn thì chủ
nghĩa tư bản càng lấn át, muốn tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa xã hội. Ngược lại,
chủ nghĩa xã hội không cho rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội ưu việt, mà
nó chỉ là một trong những chế độ xã hội trong tiến hoá lịch sử. Trong chủ
nghĩa tư bản, mâu thuẫn cố hữu của nó về tư bản, tư liệu sản xuất với lực
lượng sản xuất mới thấy được sự vận động có tính quy luật của chủ nghĩa tư
15
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
bản mà xu thế của nó là sẽ bị xoá bỏ. ĐâY được xem là một vấn đề tất yếu
khách quan.
2. Đặc điểm hiện nay của thời đại:
Thời đại mới của xã hội loài người- mở đầu bằng cuộc cách mạng
Tháng 10 Nga vĩ đại và sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên và
sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên tồn thế giới là nòng cốt cho cách
mạng thế giới đánh đổ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản đế quốc thế kỷ
19 bị phá vỡ từ đó xuất hiện hai hệ thống đối lập là chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn này, khi chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng,
hình thành lại sự thống trị hành tinh của chủ nghĩa đế quốc trên cở sở điều kiện
của thế giới trong thế kỷ 20.
Quan điểm chủ nghĩa duy vật Mác xít thấy được đặc điểm tình hình trên,
diễn ra trong hồn cảnh lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới
về chất: trong khoa học công nghệ mới, đưa nhân loại vào kỷ ngun mới - kỷ
ngun về cơng nghệ thơng tin. Trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã vượt
quá ranh giới quốc gia, dân tộc và phát triển trên quy mô hành tinh. Thế giới
trở thành một tổng thể trong đó các mối quan hệ phụ thuộc khăng khít trong sự
phát triển. Đây chính là các tiền đề mà từ đó xu thế tồn cầu hố gắn liền với
xu thế hố khu vực, xu thế hồ bình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tăng tính độc
lập quốc gia dân tộc, thích ứng nhằm mục đích phát triển .
Khi lực lượng sản xuất phát triển lên trình độ mới thì quan hệ sản xuất
giữ vị trí chi phối ngày càng mạnh do thoái trào của chủ nghĩa xã hội trên thế
giới, và là vấn đề quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lỗi thời trở nên sâu sắc hơn bao
giờ hết và hiện nay mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản (cũ) và chủ nghĩa đế quốc
đã bước sang giai đoạn mới, đồng thời trong chủ nghĩa xã hội đang thoái trào.
16
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
Chủ nghĩa đế quốc đang tìm cách xố bỏ chủ nghĩa xã hội. Quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa vẫn thống trị trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển cao
mà biểu hiện là sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ngồi ra cịn có mâu
thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển và chậm
phát triển.
Những mâu thuẫn rất sâu sắc đó lại đan xen lại liên quan đến nhau
nhưng trong quan hệ quốc tế là biêủ hiện hình thái mới: vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, chính vì vậy đã gây ra ảo tưởng về xu thế hoà bình và phát triển chỉ thấy
thống nhất khơng thấy mâu thuẫn, thấy hợp tác chứ không thấy đấu tranh, đối
thoại chứ không thấy đối đầu. Cần phân biệt đặc điểm liên quan của chủ nghĩa
xã hội trong giai đoạn mới.
Xu thế mới cải cách những nước xã hội chủ nghĩa cũ đưa chủ nghĩa xã
hội thoát khỏi khủng hoảng tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội theo tư duy mới
về chủ nghĩa Mác Lê nin phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của thời đại
thế giới hiện đại. Cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội ở khắp mọi nơi trên thế
giới chắc chắn sẽ diễn ra theo quy luật khách quan của nó. Dù theo những con
đường khác nhau về đưa chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống thống nhất theo
phương thức sản xuất mơí - phương thực sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
3. Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào thời đại mới:
Vận dụng triết học duy vật Mác Lênin vào sự nghiệp cách mạng hiện
nay, nên nắm vững nguyên lý tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau là sự
phản ánh một cách khách quan.
Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trước đây, đặc biệt là công cuộc
đấu tranh của nhân dân Liên xô với thắng lợi Cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại,
xây dựng Nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới rồi đến phong trào cách
mạng dân tộc, phong trào giải phóng các nước khác, vận dụng một cách triệt
để triết học Mác Lê nin vào quá trình đấu tranh đã đưa nhân dân các dân tộc,
các quốc gia không rơi vào thuyết định mệnh, nhờ trời, thuyết mà bon thống trị
gieo rắc buộc nhân dân lao động, nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc,
phải gánh chịu làm nô lệ, làm tay sai cho chúng, nó cịn trách cho những quan
17
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
điểm sai lầm, những tư tưởng mang tính ảo tưởng, cải lương cho rằng chỉ cần
"chỉ có ý thức" là chấm dứt được áp bức bóc lột mà bọn đế quốc tay sai áp đặt,
xoá bỏ được nghèo khổ. Đó là cơ sở lý luận rất cơ bản vận dụng vào thực tiễn
từng nước, từng quốc gia, từng dân tộc, từng phong trào đấu tranh. Nó ý thức
cho nhân dân tự mình đấu tranh và chỉ có đấu tranh tiêu diệt đánh đổ bọn
thống trị đàn áp, áp bức bóc lột thì mới giải phóng được mình, mới có độc lập
dân tộc, mới có cuộc sống hạnh phúc ấm no.
Đến giai đoạn sau, các nước trong hệ thống XHCN đẵ nhận thức được
rõ việc cần thiết có tính quyết định đối với sự tồn tại xẵ hội đó là cần xây
dựng cơ sở vật chất ,tạo ra càng nhiêù của cải vật chất .Đảm bảo đầy đủ vật
chất cho cuộc sống trước mắt đồng thời xây dựng cơ sở vât chất cho CNXH .
Cũng như trong bất cứ thời đại nào , thời đại ngày nay khi mà nhân loại
đang bước vào thờ đại mới công nghệ hiện đại , lượng sản xuất vật chất ra
ngày càng nhiều .
Thế giơí đang chuyển sang giai đoạn mới ,sự nghiệp cách mạng mới
đang chuyển mình cho phù hợp với xu thế mới .Nhìn nhận thế giới từ nhiều
góc độ trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật Mac-Lênin .
*Quan hệ vật chất và ý thức trong cách mạng hiện nay:
Chúng ta thuộc thế hệ sau được thừa hưỏng thành tựu lớn của thế hệ
trước -thế hệ gắn với cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hồ bình chung của
thế giới. Thừa hưởng thành quả của cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất
nước, xây dựng cơ sở vậ chất CNXH chúng ta không được phủ nhận lịch
sử.Nhưng cũng đừng quá nặng nhấn mạnh lịch sử,cần nhìn nhận thế giới dưới
một góc độ mới. XHCN đang thối trào ,CNTB đang chiếm ưu thế, đang tìm
mọi âm mưu thủ đoạn để tiêu diệt CNXH. Chúng tìm mọi hình thức, đặc biệt
là lợi dụng thành tựu khoa học, vào sự phát triển nhanh của hệ thống thông tin
liên lạc má chúng truyền bá tư tưởng, đề cao CNTB cho rằng CNTB là vô địch
là bất diệt và ngược lại chúng hạ thậm chí cịn phủ định hết sạch về những
thành tựu cũng như ý nghìa của CNXH, chúng boi nhọ CNXH bằng cách
tưyền bá những tin sai, bóp méo sự thật , lợi dụng vào ý chí nguyện vọng của
18
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
dân nghèo lao động để gieo rắc, bôi nhọ . Chúng cho rằng chỉ cần có ý thưc xã
hội , ngồi chờ rồi cũng có đày đủ . Đặc biệt chúng lợi dụng vấn đề nhân quyền,
vấn đề con người, vấn đề tôn giáo để truyền bá tư tưởng phản động. Cho rằng
con người chỉ cần cầu nguyện, mơ ươc rồi sẽ có . Chính từ đó , chúng đặt cho
nhân dân lao động, người nghèo khổ vào vị trí nhất định mà họ chỉ có thể làm
được. Phản bác lại những quan điểm sai trái của CNTB, CNXH đấu tranh lại
những tư tưởng đó của CNTB . Cho rằng con người trong xã hội phải là ai
cũng như ai, có quyền ngang nhau. Đưẻc sống, được tự do, được lầm việc,
được hưởng mọi ưu đãi. Hiện nay, phương thức sản xuất CNTB đang chiêm
ưu thế, quan hệ sản xuất TBCN phát triển trên cơ sở LLSX hiện đại đã tạo ra
lượng của cải vật chất hết sức đa dạng, phong phú. Con người ngày càng đáp
ứng được nhu cầu đầy đủ của mình. Mổc dù CNXH đang lâm vào giai đoạn
khủng hoảng thoái hoá, những QHSX XHCN vẫn cồn tòn tại và phát triển.
Chúng ta cần xác định đúng hướng và mục tiêu cho phù hợp giữa QHSX
XHCN với LLSX tiên tiến hiện đại. Cần có chính sách, đổi mới kinh tế, phù
hợp với tình hình chung của thế giới như ng vẫn đảm bảo bản chất CNXH.
Chẳng hạn như, phát triển kinh tế nhiều thành phần vận đọng theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN . Cỗn đảm bảo
được sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, quản lí của nhà nước, và nhân dân lầm
chủ. Nhằm tạo ra lượng vật chất đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, tăng mức
sống của nhân dân đồng thời xây dựng cơ sở vật chất cho CNHX.
Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế tri thức, với việc thu thập thông tin
nhanh nhạy qua mạng thơng tin trên tồn thế giới. Xu thế hội nhập là rất lớn,
thế giới xúc tiến toàn cầu hố đời sống nhân dân, địi hỏi các nước chậm phát
triển và đang phát triển cần có biện pháp để bắt nhịp với nền kinh tế của các
nước phát triển. Việc xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại qua việc thực
hiện cơng nghiệp hố hiện đại hố là rất cần thiết.
Các nước XHCN, đang bị khủng hoảng cũng như lực lượng tiến bộ thế
giới cần nhận thức rõ việc xây dựng cơ sở vật chất cho chính mình, cho chủ
nghĩa xã hội là hết sức quan trọng có tính chất quyết định.Chúng ta muốn xố
bỏ CNTB, thiết lập CNXH tạo ra phương thức sản xuất mới- phương thức sản
19
"Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thøc ..."
xuất cộng sản chủ nghĩa thì trước hết cần có cơ sở vật chất cho CNXH. Q
trình đấu tranh tiến lên CNCS là q trình lâu dài. Nên khơng thẻ chỉ nói chỉ
hơ hào, chỉ là trên giấy tờ mà phải được thực tế hoá. Đặc biệt là
trong giai
đoạn hiện nay khi mà CNTB đang chiếm ưu thế, lượng của cải vật chất do tư
bản sản xuất ra là rất lớn. Chúng ta cũng không phải phủ nhận sạch trơn hết
thành tựu của CNTB, mà ngược lại cần học tập, rút kinh nghiệm về cách thức
tổ chức quản lý của CNTB trong công việc tổ chức sản xuất ra của caỉ vật chất.
Xem CNTB cũng là một giai đoạn tất yếu trong q trình tiến hố xã hội, Tư
bản tạo ra lượng của cải vật chất cũng là cơ sở vật chất cho CNXH, tất yếu
CNTB rồi sẽ bị tiêu vong dần tiến lên CNXH được xem như là một quy luật
khách quan. Tạo cơ sở vật chất xây dựng CNXH là cái quyết định cho mọi
hoạt động về chính trị, văn hố, tơn giáo,... Nghĩa là trước khi thực hiện các
hoạt động xã hội cần giải quyết vấn đề vật chất, cái thứ yếu cho đời sống bình
thường hàng ngày như: ăn, mặc, ở ... tóm lại là phải tổ chức sản xuất vật chất..
Khoa học hiện đại ngày càng chứng minh tính chất vật chất là đúng đắn.
Con người ngày càng biết thêm nhiều chất, càng thấy nhiều hiện tượng diễn ra
theo quy luật chung nhất, khách quan của thế giới vật chất. Càng khẳng định
đúng đắn về quan niệm quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vốn thế giới sinh ra
đã là có sẵn; tồn tại, vận động theo quy luật khách quan chứ không phải do ý
thức tạo nên.ý thức không thể điều khiển được thế giới vật chất. Chẳng hạn,
con người sinh ra vốn là một thực thể sinh vật được cấu tạo từ nhiều chất,
nhiều bộ phận, qua quá trình lao động, tiếp xúc giao lưu và hình thành nhận
thức, hình thành ý thức. Ý thức ở đây là phản ánh thế giới khách quan.
Thừa nhận tính quy luật khách quan về thế giới vật chất nghĩa là vật chất
là những gì tồn tại khách quan. Những qui luật chung trong đó có quy luật xã
hội, xét về phạm trù xã hội ta cũng thấy tồn tại những quy luật khách quan.
Chẳng hạn quy luật về kinh tế của sản xuất hàng hố (quy luật giá trị) nói u
cầu về sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên lượng giá trị hàng hoá theo
thời gian lao động xã hội cần thiết. Có một quy luật tất yếu mang chủ nghĩa
Mác - Lênin nói đến chính là tính tất yếu về sự xoá bỏ xã hội CNTB tiến lên
xã hội, xã hội chủ nghĩa và tiến tới xã hội CNCS. Đây chính là tính tất yếu sẽ
20