Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

ĐỀ TÀI: LÍ LUẬN VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ HIỆU QUẢ CỦA 5 NĂM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.9 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------

BÀI TẬP LỚN
BỘ MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÍ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 2
ĐỀ TÀI: LÍ LUẬN VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ HIỆU QUẢ CỦA 5
NĂM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

HÀ NỘI 4/2017



PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang tiếp tục công cuộc đổi mới kết hợp với công nghiệp hóa hiện đại
hóa. Chúng ta đang tiến gần hơn với thị trường quốc tế, đưa kinh tế của đất nước phát
triển theo hướng hội nhập, mở cửa. Đặc biệt khi chúng ta chính thức tham gia TPP.
Khi đất nước ngày một hội nhập với thị trường thế giới thì vấn đề tiền tệ, phương thức
lưu thông là một trong những vấn đề nhạy cảm đầu tiên được bàn tới, nó ảnh hưởng
trực tiếp tới nền kinh tế. Kế hoạch chính sách tiền tệ giai đoạn 2016-2020 đã đi qua
bước lề năm 2016 với những dấu hiệu khả quan. Tuy nhiên, những tháng đầu năm
2017, nền kinh tế khá ảm đạm với tăng trưởng GDP thấp, theo số liệu công bố ngày
29/3 của Tổng cục Thống kê cho thấy tăng trưởng GDP quý I/2017 chỉ là 5,1%, thấp
nhất trong 2 năm trở lại đây (quý I/2015 là 6,12%; quý I/2016 là 5,48%), lạm phát cao
là một trong những nỗi lo của kinh tế quý I/2017 cũng như những tháng tiếp theo.
Do đó việc hiểu rõ quy luật lưu thông tiền tệ, lạm phát là một trong những yếu
tố quan trọng để giúp nền kinh tế có các giải pháp tốt trong việc điều tiết các chính
sách tiền tệ, ổn đinh kinh tế vĩ mô.
Vì vậy, em chọn đề tài “ Lý luận quy luật lưu thông tiền tệ và hiệu quả của 5
năm thực hiện chính sách tiền tệ 2011-2015”.
Mục đích của đề tài nhằm tổng kết những kết quả đã đạt được của chính sách


tiền tệ 5 năm giai đoạn 2011-2015, để rút ra bài học cho giai đoạn tiếp theo 20162020, cùng những những khó khăn trong giai đoạn 5 năm tiếp theo trong việc điều
chỉnh chính sách tiền tệ, làm tiền đề để đưa ra nhưng giải pháp tốt nhất giúp ổn định
nền kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng.
Bằng phương pháp phân tích dựa trên cơ sở lí thuyết về quy luật lưu thông tiền
tệ, đề tài “ lý luận về quy luật lưu thông tiền tệ và hiệu quả của 5 năm thực hiện chính
sách tiền tệ 2011-2015” đã hệ thống hóa vấn đề mạng tính khách quan về tiền tệ và sự
vận dụng của nó thông qua việc điều tiết các chính sách tiền tệ, ổn đinh kinh tế vĩ mô
của nhà nước.  
Bài làm của em còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp từ cô. Em xin chân thành cảm ơn ạ.


PHẦN 2: NỘI DUNG
1.
Chương 1: cơ sở lí thuyết
1.1 Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ.
1.1.1 Nguồn gốc của tiền tệ
Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Về mặt
giá trị sử dụng ( hình thái tự nhiên) của hàng hóa, ta có thể dễ dàng nhận biết trực tiếp
bằng các giác quan. Tuy nhiên, về mặt giá trị ( hình thái xã hội), ta không thể cầm,
nắm hay nhìn thấy giá trị của nó. Do đó, tiền tệ được tìm thấy thông qua sự nghiên cứu
4 hình thái biểu hiện của giá trị.
Hình thái giá trị đơn giản hay ngẫu nhiên ( xuất hiện trong giai đoạn đầu của
trao đổi hàng hóa): Tồn tại hai hình thái tương đối và ngang giá
Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc
Ở đây 1m vải là hình thái tương đối, còn 5 kg thóc là hình thái ngang giá.
Trong hình thái giá trị đơn giản hay ngẫu nhiên, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
Hình thái giá trị đủ hay mở rộng( xuất hiện khi lực lượng sản xuất phát triển
hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất): Hình thái này là sự mở rộng hình

thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.
Ví dụ : 1 m vải = 2 con gà hoặc 5kg thóc hoặc 0.1 chỉ vàng …
Như vậy hình thái vậy ngang giá đã được mở rộng ra 2 con gà, 5 kg thóc hay
0.1 chỉ vàng.
Hình thái chung của giá trị ( xuất hiện khi lực lượng sản xuất phát triển cao
hơn, phân công lao động xã hội ): Xuất hiện một hình thái vật ngang giá chung của
một địa phương mà đượcnhiều người ưa chuộng.
Ví dụ : 2 con gà hoặc 5kg thóc hoặc 0.1 chỉ vàng …=1 m vải, ở ví dụ này vật
ngang giá chung được ưa chuộng là vải.
Tuy nhiên, hình thức này vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hóa
nà, các địa phương khác nhau sẽ có vật ngang giá chung khác nhau. Vì vậy, xuất hiện
hinh thái giá tị thứ tư.
Hình thái tiền tệ ( xuất hiện trong phân công lao động lần thứ hai)
Lúc này vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến.
Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được chia làm hai cực: một bên là hàng hóa
thông thường, một bên là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ ( vàng). Tại hình thức này tỉ lệ
trao đổi hàng hóa đã được cố định lại.


1.1.2 Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung thông nhất
cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa.
1.1.3 Chức năng của tiền tệ
Theo Các- Mác,tiền tệ có năm chức năng:
Thước đo giá trị
Tiền tệ dung để biểu hiện đo lường giá trị của hàng hóa. Giá cả của hàng hóa là
hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
Giá cả của hàng hóa chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau đây:
+ Giá trị hàng hóa: tỉ lệ thuận

+Giá trị của tiền: tỉ lệ nghịch
+Quan hệ cung- cầu về hàng hóa.
Vì giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả, nên trong ba nhân tố trên, giá trị là
nhân tố quyết định giá cả.
Phương tiện lưu thông
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình
trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu thông hàng hóa đòi hỏi phải có tiền mặt.
Công thức trao đổi trong lưu thông là H-T-H, dễ thấy, hành vi mua và hành vi bán có
thể tách rời nhau, điều này là mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
Hơn nữa trong lưu thông, giá trị thực của tiền tách rời khỏi giá trị danh nghĩa
của nó. Khi nhà nước in tiền giấy, mà bản thân của tiền giấy không có giá, nó chỉ là kí
hiệu của tiền vàng, nên nhà nước không thể tùy ý in bao nhiêu tiền giấy cũng được.
Quy luật đó là : “ việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng( hay
bạc) do tiền giấy đó tượng trưng, lẽ ra phải lưu thông thực sự”.Nếu việc phát hành tiền
vi phạm quy luật này, khối lượng tiền phát hành và lưu thông vượt quá khối lượng tiền
cần cho lưu thông, thì giá trị của tiền tệ sẽ bị giảm xuống, tình trạng lạm phát xuất
hiện.
Phương tiện cất trữ :
Tiền làm được chức năng cất giữ vì tiền là đại biểu cho của cải xã hội, nên cất
giữ tiền chính là cất giữ của cải. Khi làm phương tiện cất giữ, tức tiền được rút ra khỏi
lưu thông đi vào cất trữ. Chức năng cất giữ làm cho lượng tiền trong lưu thông phù
hợp với lượng tiền cần thiết cho lưu thông.
Phương tiện thanh toán


Trong hình thức giao dịch này, trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để
định giá cả hàng hóa. Và thanh toán là việc trả tiền cho các hàng hóa mua chịu nên đến
kì hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán.
Tiền tệ thế giới:
Do hàng hóa vượt khỏi biến giới quốc gia, nên tiền trong chức năng này phải là

tiền có giá trị. Trong trong chức năng này vàng được sử dụng làm phương tiện mua
bán hàng hóa, thanh toán quốc tế và biểu hiện tiếng nói chung của xã hội.
1.2 Quy luật lưu thông tiền tệ và vấn đề lạm phát
1.1.4 Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiên tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần cho lưu thông
hàng hóa ở mỗi thời kì nhất định.
Các-Mác cho rằng, số lượng tiền cần cho lưu thông do ba nhân tố quyết định:
số lượng hàng hóa lưu thông tên thị trường, giá cả trung bình của hàng hóa và tố độ
lưu thông của các đơn vị tiền tệ cùng loại. Sự tác động của các nhân tố này đối với
khối lượng tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy luật phổ biến là: Tổng giá cả của
hàng hóa chia cho số vòng lưu thông của đông tiền cùng loại trong một thời kì nhất
định.
+Khi tiền chỉ thực hiện chức năng lưu thông, thì số lượng tiền cần cho lưu
thông tính theo công thức:

Trong đó : M: là phương tiện cần thiết cho lưu thông
P: là một mức giá cả
Q: là khối lượng hàng hóa đem ra lưu thông
V: là số vong luân chuyển trong bình của một đơn vị tiền tệ
+ Khi thực hiện chức năng trong phương tiện thanh toán thì số lượng tiền cần
thiết cho lưu thông được xác định như sau:


Số tiền cần cho lưu thông hay cung tiền của từng quốc gia, từng thời kì là
không giống nhau. Nó phụ thuộc vào sự phát triển của từng nền kinh tế, quy chế tài
chính và sự tiến bộ của công nghệ ngân hàng ở mỗi quốc gia.
Ngân hàng nhà nước là tác nhân cung ứng tiền trực tiếp và quan trọng nhất cho
lưu thông qua việc tái chiết khấu, tái cầm cố các thương phiếu các chứng chỉ tiền gửi
và các chứng từ có giá khác của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, cung ứng
tiền cho lưu thông còn có các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các tác

nhân, các tổ chức phi ngân hàng…
Những cơ sở lí thuyết trên giúp chính phủ tính toán được cung tiền cần thiết cho
lưu thông, hệ thông ngân hàng nhà nước và kinh doanh điều tiết lưu thông tiền tệ,
khống chế lạm phát.
1.1.5 Lạm phát
a)
Định nghĩa
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế tăng lên một thời
gian nhất định.
b)

Nguyên nhân gây ra lạm phát

Lạm phát chỉ xuất hiện khi tiền giấy xuất hiện. Vì tiền giấy chỉ là kí hiệu của
giá trị, thay thế tiền vàng hay bạc trong chức năng phương tiện lưu thông, bản thân
giấy không có giá trị thực. Khi số lượng tiền giấy đưa vào lưu thông vượt quá số lượng
tiền vàng hay bạc mà nó đại diện thì sẽ dẫn đến hiện tượng lạm phát.
Căn cứ vào mức giá tăng lên có thể chia lạm phát thành: lạm phát vừa phải ( chỉ
số giá cả tăng dưới 10%/ năm ) , lạm phát phi mã ( trên 10%/năm) và siêu lạm
phát( chỉ số giá cả tăng lên hàng tram, hàng nghìn lần và hơn nữa).
Thông thường lạm phát một con số là do hiện tượng kinh tế tự nhiên hoặc chính
sách của chính phủ dùng cho một mục đích riêng, còn lạm phát phi mã hay siêu lạm
phát sẽ có nhiều ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.


Về cơ bản, lạm phát là một hình thái kinh tế xã hội có nhiều tiêu cực cho nên
kinh tế, do đó chống lạm phát luôn là một vấn đề đặt hàng đầu của các quốc gia.
2.
Chương 2: Liên hệ thực tiễn với hiệu quả của 5 năm thực hiện chính sách
tiền tệ.

2.1 Hiệu quả của 5 năm thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 2011-2015
Nhờ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, chủ động dẫn dắt thị trường,
đồng thời có sự phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa đã mang lại nhiều kết quả
tích cực đối với kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống
các tổ chức tín dụng là những hiệu quả dễ thấy của hiệu quả 5 năm hực hiện chính
sách tiền tệ giai đoạn 2011-2015. Có thể thấy niềm tin của người dân vào hệ thống
ngân hàng tăng lên.
Từ năm 2013, ngân hàng nhà nước (NHNN) đã khai thác khá tốt 3 trong 5 công
cụ điều tiết thị trường tiền tệ, đưa nền kinh tế giai đoạn 2008-2012 từ bở vực thẳm, đáy
khủng hoảng để có những khởi sắc mạnh mẽ vào giai đoạn sau từ 2013, đó là lãi suất,
giá, thị trường mở rộng, còn 2 công cụ là tái cơ cấu và dự trữ ít sử dụng hoặc sửa dụng
chưa có hiệu quả.
1.1.6 Các thành tựu kinh tế đã đạt được
Giảm mặt bằng lãi suất, tập trung cho lĩnh vực ưu.
Ngày 03/03/2011 Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã ban hành thông tư số 02/TTNHNN quy định trần lãi suất giúp giảm động cơ cạnh tranh không lành mạnh giữa các
tổ chức tín dụng ( TCTD), hỗ trợ siết chặt kỷ luật thị trường. Trong khi đó, việc quy
định trần lãi suất cho vay, đặc biệt đối với lĩnh vực ưu tiên, góp phần gia tăng cơ hội
tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp, kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng, giới hạn tổng
phương tiện thanh toán tăng ở mức hợp lý nhằm điều tiết lượng cung tiền, ngăn chặn
lạm phát gia tăng.
Các mức lãi suất chính sách cũng có những bước chuyển biến căn bản theo
hướng chủ động, dẫn dắt thị trường và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát
diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ trong từng thời kỳ. Điều này đã góp phần quan trọng
vào việc thực hiện thành công nhiệm vụ giảm mặt bằng lãi suất để tháo gỡ khó khăn
về chi phí vay vốn cho doanh nghiệp, nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được lạm phát, ổn
định thị trường tiền tệ. Trên cơ sở bám sát tình hình diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ,
NHNN đã chủ động điều chỉnh giảm nhanh và mạnh các mức lãi suất chính sách để
tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh theo chủ trương của Chính phủ.
Theo đó, đã giảm 9 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm khoảng

8,5%/năm (lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống 6,5%/năm, lãi suất tái chiết
khấu giảm từ 13%/năm xuống 4,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng giảm từ 16%/năm xuống 7,5%/năm).


Điều hành tỷ giá ổn định, hỗ trợ tích cực cho công tác kiểm soát, kiềm chế
lạm phát.
Hàng năm, NHNN đã chủ động công bố định hướng điều hành tỷ giá giao động
trong khoảng 1%-3% mỗi năm (mức điều chỉnh không quá 1% trong các tháng cuối
năm 2011, không quá 2%-3% trong năm 2012 và 2013; không quá 1%-2% trong năm
2014, không quá 2% trong năm 2015) nhằm tăng cường tính minh bạch, định hướng
thị trường, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch
sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh các biện pháp trực tiếp như công bố tỷ giá giao dịch
bình quân liên ngân hàng, các kỹ thuật can thiệp thị trường, NHNN đã chủ động phối
hợp đồng bộ với các công cụ điều tiết tiền tệ để hạn chế tối đa các áp lực tác động đến
ổn định của tỷ giá. Theo đó, NHNN đã chú trọng điều hành công cụ lãi suất, gồm cả
lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô, đảm bảo lợi
ích nắm giữ đồng nội tệ, khuyến khích công chúng chuyển từ nắm giữ USD sang
VND. Giai đoạn 2008-2011, VND mất giá bình quân mỗi năm trên 7% so với USD.
Giai đoạn 2012-2014, tỷ giá được điều chỉnh khá ổn định, mất giá cả giai đoạn khoảng
2%. Năm 2015, tỷ giá được điều chỉnh, VND mất giá khoảng 3% nhằm đối phó với
việc Nhân dân tệ giảm giá mạnh và đón đầu các tác động có thể xảy ra nếu Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) điều chỉnh tăng lãi suất.
Ngoài ra, NHNN cũng tích cực sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở
(OMO) trong việc điều tiết mức cung tiền một cách nhịp nhàng để hỗ trợ và đảm bảo
thanh khoản hợp lý, nhằm hạn chế sự dịch chuyển của dòng tiền, đặc biệt vào thời
điểm tỷ giá có biến động và thanh khoản hệ thống dư thừa.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động kinh doanh và đầu tư
vàng, tạo điều kiện cho thị trường hoạt động thông suốt



Sự kiện ghi dấu ấn quan trọng nhất trong việc nỗ lực của NHNN về xây dựng
hành lang pháp lí, điều tiết hoạt động kinh doanh và đầu tư vàng là việc tham mưu cho
Chính phủ ban hành khuôn khổ pháp lý mới về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
(Nghị định 24/2012/NĐ-CP, ngày 03/04/2012 để thay thế Nghị định 174 về quản lý thị
trường vàng). Nghị định 24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý mới nhằm tổ chức, sắp xếp
lại thị trường vàng, giao cho NHNN cấp phép đối với hoạt động kinh doanh mua, bán
vàng miếng; tổ chức sản xuất vàng miếng; tổ chức xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập
khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và tổ chức huy động và mua, bán vàng
iếng.
Trên cơ sở pháp lý mới ban hành, NHNN cũng đẩy nhanh việc chuyển quan hệ
huy động-cho vay vàng sang quan hệ mua, bán vàng trên thị trường, đấu thầu vàng
thông qua việc chỉ đạo đẩy nhanh việc tất toán số dư huy động vàng và giảm số dư cho
vay vốn bằng vàng; giám sát chặt chẽ việc TCTD thực hiện lộ trình tất toán số dư cho
vay vốn bằng vàng. Nhờ vậy, thị trường vàng ngày càng đi vào ổn định, tự điều tiết
theo quy luật cung cầu; không còn các “cơn sốt” vàng gây bất ổn kinh tế ngay cả khi
giá vàng thế giới có biến động, tình trạng “vàng hóa” từng bước được ngăn chặn, qua
đó góp phần ổn định thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô.
Đến tháng 4/2015, các TCTD đã giảm dần số dư cho vay bằng vàng, dư nợ cho
vay vàng của toàn hệ thống (giảm 90% so với ngày 30/4/2012). Điều đó đã loại bỏ
toàn bộ rủi ro liên quan đến sự biến động giá vàng và chấm dứt tình trạng vàng hóa
trong hệ thống TCTD.

Chính sách tín dụng theo hướng tháo gỡ khó khăn cho khu vực sản xuất,
kinh doanh, hỗ trợ đắc lực chuyển dịch cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Trong vòng 2 năm 2010, 2011, trước hai thách thức lớn của nền kinh tế là lạm
phát cao và khu vực sản xuất gặp nhiều khó khăn, NHNN đã mạnh dạn áp dụng cơ chế


điều hành mới là xây dựng và công bố chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm thay cho

việc các TCTD sẽ tự quyết trong giai đoạn trước. Cơ chế quản lý này đã góp phần
kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng phù hợp với quản lý kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực
cho mục tiêu kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Đồng thời, chính sách này cũng phù hợp
với năng lực của từng TCTD để vừa có thể đảm bảo an toàn của hệ thống các TCTD,
vừa từng bước tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Để có thể tập trung vốn cho những khu vực quan trọng, hạn chế vốn chảy vào
các khu vực “bong bóng”, NHNN đã quy định rõ những lĩnh vực không khuyến khích
và các lĩnh vực ưu tiên để các TCTD chủ động kế hoạch cung ứng vốn cho phù hợp.
Đó là việc đưa lĩnh vực bất động sản và cho vay tiêu dùng ra khỏi danh mục của nhóm
lĩnh vực không khuyến khích. Điều này tạo cơ sở quan trọng để phục hồi thị trường bất
động sản, là “phao cứu trợ” cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản
xuất liên quan đến bất động sản và làm hồi sinh trở lại dòng vốn của ngân hàng vào
khu vực này.
Ngoài ra, để tháo gỡ khó khăn cho khu vực sản xuất kinh doanh, NHNN đã chỉ
đạo các TCTD xem xét cơ cấu lại nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng, tiếp tục cho
vay mới để có vốn tiếp tục sản xuất, vượt qua khó khăn. Đây là những hỗ trợ hết sức
cần thiết và kịp thời để giúp doanh nghiệp giảm áp lực trả nợ và có nguồn lực tài chính
cho chu kỳ sản xuất mới.
Những tác động đáng ghi nhận đến nền kinh tế
Với các giải pháp điều hành tiền tệ thận trọng, linh hoạt và có nhiều đổi mới
sáng tạo, chính sách của NHNN đã truyền dẫn hiệu quả đến nền kinh tế. Kết quả đó
được thể hiện rõ nét qua từng năm với những dấu ấn tích cực, cụ thể:
Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, giảm đều và hiện đang ở mức thấp

Nguồn: Tổng cục thống kê


Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao trong nửa đầu năm 2011 đã giảm xuống và diễn
biến ổn định cho tới nay. Cụ thể, từ mức đỉnh 18,13% năm 2011 xuống còn 6,81%
năm 2012, 6,04% năm 2013 và dưới 2% giai đoạn 2014-2015. Ngoài ra, tăng trưởng

cung tiền và tín dụng kể từ năm 2012 đến nay không tạo áp lực tăng lạm phát như
những thời kỳ trước đó do đã được tập trung hướng vào các lĩnh vực sản xuất trọng
tâm của nền kinh tế. Chỉ số CPI đã được điều chỉnh đáng kể, năm 2015 chạm mức thấp
nhất 0.63%.
Lãi suất nhanh chóng hạ nhiệt, hỗ trợ hợp lý cho khu vực sản xuất
Tính cho đến thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn
bằng khoảng 47% so với cuối năm 2011 và tương đương mức lãi suất của giai đoạn
2005-2006 (giai đoạn kinh tế phát triển ổn định), góp phần hỗ trợ giảm chi phí vốn vay
của doanh nghiệp và hộ dân. Với những nỗ lực trong công tác điều hành lãi suất, chỉ
trong thời gian ngắn, lãi suất cho vay đã giảm hơn một nửa, từ 20%/năm (thậm chí
24%/năm) xuống chỉ còn 9%-11% và còn khoảng 6,5%/năm đối với các lĩnh vực ưu
tiên.
Bên cạnh các khoản vay mới với lãi suất thấp, NHNN cũng yêu cầu các TCTD
đưa lãi suất của các khoản vay cũ về mức 15%/năm và sau đó là 13%/năm, góp phần
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và tạo điều kiện giải phóng kênh tín dụng. Lãi suất
cho vay USD cũng được điều hành giảm ổn định theo hướng không để tồn tại khoảng
cách chênh lệch đáng kể với lãi suất cho vay VND, hiện lãi suất cho vay USD ngắn
hạn ở mức 3%-5,5% và dài hạn từ 5,5%-6,7%.
Có thể nói, với mặt bằng lãi suất hiện nay đã góp phần làm giảm giá thành sản
phẩm, tăng thêm khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường
và bước đầu đã tháo gỡ hàng tồn kho để chuẩn bị chu kỳ sản xuất mới.
Tăng trưởng tín dụng hợp lý, đạt được mục tiêu điều hành, phù hợp với tốc độ
tăng trưởng kinh tế hàng năm.
NHNN đã nhanh chóng thay đổi mục tiêu điều hành theo hướng tăng trưởng tín
dụng nhưng thận trọng. Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, song
phải theo nguyên tắc đảm bảo chất lượng tín dụng, hạn chế phân bổ vốn vào khu vực
không khuyến khích có nguy cơ gây ra lạm phát cao và tăng trưởng thiếu bền vững
trong tương lai. Nhờ đó, tăng trưởng tín dụng đã có sự phục hồi qua các năm, cụ thể:
năm 2012 là 8,85%; năm 2013 là 12,51%; năm 2014 là 14,16%; 6 tháng đầu năm 2015
tăng 7,83%. Trong giai đoạn này, tín dụng tăng bình quân khoảng 13%/năm, thấp hơn

so với mức tăng bình quân 33,3%/năm giai đoạn 2006-2010, nhưng tăng trưởng kinh
tế vẫn đạt mức hợp lý.
Điều kiện tín dụng được cải thiện, linh hoạt và phù hợp với mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn vay ngân hàng; Đồng
thời, cơ cấu tín dụng tiếp tục được cải thiện, có sự chuyển hướng tích cực sang các lĩnh


vực ưu tiên theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, như: nông nghiệp nông thôn có tốc độ
tăng trưởng bình quân tín dụng giai đoạn 2011–2014 đạt 15%/năm; Doanh nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, tăng trên 20%/năm; Công nghiệp ưu tiên phát triển tốc độ, tăng
xấp xỉ 12%. Sự chuyển hướng tích cực của cơ cấu tín dụng như vậy đã góp phần quan
trọng vào việc thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế .
Tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định góp phần cải thiện cán cân thanh toán
tổng thể, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam, hỗ trợ
tích cực cho lộ trình chống đô la hóa.
Chênh lệch tỷ giá của thị chính thức và thị trường tự do thu hẹp đáng kể. Trong
diễn biến của thị trường, những xáo trộn xuất hiện chủ yếu do yếu tố tâm lý và đã
nhanh chóng ổn định sau các biện pháp đồng bộ của NHNN, vị thế và lòng tin vào
đồng Việt Nam ngày càng được củng cố.
Đáng kể là tình trạng đô la hóa đã giảm mạnh. Dự trữ ngoại hối nhà nước gia
tăng. NHNN đã mua được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước,
góp phần tăng tiềm lực tài chính và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Bên cạnh
đó, diễn biến lạm phát có xu hướng giảm tốc đã giúp ổn định tâm lý thị trường, kỳ
vọng về sự giảm giá VND được hạn chế, khắc phục phần nào hiện tượng găm giữ đầu
cơ ngoại tệ trong giai đoạn trước.
1.1.7 Những thách thức trong giai đoạn 2016-2020
Trong giai đoạn 5 năm tiếp theo 2016-2020, chính sách tiền tệ của chúng ta
đang đứng trước 4 thách thức lớn:
Thứ nhất, Cục liên bang Mỹ ( FED) tăng lãi suất. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
(Fed) tăng lãi suất cơ bản đồng thời gợi mở khả năng sẽ có 3 đợt tăng lãi suất trong

năm 2017, động thái này ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu. Một trong những thay đổi rõ
rệt nhất là USD lên giá. Trong khi đó, đồng Việt Nam hiện vẫn đang được neo giữ với
đồng USD sẽ có xu hướng tăng giá thực so với các đồng tiền khác. Điều này có thể tác
động tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu và làm trầm trọng hơn tình trạng thâm hụt cán
cân thương mại trong năm 2017.
Ngoài ra, khi đồng USD tăng giá, Việt Nam có thể phải tăng lãi suất tiền gửi để
giúp giữ giá trị tiền đồng và giữ tiền trong hệ thống ngân hàng. Điều này có thể khiến
mặt bằng lãi suất tăng, từ đó dẫn tới phản ứng dây chuyền trên thị trường bất động sản,
làm giá có thể giảm hoặc tăng chậm hơn dự kiến. Điều này có thể gây ra những rủi ro
cho các dự án bất động sản vốn đã đang trong tình trạng nhạy cảm, dễ tổn thương, do
đó lan sang hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, việc các nước xuất khẩu dầu đạt được đồng thuận cắt giảm sản lượng
khai thác kể từ tháng 1/2017 có thể đẩy giá dầu tăng trở lại. Mặc dù, điều này là có lợi
cho cán cân ngân sách, nhưng việc giá dầu thô và năng lượng tăng trở lại có thể tạo ra


sức ép lên lạm phát trong nước, vốn đã bị đẩy lên trong thời gian gần đây do việc điều
chỉnh giá các nhóm dịch vụ công.
Thứ ba, Việt Nam gia nhập TPP. Dự báo dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ chảy
vào Việt Nam với quy mô lớn khi TPP có hiệu lực, nếu Chính phủ không có các giải
pháp điều tiết hợp lý sẽ tiềm ẩn rủi ro mất cân đối vĩ mô (Trong giai đoạn 2006-2011
mức tăng lạm phát thường xuyên ở mức trên 2 con số do sự bùng phát dòng vốn đầu tư
nước ngoài sau khi Việt Nam gia nhập WTO vượt quá năng lực hấp thụ của nền kinh
tế, cùng với điều hành kinh tế vĩ mô không được điều chỉnh phù hợp để xử lý các bất
ổn).
Thứ tư, một vấn đề quan trọng nữa là nợ xấu. Trong 2016, theo số liệu của Ủy
ban Giám sát tài chính Quốc gia, hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý khoảng 95
nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong đó, xử lý qua thu hồi nợ, bán tài sản bảo đảm chiếm
khoảng 52,6% tổng giá trị nợ xấu được xử lý, bằng nguồn dự phòng rủi ro chiếm
26,6%, bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chiếm

21%. Dù tiếp tục giảm nhẹ và một lượng lớn được xử lý nói trên, nhưng Ủy ban Giám
sát đánh giá, nợ xấu chờ xử lý (nợ bán cho VAMC) và nợ xấu tiềm ẩn trong tái cơ cấu
vẫn lớn. Tổng số nợ bán cho VAMC chưa xử lý được là 224 nghìn tỷ đồng (chiếm
85% nợ xấu bán cho VAMC, và chiếm khoảng 4,3% tổng tín dụng). Tỉ lệ nợ xấu làm
gây khó khăn lớn đến việc ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn.
Ngoài ra, thâm hụt tài khóa, nợ công, cộng thêm cam kết đưa thâm hụt tài khóa
về 4% trong trung hạn, rủi ro địa chính trị, tài chính toàn cầu, chính sách điều hành của
Ngân hàng Trung ương các nước lớn tác động lan tỏa dễ gây tổn thương tới hệ thống
tài chính Việt Nam, áp lực lớn cho thiết kế điều hành chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó,
quy mô tài chính, chất lượng tài sản, chất lượng quản trị công ty của các NHTM Việt
Nam còn hạn chế trong khi hội nhập càng sâu rộng
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng thách thức với ngành ngân
hàng vẫn còn rất lớn. Do vậy, để nền kinh tế có thể hoạt động tốt, đòi hỏi rất lớn vào
sự điều tiết các chính sách tiền tệ của NHNN, sự đồng lòng của chính phủ. Đặc biệt,
khi Việt Nam tham gia vào TPP, Chính phủ phải đổi mới mạnh mẽ, đổi mới tư duy
trong hoạch định chính sách theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, tăng cường cơ cấu
lại và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.


PHẦN 3: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Giáo trình những nguyên lí cơ bản của của chủ nghĩa Mác- Lênin ( Nhà xuất bản
chính trị quốc gia)
• Bài viết “ tình hình kinh tế xã hội 2016” của Tổng cục thống kê.
• />• />• />• />• />• />• />• />• />• />• />


×