Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Một số giải pháp đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao khả năng hội nhập thị trường quốc tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.61 KB, 43 trang )

PHẦN I
LỜI NÓI ĐẦU

******

Ngày nay, với sự tác động mạnh mẽ của cuộc các mạng khoa học kỹ
thuật công nghệ, xu hướng tồn cầu hố, khu vực hố , phân công lao động
ngày càng phát triển sâu rộng trên phạm vi quốc tế . Bối cảnh đó đặt các
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước trước những
thách thức cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Do vậy việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp nhà nước là rất cấp thiết, khơng chỉ có ý nghĩa lý
luận mà cả thực tiến, từ đó phát huy tối đa nội lực của nền kinh tế.
Trước bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thời cơ và thách thức,
thuận lợi và khó khăn đan xen và phức tạp, để đáp ứng yêu cầu thực hiện
thành công sự nghiệp CNH- HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế có
hiệu quả , thiết nghĩ việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà
nước cần được đẩy lên một bước mới. Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của
Đảng đã khẳng định: “ Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với DNNN để
tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xố bao cấp, doanh
nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất
kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh
nghiệp. Cơ chế phù hợp để kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước đối
với doanh nghiệp”.
Vì vậy, để tìm ra hướng đi mới cho các doanh nghiệp nhà nước nâng cao
khả năng cạnh tranh của mình trong quá trình hội nhập, em quyết định chọn
đề tài:

Một số giải pháp đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà
nước nhằm nâng cao khả năng hội nhập thị trường quốc tế của
Việt Nam.


1


PHẦN II
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
I .KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (DNNN).

1. Khái niệm:
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng ích,
nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý. DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi
nhuận.
Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, chúng ta chỉ tập trung nghiên cứu
các DNNN hoạt động kinh doanh vì hiện đang có rất nhiều vấn đề tồn tại
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN, đặc biệt là khả năng
cạnh tranh của các DNNN hoạt động kinh doanh trong xu thế hội nhập toàn
cầu.
Vậy để phù hợp với phạm vi và mục đích của bài viết ta thống nhất lại
khái niệm về DNNN như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu lợi
nhuận và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
2. Vai trò chủ đạo, chủ lực của DNNN:
2.1. Vai trò chủ đạo, chủ lực của xí nghiệp quốc doanh trong cơ chế cũ.
Từ năm 1955 miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát

triển kinh tế. Ngay ở giai đoạn đầu của công cuộc khôi phục và cải tạo kinh tế
( 1955- 1960 ). Nhà nước ta đã rất coi trọng việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ,
thiết lập quan hệ sản xuất mới mà nòng cốt là kinh tế quốc doanh ( nay là kinh
tế nhà nước ). Ở giai đoạn này, cùng với quá trình thu hẹp các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là q trình hình thành các xí nghiệp quốc doanh
bằng nhiều con đường, như tiếp tục mở rộng và phát triển các cơ sở sản xuất

2


ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nhà nước xây dựng một loạt
các xí nghiệp. nhà máy mới, quốc hữu hoá hoặc cải tạo và biến các cơ sở kinh
doanh của các nhà tư sản thành các xí nghiệp quốc doanh hoặc xí nghiệp cơng
tư hợp doanh. Với chủ trương đó, xí nghiệp quốc doanh đã đóng vai trị là lực
lượng nịng cốt, đi đầu trong cơng cuộc khôi phục và cải tạo kinh tế trên mọi
phương diện kinh tế, chính trị, xã hội. Đến cuối thời kỳ cải tạo và khơi phục
kinh tế, xí nghiệp quốc doanh đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế
quốc dân. Từ đây, vai trị chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh luôn được thể
hiện một cách xuyên suốt trong mọi chủ trương, đường lối phát triển kinh tế
cũng như trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội nước ta.
Theo chủ trương xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trong giai đoạn thi hành cơ chế kế hoạch
hoá tập trung (1960- 1985 ), kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm vị trí
độc tơn. Trong cơ chế kinh tế đó, xét trên giác độ quan hệ sản xuất, xí nghiệp
quốc doanh dựa trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất được
coi là hình thức sở hữu tiến bộ đóng vai trị gương mẫu, đầu tàu trong việc
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; xí
nghiệp quốc doanh vừa là tấm gương, vừa hướng dẫn kinh tế tập thể trong
q trình xây dựng chế độ xã hội mới. Chính q trình hình thành các khu
cơng nghiệp mới trong thời kỳ này ( gắn liền với quá trình phát triển kinh tế

quốc doanh như ở Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, ... đã góp phần hình thành
bước đầu các trung tâm kinh tế vùng, làm hạt nhân thúc đẩy sự phát triển kinh
tế của từng vùng. Sự hình thành và phát triển các xí nghiệp cơng nghiệp quốc
doanh địa phương ở khắp các tỉnh miền Bắc trong thời kỳ này vừa nhằm xây
dựng một hệ thống kinh tế phân tán, phù hợp với hồn cảnh chiến tranh của
nước ta lúc đó lại vừa tạo ra cơ sở kinh tế để giải quyết nhiều vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội đặt ra, như tạo ra bước đầu cơ sở hạ tấng để phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội ở các vùng nơng thơn miền núi; các xí nghiệp quốc doanh
ở đây đóng vai trị hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế tập thể cùng phát triển. Trên
giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh
được biểu hiện cụ thể trong lĩnh vực sản xuất cơng nghiệp: cơng nghiệp nặng
đóng vai trị là xương sống của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trang bị máy
móc, thiết bị cho tồn bộ nền kinh tế quốc dân; công nghiệp nhẹ và công
nghiệp chế biến đảm bảo các nhu cầu về hàng công nghiệp cho các công nhân
viên chức và nhân dân lao động.
Mặc dù đến đầu thập kỷ 80 nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn,
thực sự là một nền kinh tế thiếu hụt và thực chất cơ chế kế hoạch hoá tập
trung đã được chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá phi tập trung, song mọi sự cải
tiến, hoàn thiện khi đó hầu như nhằm vào mục tiêu cố gắng thổi cho kinh tế
quốc doanh một luồng sinh khí mới, kinh tế quốc doanh vẫn chiếm vị trí độc
tơn. Tuy nhiên, ở thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện các hình thức kinh tế ngồi
quốc doanh như kinh tế hộ gia đình,...

3


Như vậy trong cơ chế kinh tế cũ, xí nghiệp quốc doanh thực sự giữ vai
trò chủ đạo, vai trò đòn bẩy, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Kinh tế
quốc doanh có vai trị mở đường, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế tập thể cùng
phát triển. Xét trên giác độ xã hội, kinh tế quốc doanh đóng góp sức mình vào

việc giải quyết các vấn đề xã hội ở từng vùng, từng địa phương: cơ sở hạ tầng,
cơng ăn việc làm...
2.2. Vai trị của xí nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước trong cơ
chế kinh tế mới.
Từ năm 1985, cơ chế kế hoạch hoá tập trung dần dần được thay thế bởi
cơ chế kinh tế mới với đặc trưng cơ bản là không coi nền kinh tế quốc dân chỉ
bao gồm hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trong cơ
chế kinh tế mới đó, một mặt, tiếp tục đổi mới quản lý đối với các xí nghiệp
quốc doanh và hợp tác xã trong tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp,... và lĩnh vực lưu thông, mặt khác kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân được
khuyến khích phát triển trong giai đoạn 1988-1990, đầu tư vào khu vực kinh
tế tư nhân có tốc độ tăng rất cao. Cùng với q trình đổi mới đó kinh tế quốc
doanh khơng cịn giữ vị trí độc tơn.
Giai đoạn phát triển này là giai đoạn từ chủ trương đến thực tiễn, phát
triển kinh tế đều nhất quán ở chỗ phát triển một kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1991, DNNN trở thành một bộ phận
quan trọng trong cơ chế kinh tế mới. Mặc dù ở giai đoạn này tỷ trọng của kinh
tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng có giảm, song cho
đến nay DNNN vẫn giữ vị trí chủ đạo vì nó nắm giữ những lĩnh vực then
chốt, trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, kinh tế nhà nước, DNNN
đã đóng góp thiết thực giải quyết nhiều vấn đề kinh tế – xã hội bức bách của
thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý như: tiền tệ hoá tiền lương trong khu vực
sản xuất kinh doanh, chuyển từ cơ chế kinh doanh vật tư hai giá sang cơ chế
một giá và thương mại hoá vật tư, kiềm chế lạm phát, ổn định tài chính tiền
tệ, thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo đà tăng trưởng khá trong
những năm đầu của thập kỷ 90.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT HUY VAI TRÒ ĐẠO, CHỦ LỰC CỦA DNNN.

1. Xuất phát từ đòi hỏi bức bách của cơ chế thị trường.
Bắt đầu từ giữa thập kỷ 80 cơ chế kinh tế mới đã được hình thành ở

nước ta. Đặc trưng cơ bản của cơ chế mới là xây dựng một nền kinh tế nhiều
thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử hình thành kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta trong suốt thời kỳ đầu
của giai đoạn này theo đấy các cơ sở kinh tế này được lập ra từ chính nguồn
vốn lâu nay nằm phân tán trong các tầng lớp dân cư. Từ đó tới nay, nền kinh
tế nhiều thành phần mới được phát triển ở nước ta ( khoảng hơn 10 năm trở
lại đây ), việc phát triển kinh tế chủ yếu được tiến hành theo chiều rộng, tích

4


luỹ chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như tĩch luỹ riêng của từng
doanh nghiệp dân doanh còn rất nhỏ bé.
Trước hết, chúng ta xem xét mâu thuẫn giữa cơ chế kinh tế mới theo xu
hướng hội nhập với Khu vực và Thế giới và quy mô quá nhỏ bé của các
doanh nghiệp đã được hình thành ở nước ta. Các doanh nghiệp dân doanh với
quy mô nhỏ và rất nhỏ đương nhiên khơng thể có vốn để đầu tư nhà xưởng,
công nghệ cũng như trang thiết bị hiện đại, và đương nhiên cũng khơng thể có
tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng mở rộng đầu tư. Nếu so sánh số vốn
bình quân của một doanh nghiệp dân doanh với giá trị một chiếc xe ôtô con
( 200 triệu đồng tương đương với giá trị một chiếc xe con rẻ tiền, còn 650
triệu đồng tương đương với giá trị một chiếc ôtô con loại khá ) mới thấy khả
năng về vốn của doanh nghiệp dân doanh của nước ta quá eo hẹp. Quy mô
nhỏ của doanh nghiệp nước ta thể hiện ở ngay cả với hệ thống các doanh
nghiệp nhà nước:... Các Tổng công ty đã thu hút 2000 doanh nghiệp nhà
nước, chiếm 1/3 số DNNN với số vốn là 60.000 tỷ đồng, bằng 95% tổng số
vốn của doanh nghiệp trung ương và bằng 74% tổng số vốn của toàn bộ
DNNN. Như thế, khoảng 4000 DNNN còn lại của nền kinh tế quốc dân cũng
chỉ có tổng số vốn bằng 26% tổng số vốn của DNNN – các DNNN này cũng
chỉ là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Trong khi cơ chế kinh tế mới- cơ

chế kinh tế mở, nước ta phải từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới của nước ta đòi hỏi bức bách vai trò chủ đạo, làm hạt nhân dẫn dắt
các doanh nghiệp dân doanh của các DNNN.
Thứ hai, cơ chế kinh tế mới theo hướng hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và quốc tế đòi hỏi chúng ta phải đổi mới cơ cấu kinh tế, vì cơ cấu kinh tế
cũ dựa trên cơ sở “ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng...” đã khơng cịn thích
hợp. Xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý về cơ cấu kinh tế ngành và tính hợp
lý về cơ cấu kinh tế vùng ở các giai đoạn phát triển của đất nước. Yêu cầu xây
dựng một cơ cấu kinh tế mới, hợp lý trong phạm vi nền kinh tế quốc dân lại
mâu thuẫn với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của từng thành viên kinh tế. Nói
cách khác khơng
phải lúc nào lợi ích của từng thành viên kinh tế ( tối đa hoá lợi nhuận ) cũng
phù hợp với lợi ích của tồn xã hội ( lợi ích xã hội đạt tối đa ). Trong bối cảnh
đó, chỉ có Nhà nước sử dụng các doanh nghiệp do mình lập ra ( DNNN ) mới
có thể điều hoà được sự bất cập trong cơ chế kinh tế theo phương châm ở
ngành nào, vùng nào có nhu cầu mở rộng năng lực sản xuất mà doanh nghiệp
dân doanh khơng làm thì DNNN phải làm. Có như thế mới có thể nói đến việc
hình tành một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, cơ chế kinh tế mới ở nước ta địi hỏi phải quản lý nền kinh tế
nói chung và các hoạt động kinh tế nói riêng bằng pháp luật. Đây là một vấn
đề hồn tồn khơng đơn giản, vì trong nhiều năm qua chúng ta ít chú ý đến

5


vấn đề này, ý thức chấp hành pháp luật của mỗi chủ thể kinh doanh còn quá
thấp. Vấn đề càng phức tạp hơn khi số lượng các chủ thể kinh doanh quá
nhiều, khi mà các doanh nhân đủ loại: có nhiều người đã được đào tạo, am
hiểu pháp luật và kiến thức quản trị kinh doanh, và cũng có rất nhiều người

tham ra vào q trình kinh doanh song cịn thiếu cả ý thức và kiến thức cần
thiết. Trong tình hình đó, các DNNN trở thành lực lượng gương mẫu, đi đầu
trong việc thực hiện pháp luật nói chung và luật kinh doanh nói riêng. Thực
hiện nghiêm chỉnh luật pháp, hướng dẫn các vệ tinh của mình cùng thực hiện
luật pháp là một đòi hỏi tất yếu của cơ chế kinh tế mới đối với các DNNN ở
nước ta.
Đương nhiên, khi các doanh nghiệp dân doanh lớn mạnh đến một mức
nào đó, khi ý thức kinh doanh theo pháp luật cũng như việc thực hiện pháp
luật của các doanh nghiệp dân doanh ngày càng cao thì vai trị của DNNN
trong lĩnh vực này cũng thay đổi theo.
2. DNNN đóng vai trị là cơng cụ thực hiện chức năng điều tiết.
Với đặc trưng của kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa thì các đơn vị kinh doanh hoạt động theo cơ chế
thị trường, Nhà nước đóng vai trị điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Về nguyên tắc, trong cơ chế kinh tế đó mỗi đơn vị kinh doanh là
một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối mặt với thị trường để quyết định các vấn đề
kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? theo
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Điều này tất yếu dẫn đến kết cục là ở đâu, khi
nào, đối với mặt hàng nào có thể đem lại lợi nhuận cao thì ở đó, khi đó các
doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xơ vào sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó
và ngược lại, nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào khơng có lãi hoặc lỗ
vốn thì ở đó, khi đó sẽ có nhiều doanh nghiệp có khả năng rút khỏi thị
trường sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế của mỗi doang
nghiệp về việc thu thập cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị trường để
quyết định có tham gia hay rút khỏi một
thị trường kinh doanh nào đó, tất sẽ dẫn đến nguy cơ có thể phát sinh mâu
thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc mọi nơi và đối với mọi m,ặt hàng. Để chống
lại nguy cơ đó, Nhà nước phải thực hiện chức năng điều tiết bằng nhiều cơng
cụ khác nhau, trong đó DNNN được coi là một cơng cụ.
Đóng vai trị là cơng cụ điều tiết thứ nhất, các DNNN ở nước ta được

hình htành ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh được coi là không hấp dẫn bởi
khả năng sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản xuất sản phẩm công cộng.
Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hướng này tạo ra tính cân đối
giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là cơng cụ điều tiết,
việc hình thành và sự tồn tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh nào đó khơng cố định, ln được nhà nước thực hiện theo phương

6


châm: Ở đây, khi nào nền kinh tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh
doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc
khơng đủ sức kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt của
DNNN. Đến lúc nào đó, khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng
nhu cầu thị trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó, nhường cho các
doanh nghiệp dân doanh. Q trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp lại
ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trị của DNNN.
Thứ hai, chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết
kinh tế trong phạm vi từng vùng. Ở từng vùng cũng diễn ra hiện tượng các
doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi
nhuận, nên dẫn đến mất cân đối trong sản xuất kinh doanh vùng. Chính
DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà những vùng kinh tế của đất nước
đang đòi hỏi nhằm điều tiết cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết kinh
tế vùng của DNNN đặc biệt quan trọng đối với các vùng xa, vùng sâu và vùng
nông thôn.
Như vậy chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước
phải sử dụng DNNN như một công cụ cần thiết nhằm đảm bảo cho nền kinh
tế luôn hoạt động thông suốt, đảm bảo lợi ích xã hội có thể đạt được tối đa
trong cơ chế kinh tế thị trường. Tính hiệu quả lại địi hỏi Nhà nước chỉ sử
dụng DNNN như cơng cụ điều tiết ở những nơi, vào những thời điểm cần

thiết. Điều này có nghĩa là khơng có quan niệm cố định về việc sử dụng
DNNN với tư cách là một cơng cụ điều tiết nền kinh tế mà địi hỏi các DNNN
khi ra đời, tồn tại, mở rộng, thu hẹp một cách hết sức linh hoạt tuỳ theo sự
biến động của kinh doanh nói chung và của kinh doanh trong lĩnh vực dân
doanh nói riêng.
3. Xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhận thức rõ các ưu điểm và hạn chế của kinh tế thị trường, chủ
trương của Đảng ta là không phủ nhận mà thừa nhận kinh tế thị trường, song
không phải
là chủ trương xây dựng kinh tế thị trường đơn thuần mà là kinh tế thị trường
có sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đương nhiên
phải xây dựng một lực lượng kinh tế nào đó đóng vai trị chủ đạo, làm tâm
điểm ảnh hưởng đến các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ
các lực lượng kinh tế khác cùng phát triển.
Chúng ta đều biết, hiện nay trong nền kinh tế quốc dân nước ta đang
tồn tại các đơn vị kinh tế quốc doanh và dân doanh dưới các hình thức pháp lý
là DNNN, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu

7


hạn, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã. Nếu xét trên phương diện kinh tế, lực
lượng kinh tế mạnh nhất, đang chiếm giữ những lĩnh vực then chốt và nắm
trong tay lượng vốn lớn nhất, công nghệ thiết bị hiện đại nhất, lực lượng lao
động tinh nhuệ nhất hiện nay là các DNNN. Nếu xét trên phương diện xây
dựng quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở công bằng, dân chủ và văn minh thì
cũng chỉ DNNN đảm đương được vai trị chủ đạo, bởi vì:
Thứ nhất, như trên đã phân tích, do các doanh nghiệp dân doanh cịn rất
nhỏ bé chưa quen và chưa có ý thức chấp hành pháp luật nên trong các hình

thức pháp lý của doanh nghiệp đang tồn tại hiện nay, DNNN là lực lượng
gương mẫu, đầu tàu trong việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, là tấm
gương để các thành phần kinh tế khác hoc tập.
Thứ hai, để thực hiện xoá bỏ từng bước sự cách biệt giữa miền núi và
miền xi, có những vùng rất cần phát triển một số hoạt động kinh doanh
nâng cao đời sống kinh tế xã hội ở vùng đó, song do mục tiêu tối đa hố lợi
nhuận, các doanh nghiệp dân doanh khơng hoặc rất ít chú ý đến lợi ích tồn
xã hội nên họ khơng sẵn sàng kinh doanh ở những vùng đó. Trường hợp này
cũng chỉ có thể địi hỏi được DNNN làm được việc đó.
Thứ ba, xuất phát từ nhiệm vụ của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là hạn chế và tiến tới xoá bỏ sự phân hoá giàu nghèo, cũng
như sự vi phạm tính cơng bằng xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng các
cộng cụ nhất định, một trong các cơng cụ đó chính là DNNN. Chính DNNN
là lực lượng đóng vai trị hạt nhân trong q trình xây dựng một trật tự xã hội
mới cơng bằng, dân chủ và văn minh.
Để thực hiện vai trò hạt nhân, trước hết, nôi bộ DNNN phải xây dựng
và hồn thiện mơi trường văn hố lành mạnh theo các mục tiêu hướng đích
cuả cơng ty, xây dựng tinh thần hợp tác giúp nhau trưởng thành toàn diện.
Mặt khác, trong doanh nghiệp phải tạo hình mẫu phân phối cơng bằng, hợp lý
các kết quả sản xuất kinh doanh nhằm động viên khuyến khích mọi người lao
động gắn bó, nhiệt
tình và quyết tâm vì doanh nghiệp. Cuối cùng, doanh nghiệp phải là nơi đào
tạo và rèn luyện người lao động mới: có kỷ luật, có kỹ thuật và có năng suất
cao góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN, đồng thời thực hiện
sự nghiệp CNH- HĐH theo đường lối của Đảng.
4. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần trên cơ sở phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế.
Như đã trình bày ở phần trên, theo chủ trương nhất quán, lâu dài của
Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nền kinh tế nước


8


ta đã có nhiều khởi sắc. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần sẽ
huy động và phát huy được tiềm năng và sức mạnh của mọi thành phần kinh
tế vào quá trình xây dựng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, không một nước
nào lại xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước mình chỉ dựa trên các
đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân- đều là các đơn vị kinh tế có
quy mơ nhỏ bé. Trong khi đó, thực trạng nền kinh tế nước ta cho thấy quy mô
của các doanh nghiệp dân doanh hầu như đều rất nhỏ, mặt khác trong thời
gian phát triển ngắn, các doanh nghiệp dân doanh ở nước ta cũng chưa đủ sức
tích luỹ để trở thành các doanh nghiệp có quy mơ đủ lớn có thể làm nịng cốt
cho sự phát triển của đất nước. Trong điều kiện, đó chỉ có các DNNN mới có
đủ điều kiện mở rộng quy mơ, trở hành lực lượng nịng cốt, có đủ sức cạnh
tranh trong khu vực, tạo cơ sở, chỗ dựa để dẫn dắt các doanh nghiệp dân
doanh cùng phát triển. Việc phát triển các DNNN có quy mơ đủ lớn cũng là
một địi hỏi cấp bách của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta hiện nay. Điều cốt lõi trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện
nay ở nước ta là: xác định được một cơ cấu loại hình doanh nghiệp hợp lý,
sao cho loại hình nào cũng có vị trí, vai trị xứng đáng, cũng phát huy được
lợi thế và khai thác được khả năng để đóng góp thiết thực vào sự phát triển
kinh tế của đất nước. Theo đó, các DNNN phải tích lũy vốn phát triển trong
các lĩnh vực then chốt, quan trọng, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế xã
hội. Cần từng bước hình thành các Tổng cơng ty Nhà nước, các tập đoàn kinh
doanh mạnh, tạo xương sống cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phát triển đa
dạng các loại hình doanh nghiệp quy mơ nhỏ và vừa, gắn với các vùng
nguyên liệu nhỏ lẻ, khai thác thế mạnh ở từng địa phương, làm địch vụ vệ tinh
cho các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm và cho các
DNNN quy mô lớn. Mặt khác, phát triển và củng cố các DNNN trong các lĩnh

vực kết cấu hạ tầng, các lĩnh vực tạo sản phẩm phục vụ sự phát triển của xã
hội, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường và trong các lĩnh vực mà các
loại hình doanh nghiệp khác khơng được phép làm. Nguyên tắc cơ bản để
phát triển các loại hình doanh nghiệp là dựa vào tiêu chuẩn hiệu quả. Bất kỳ
lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào mà pháp luật không cấm, nếu các doanh
nghiệp dân doanh làm có hiệu quả thì nên khuyến khích phát triển. Theo cách
này sẽ nâng cao hiệu quả tạo ra cơ cấu
doanh nghiệp hợp lý.
III. VAI TRÒ CHỦ ĐẠO, CHỦ LỰC CỦA DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.

1. Vai trò mở cửa cho mọi thành phần kinh tế khác.
- Trong cơ chế thị trường, để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận các
doanh nghiệp dân doanh chỉ tập trung kinh doanh ở những ngành, những
vùng có hệ số sinh lời cao và hệ số rủi ro thấp; các doanh nghiệp này luôn né
tránh đầu tư vào một số ngành có hệ số sinh lời thấp và hệ số rủi ro cao, cũng

9


như các ngành địi hỏi vốn đầu tư lớn. Đó trước hết là các vùng sâu, vùng xa
của đất nước. Trong tình hình đó địi hỏi trước hết DNNN phải có mặt ở các
ngành, các vùng có mức sinh lời thấp, độ rủi ro cao và đòi hỏi vốn đầu tư lớn
để giải quyết sự mất cân đối giữa các ngành và các vùng của nền kinh tế quốc
dân. Sự có mặt của DNNN để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng
xa sẽ là hạt nhân tạo các điều kiện tiền đề cho các loại hình doanh nghiệp
khác ra đời và phát triển. Ở các vùng sâu, vùng xa DNNN cần phải đảm nhận
chức năng mở đường cho các doanh nghiệp khác phát triển.
Ngoài các vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng các vùng của nước ta hiện
nay nói chung cịn ở trìng độ rất thấp kém. Với cơ sở hạ tầng như hiện nay

chúng ta chưa có đủ các điều kiện để các doanh nghiệp dân doanh sẵn sàng
đầu tư phát triển kinh tế. Trong khi đó, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất lớn,
thu hồi vốn chậm, độ rủi ro cao nên không phải là đối tượng đầu tư của
doanh nghiệp dân doanh. Đương nhiên, DNNN cũng phải có mặt trong lĩnh
vực đầu tư này. Sự có mặt của DNNN trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
đóng vai trị tạo ra các điều kiện tiền đề cần thiết để các doanh nghiệp khác có
thể hoạt động.
- Vai trị chủ đạo, chủ lực của DNNN ở nước ta còn thể hiện ở sự gương
mẫu thực hiện pháp luật. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế nhiều thành
phần, nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong nền kinh tế đó, để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh phát
triển bình thường, Nhà nước phải ban hành hệ thống pháp luật cần thiết, trong
đó có pháp luật kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện các
hoạt động kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật. Nhà nước đóng vai
trị trọng tài, tạo ra sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp cạnh
tranh lành mạnh đối với các hoạt độgn kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh
tế nước ta hiện nay do một số rất lớn doanh nghiệp dân doanh có quy mơ nhỏ
và rất nhỏ, khi thành lập doanh nghiệp chủ doanh nghiệp khơng chỉ có rất ít
kiến thức pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng, mà nhiều người
trong số đó thậm chí thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Một thực tế hiển nhiên
hiện nay là nhiều doanh nhân nhận thức sai lầm
rằng có thể thu được nhiều lợi nhuận bất chấp pháp luật.
Xét trên giác độ tài chính có thể thấy rằng Nhà nước khơng giám sát
được tình hình tài chính của các doanh nghiệp, Nhà nước thất thu, thậm chí
ngân sách thất thu nặng, hiện tượng khốn thuế, “ đàm phán về mức thuế ”, “
làm luật “, trốn lậu thuế, gian lận thương mại xảy ra phổ biến, khơng tạo ra
được một luật chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp và doanh nhân. Trong
bối cảnh đó chỉ có DNNN mới có thể và cần phải là lực lượng tiên phong
trong việc kinh doanh theo pháp luật. Kinh doanh theo pháp luật của các
DNNN sẽ là tấm gương cho các doanh nghiệp khác noi theo.


10


- Vai trò của DNNN ở nước ta hiện nay cịn có thể xem xét ở góc độ
đóng góp vào ngân sách nhà nước. Trong suốt quá trình phát triển nền kinh tê
nước ta từ trước đến nay, DNNN đã, đang và sẽ là lực lượng tạo ra nguồn thu
lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta hiện nay, DNNN cịn
đóng góp đáng kể vào việc tạo ra các hình thức mới trong nền kinh tế quốc
dân. Đó là phần lớn các đối tác trong các doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài là DNNN, DNNN đi đầu trong các lĩnh vực công nghệ cao ( điện, điện
tử, bưu chính viễn thơng...), đi đầu trong việc xây dựng các khu công nghiệp
tập trung, các khu công nghệ cao, các ngành mũi nhọn, then chốt. DNNN
cũng đảm nhiệm phần xây dựng cơ sở hạ tầng và xã hội, tạo đà cho phát triển
kinh tế lâu dài. Mặt khác, DNNN đang tích cực và đi đầu trong phát triển kinh
tế xã hội miền núi, vùng dân tộc ít người và có nhiều khó khăn... góp phần
khắc phục chênh lệch về trình độ phát triển, tạo cơng bằng xã hội.
Trước hết đó là sự phát triển đa dạng hố các loại quy mơ kinh doanh
mà chủ yếu tập trung vào phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh với quy
mô vừa và lớn. Mặc dù cho đến nay còn tồn tại rất nhiều các niệm khác nhau
về quy mơ song có thể nói rằng, với trình độ phát triển kinh tế hiện nay của
nước ta khơng thể khơng tính đến việc phải phát triển loại hình sản xuất kinh
doanh với quy mơ lớn ở một số lĩnh vực nhất định của nền kinh tế quốc dân
bởi rất nhiều lẽ: thứ nhất, trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới hiện nay, chúng ta sẽ khơng thể tính đến sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp nước ta nếu không xây dựng các doanh nghiệp ở một quy mơ
nhất định nào đó, vì chỉ có các doanh nghiệp đó mới có thể có tiềm lực kỹ
thuật và sử dụng lợi thế về quy mơ lớn, kỹ thuật hiện đại có thể tham gia vào
quá trình cạnh tranh kinh tế khu vực và thế giới. Thứ hai, trong khi chủ yếu

các doanh nghiệp nước ta vẫn đang ở trình độ thủ cơng, lạc hậu, hiệu quả kinh
tế thấp thì địi hỏi của nền kinh tế hiện đại là phải phát triển kỹ thuật và ứng
dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại vào sản xuất. Nếu thiếu một số doanh
nghiệp làm hạt nhân có quy mơ lớn thì khơng thể nói
đến nâng cao trình độ kỹ thuật của mọi doanh nghiệp đang hoạt động. Thứ ba,
trong điều kiện trình độ quản lý và ý thức pháp luật hiện thời, khơng thể
khơng tính đến việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp ở một quy mơ tối
thiểu nào đó vì như thế sẽ giảm bớt được số đầu mối càn phải quản lý. Như
vậy có thể nói nền kinh tế nước ta hiện nay địi hỏi phải duy trì một số doanh
nghiệp có quy mơ lớn ở một số lĩnh vực nhất định, chỉ có các DNNN mới có
đủ tiềm lực để đáp ứng địi hỏi này. Bên cạnh đó, DNNN cịn phát triển ở rất
nhiều các quy mô khác nhau và đặc biệt là ở quy mô vừa.
2. Kinh tế tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác.

11


Vai trò tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác phát triển được thể hiện chủ yếu qua các hướng sau đây:
Thứ nhất, thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng
góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Để tạo đà cho mọi doanh nghiệp cùng
góp phần vào q trình tăng trưởng kinh tế, DNNN phải giữ vị trí then chốt
trong một số ngành cũng như một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Các ngành, các lĩnh vực tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
trước hết vào tiềm năng kinh tế của đất nước cũng như q trình khu vực hố
và tồn cầu hố các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy, để DNNN ln ln
đóng vai trị tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế, vấn đề hết sức quan trọng đặt
ra là phải xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế theo hướng hội nhập,
trong đó xác định chính xác các ngành, các lĩnh vực then chốt trong từng thời

kỳ phát triển kinh tế của đất nươc. Khi vai trò tạo đà cho sự tăng trưởng kinh
tế đã thay đổi, Nhà nước cần chuyển dịch vốn đầu tư sang ngành mới.
Thứ hai, DNNN đóng vai trị thúc đẩy, chuyển giao và phát triển công
nghệ kỹ thuật hiện đại. Các ngành thuộc lĩnh vực này có liên quan với các
ngành đóng vai trò tạo đà, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cần chú ý rằng trong
nhiều lĩnh vực việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại không phải và
không thể phát huy ngay được tác dụng trong một thời gian ngắn và cũng xảy
ra nhiều trường hợp trong đó việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại
vào ngành này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật và tăng trưởng ở các
ngành khác có liên quan.
Thứ ba, vai trị giảm thiểu ơ nhiễm mơi trường. Mơi trường và bảo vệ
môi trường đang là vấn đề thời sự nóng hổi khơng phải chỉ đối với nước ta mà
đối với tồn thế giới và cũng khơng phải chỉ ngày một ngày hai mà là cả một
sự nghiệp lâu dài. DNNN cũng phải thể hiện vai trò chủ đạo của mình trong
việc giải quyết vấn đề này. Trước hết, việc nhập khẩu công nghệ kỹ thuật phải
đảm bảo giảm thiểu ô nhiễm môi trường. DNNN phải và chỉ được phép cung
cấp cho các doanh
nghiệp dân doanh công nghệ kỹ thuật đảm bảo chống ô nhiễm môi trường.
DNNN phải là lực lượng đi đầu trong việc chấp hành luật bảo vệ môi trường.
3. Tạo điều kiện các mối quan hệ hợp tác và giúp đỡ các doanh nghiệp
khác.
Như đã phân tích ở trên, nền kinh tế nước ta đến nay bao gồm chủ yếu
là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp có quy mơ rất nhỏ, vốn
đầu tư thấp, kỹ thuật thủ công, lạc hậu. Đặc điểm này dẫn đến kết quả là cho
đến nay phần lớn các doanh nghiệp nước ta không đủ khẳ năng sản xuất một
sản phẩm cơng nghiệp hồn chỉnh với kỹ thuật cao; thơng thường mỗi doanh
nghiệp dân doanh chỉ đủ sức làm vệ tinh, gia công hàng cho một DNNN nào

12



đó. Hệ thống các DNNN ở nước ta từ trước tới nay ln đóng vai trị làm hạt
nhân trong một nhóm sản phẩm nào đó. Cho đến nay, mặc dù cơ cấu kinh tế
có nhiều thay đổi, song vai trị tạo điều kiện hình thành các nhóm sản phẩm,
hiệp hội, thực hiện các mối liên kết dọc, ngang trong nền kinh tế vẫn thuộc về
các DNNN. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay
càng đòi hỏi các doanh nghiệp nước ta phải nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ
thấp chi phí sản xuất. Yêu cầu sẽ khơng thể giải quyết được nếu DNNN có
quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại không đảm đương vai trị là lực lượng nịng cốt,
đảm nhiệm các khâu cơng việc địi hỏi kỹ thuật cao trong tồn bộ q trình
sản xuất sản phẩm, tạo ra xung quanh mình các vệ tinh sản xuất hoặc theo xu
hướng liên kết dọc hoặc theo xu hướng liên kết ngang. Các doanh nghiệp dân
doanh trở thành một mắt, khâu nào đó trong tồn bộ quá trình sản xuất sản
phẩm. Trong mối liên hệ liên kết dọc, ngang này DNNN không chỉ đảm
nhiệm những khâu, những cơng việc địi hỏi kỹ thuật cao mà cịn có trách
nhiệm hướng dẫn các doanh nghiệp thành viên của mình từng bước nâng cao
trình độ kỹ thuật cơng nghệ.
Trong các mối liên doanh, liên kết kinh tế, DNNN có đủ sức thực hiện
liên doanh với các doanh nghiệp nước ngồi hình thành các doanh nghiệp liên
doanh. Cho đến nay, chủ yếu các doanh nghiệp liên doanh ở nước ta được
thực hiện giữa một hoặc các bên Việt Nam là DNNN và một hoặc các bên
nước ngoài. Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngồi hình thành
doanh nghiệp liên doanh, DNNN đã đóng vai trị làm cầu nối hình thành
doanh nghiệp tư bản nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn đang
thiếu vốn và kỹ thuật trầm trọng như hiện nay, việc hình thành các doanh
nghiệp tư bản nhà nước được coi là một trong các điều kiện quan trọng để tạo
vốn và kỹ thuật ban đầu cần thiết cho sự phát triển kinh tế cũng như để phát
huy nội lực, lôi kéo ngoại lực. Vai trò này của DNNN đòi hỏi phải xác định
đúng đắn các lĩnh vực, ngành cần có sự liên doanh, liên kết nhằm tạo động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển tại các vùng kinh tế cụ thể của đất nước.

Bên cạnh đó, DNNN cịn đóng vai trị tạo điều kiện giúp đỡ doanh nghiệp
nhỏ của các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta, vốn
ít, kỹ thuật thủ cơng, lạc hậu, trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý cịn rất hạn
chế cho nên sự giúp đỡ của DNNN đối với các doanh nghiệp nhỏ là cần thiết.
Sự giúp đỡ của các DNNN đối với các doanh nghiệp nhỏ được thực hiện
trước hết thông qua các mối quan hệ kinh tế giữa DNNN và doanh nghiệp
nhỏ.

13


14


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
I. KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA DNNN.

1. Các kết quả chủ yếu của quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng và các
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Đảng, Chính phủ
đã chỉ đạo thực hiện 3 đợt sắp xếp lớn các DNNN: 1990 – 1993; 1994-1997
và từ giữa năm 1998 tới nay. Và đã đạt được đạt được những kết qủa đáng
khích lệ:
a) Nội dung của q trình sắp xếp, đổi mới các DNNN (chủ yếu là đợt
3):
Một là, đổi mới cơ chế, chính sách: DNNN tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
thực sự hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường; đổi mới cả về kế hoạch,
về tài chính, về tổ chức bộ máy, cán bộ và đổi mới quản lý nhà nước theo

hướng xoá bỏ chế độ chủ quản của các cơ quan hành chính nhà nước đối với
DNNN.
Hai là, sát nhập, giải thể, cho phá sản DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài
mà Nhà nước không cần nắm giữ. Cơ cấu DNNN bước đầu được điều chỉnh
hợp lý, có tác động tích cực đến q trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành
và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ cơng nghệ cao và có sức
cạnh tranh.
Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các Tổng công ty nhà nước
(TCTNN) nhằm tập trung nguồn lực của nhà nước vào các ngành then chốt
mà nhà nước cần chi phối... Thời gian qua đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí
nghiệp và Tổng cơng ty. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập 17 Tổng
công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố
trực thuộc Trung ương quản lý 77 Tổng công ty 90. Các TCTNN có 1534
doanh nghiệp thành viên hạch tốn độc lập, chiếm 27,5% tổng số doanh
nghiệp cả nước, 61% về lao động (riêng 17 tổng cơng ty 91 có 491 doanh
nghiệp tành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN, 35% lao
động). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước
điểu tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo tồn và tích tụ

15


được vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công
nghệ, tăng năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà nhà nước không cần nắm
giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển. Đến ngày 15/8/2000 cả nước cổ phần hoá được 369 bộ
phận doanh nghiệp với tổng số vốn là 1920 tỉ đồng (tăng 12% so với trước khi

cổ phần), bằng 1,6% tổng số vốn nhà nước trong các DNNN. Nhìn chung, các
chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng công nhân viên trong
các doanh nghiệp cổ phần hoá đều tăng so với trước. Cùng với q trình cổ
phần hố, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số DNNN đầu tư một phần
vốn lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 15/8/2000, DNNN đã đầu tư vốn
thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn nhà nước là 868,8 tỉ đồng,
chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy: 267 cơng ty
(96,4%) có lãi, 12 cơng ty cịn lại (3,6%) hồ vốn.
Năm là, thực hiện giao khoán, bán và khoán kinh doanh, cho thuê
những DNNN có quy mơ nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản
nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động. Thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khố VIII), Chính phủ đã ban hành Nghị định số
103/1999/NĐ-CP về giao bán, cho thuê và đã thực hiện được27 DNNN có
vốn nhà nước dưới 1 tỷ đồng. Các doanh nghiệp này đều trở thành cơng ty cổ
phần và có kết quả sản xuất kinh doanh khá lên rõ rệt. Thực tế cho thấy, việc
thực hiện giao, bán, khoán cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình
trạng giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của nhà nước; khắc
phục được tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của
doanh nghiệp được phát huy, xoá được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả
năng huy động nguồn vôn trong dân.
b) Một số kết quả quan trọng của quá trình sắp xếp và đổi mới và
phát triển DNNN:
Các DNNN đã được tổ chức sắp xếp lại theo Nghị định 388/HĐBT ngày
20-11-1991 cổ phần hoá một số DNNN và thành lập các Tổng công ty 90 và
Tổng công ty 91. Đến tháng 5- 2001, tổng số có 502 DNNN đã được cổ phần
hố, trong đó có 349 doanh nghiệp đã bán trên 65% cổ phần cho các cổ đơng
ngồi Nhà nước. Số doanh nghiệp đã hồn thành cổ phần hoá tăng liên tục
trong 3 năm qua. Kết quả đó được thể hiện qua bảng sau:

16



Bảng 1: SỐ DNNN HỒN THÀNH CỔ PHẦN HỐ (CPH) ĐẾN THÁNG 5- 2001
1998 1999 2000 5tháng2001
Số doanh nghiệp có quy định CPH
126
247
206
63
Bán dưới 51% cổ phần
13
19
46
7
Bán 51%- 65% cổ phần
12
15
37
4
Bán trên 65% cổ phần
27
117
142
63
Số doanh nghiệp hoàn thành CPH
52
151
225
74
Nguồn: Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương


Tổng
642
85
68
349
502

Đó là tiến bộ quan trọng trong việc cơ cấu lại và tổ chức lại DNNN
theo hướng tập trung vào những ngành, lĩnh vực và vùng quan trọng; tăng quy
mô và thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Vấn đề liên doanh liên kết giữa DNNN với các thành phần kinh tế
trong nước, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được phát
triển. Vốn đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế khác chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn, doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngồi nộp ngân sách nhà
nước từ 20- 24%, tạo ra việc làm cho khoảng 1,7 triệu lao động
Công nghệ, phương tiện, phương pháp sản xuất kinh doanh và quản lý
một số doanh nghiệp nhà nước ngày càng hiện đại hơn, quy mô lớn hơn.
Tốc độ tăng trưởng chung của DNNN nhanh hơn tốc độ tăng trưởng
chung của nền kinh tế. Tỷ trọng GDP và tích luỹ của DNNN cao nhất trong
các thành phần kinh tế và đang chi phối sự phát triển của các thành phần kinh
tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước ta xác định.
Số lượng DNNN hoạt động có hiệu quả nhiều hơn, hiệu quả sử dụng
vốn cao hơn. Các DNNN gương mẫu đi đầu trong việc nộp thuế và tích luỹ
đầu tư. Nhờ đó DNNN đã nộp ngân sách, trả lãi suất vay ngân hàng chiếm tỷ
trọng cao nhất so với các thành phần kinh tế khác.
Tất cả các tiến bộ quan trọng trên của DNNN có thể minh hoạ bằng
những số liệu sau: Trong 15 năm qua, số lượng DNNN đã giảm từ 12.300
(trước năm 1990) còn 5.571 doanh nghiệp (giảm 54,7%) vào năm 2000. Cơ
cấu DNNN đã được điều chỉnh hợp lý hơn, q trình tích tụ, tập trung vốn đã

có bước cải tiến đáng kể. Nếu năm 1994 số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng
chiếm tới 50% thì đến năm 2000 số đó chỉ cịn 25%. Số DNNN có số vốn trên
10 tỷ đồng tăng tương ứng là 10% lên 20%. Vốn bình quân của tất cả các
DNNN tăng 7lần, từ 3,3 tỷ đồng (năm 1994) lên 22 tỷ đồng (năm 2000). Phần
đóng góp của DNNN chiếm gần 40% tổng nộp ngân sách và trên 50% kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ nộp ngân sách trên một đồng vốn tăng từ
14,7% (năm 1991) lên 28% (năm 2000). Tỷ trọng đóng góp của DNNN trong
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng tương ứng từ 6,8% (năm 1993) lên 12%
17


(năm 2000). Từ năm 1995 đến nay, hàng năm DNNN đóng góp từ 26- 28%
nguồn thu thuế nội địa. Nếu tính tất cả các khoản thu thuế và phí (thuế xuất
nhập khẩu, phí sử dụng tài ngun...) được thu thơng qua DNNN, thì đóng
góp khoảng 60% các nguồn thu thuế và phí của ngân sách nhà nước. DNNN
cũng đang sử dụng khoảng 15% lực lượng lao động trong các ngành nghề phi
nơng nghiệp.
Những năm đổi mới do có những chủ trương, chính sách, cơ chế đúng
đắn
của Đảng và Nhà nước, với nỗ lực của mình DNNN đã tồn tại và phát triển
trong cơ chế mới, được xã hội thừa nhận. Nhờ đó, DNNN đạt tỷ trọng lớn
nhất trong GDP, tăng tích luỹ và sản phẩm, dịch vụ chủ yếu trong nền kinh tế,
có tác động quyết định đến xu thế phát triển kinh tế xã hội, góp phần quan
trọng trong việc giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội của doanh nghiệp, của
ngành, của địa phương và toàn xã hội. Có thể nói, DNNN đã có những tiến
bộ về chất trong hoạt động đó là: về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế tổ chức sản xuất
theo chỉ tiêu pháp lệnh trên giao; vai trò tự chủ trong kinh doanh và tự chủ tài
chính được xác lập và mở rộng, doang nghiệp được giao vốn, tự chịu trách
nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; chức năng quản lý sản xuất của Nhà nước
được xác định ngày càng rõ và hoàn thiện; Nhà nước từng bước quản lý

doanh nghiệp bằng pháp luật, nên môi trường và hành lang pháp lý được xác
định rõ ràng hơn.
Những tiến bộ quan trọng cả về số lượng và chất lượng nói trên của
DNNN đang làm cho kinh tế nàh nước bước đầu phát huy vai trò chủ đạo trên
một số mặt cụ thể: hệ thống kinh tế nhà nước với các thể chế thống nhất đang
làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá. Trong nhiều năm
DNNN là đối tác chủ yếu thực hiện liên doanh với nước ngoài, giải quyết
ngày càng tốt hơn nhiều vấn đề xã hội, như bảo đảm cơng ăn việc làm, góp
phần xố đói, giảm nghèo, chính sách bảo hiểm, cơng bằng xã hội, phát triển
văn hoá, giáo dục, v.v... Sự đổi mới của kinh tế nhà nước đang mở đường,
hướng dẫn, hỗ trợ và hợp tác để phát triển kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
hợp tác, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ. Kinh tế nhà nước đang tạo ra
lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà nước thực hiện chức năng điều
tiết và quản lý vĩ mô, ổn định xã hội, hạn chế khuyết tật của kinh tế thị
trường. Kinh tế nhà nước chủ động trong xây dựng con người mới, thể hiện ở
việc thu hút ngày càng nhiều đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao từ
đó tạo điêù kiện phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân, thực hiện liên minh
cơng-nơng- trí thức đảm bảo tăng trưởng ổn định xã hội công bằng, dân chủ
văn minh.
2. Nguyên nhân của những kết quả bước đầu đã đạt được.

18


Nguyên nhân đạt được những kết quả bước đầu của DNNN bao gồm
nhiều mặt, nhưng có thể tóm tắt những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Quan điểm và chủ trương đổi mới đúng đắn của Đảng về đổi mới kinh
tế nhà nước, DNNN, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phù
hợp với đòi hỏi của thực tiễn nên nhanh chóng đi vào cuộc sống. Quan điểm
và chủ trương đúng đắn xuyên suốt trong toàn bộ đường lối đổi mới kinh tế

nhà nước trong 16 năm qua được thể hiện trong các Văn kiện và Nghị quyết
của Đảng từ Đại hội VI, VII, VIII, IX. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3
khoá IX đã khẳng
định: “Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu
dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có
Nghị quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết triển khai thực hiện; những vấn
đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời
uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực nhưng vững
chắc”.
- Những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế nhà nước,
DNNN ngày càng hoàn thiện. Nhà nước đã thể chế hoá các quan điểm, chủ
trương của Đảng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, DNNN thành các
văn bản pháp quy như: Quyết định 217/HĐBT ngày 14-11-1987 của Hội đồng
Bộ trưởng về một số chính sách đổi mới cơ chế hạch tốn kinh doanh trong
các xí nghiệp quốc doanh; Nghị định 50/HĐBT ngày 22-3-1988 của Hội đồng
Bộ trưởng ban hành Điều lệ xí nghiệp cơng nghiệp quốc doanh; Quyết định
322/HĐBT ngày 23-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo toàn và phát
triển vốn kinh doanh đối với các DNNN; Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Luật DNNN năm 1995; Nghị định 59/CP ngày 3-101996 của Chính phủ ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch tốn kinh
doanh đối với DNNN; Luật thương mại năm 1997; Chỉ thị 20/1998/CT-TTg
ngày 21-4-1998 về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN; Nghị định
103/1999/NĐ-CP ngày 10-9-1999 của Chính phủ giao, bán, khốn kinh
doanh, cho th DNNN; chính sách mở rộng quan hệ kinh tế với các nước
trong khu vực và quốc tế. Những văn bản pháp quy đó là cơng cụ quan trọng
để Nhà nước quản lý vĩ mô đối với DNNN và là môi trờng pháp lý cho phép
DNNN phát huy quyền chủ động của mình trong đổi mới và phát triển sản
xuất kinh doanh.
- Tính năng động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ,
công nhân viên trong một số DNNN được nâng cao hơn. nhờ các chủ trương

đúng đắn về đổi mới DNNN trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội hủ nghĩa nên nhiều cán bộ, cơng nhân viên
đã tích cực, chủ động vượt qua khó khăn, hưởgn ứng chấp hành chính sách,
chế độ của Nhà nước, thực hiện các biện pháp để chuyển sang hạch toán kinh

19


doanh theo chế độ mới, như chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ, thay đổi
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, tinh giản biên chế theo
Quyết định số 176/HĐBT, đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ, đánh giá
và lựa đội ngũ cán bộ có trình độ và năng động hơn trong kinh doanh.
- Sự hợp tác đa phương, đa hình thức, hướng về xuất khẩu của DNNN
được phát triển cả về quy mô và hiệu quả. Thực hiện chủ trương hợp tác đa
phương, đa hình thức, chúng ta đã tranh thủ được bằng mọi cách, mọi hình
thức sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế, các chủ doanh nghiệp
nước ngoài cho các thành phần kinh tế, mà chủ yếu trước hết được thực hiện
trong việc tạo lập thị
trương tiêu thụ, đổi mới công nghệ, phương tiện, phương pháp trong sản xuất
kinh doanh và quản lý; thu hút nguồn vốn của nước ngồi thơng qua các hình
thức đầu tư liên doanh và hợp tác kinh doanh...
II. NHỮNG TỒN TẠI, YẾU KÉM CỦA DNNN HIỆN NAY.

1. Những tồn tại, yếu kém của DNNN.
Trong việc phát huy vai trò chủ đạo của DNNN cịn có những mặt tồn
tại. Chưa thực sự làm địn bẩy để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế bền vững ổn
định; chưa giải quyết được những vấn đề cơ bản về mặt xã hội đang đặt ra;
vai trò mở đường, hướng dẫn, giúp đỡ các thành phần kinh tế khác và vai trị
đối tác chính của DNNN trong liên doanh còn yếu chưa tạo đầy đủ vật chất để
đảm bảo vững chắc những cân đối lớn của nền kinh tế và để Nhà nước thực

hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mơ; tình trạng tham ơ lãng phí, tham
nhũng trong DNNN còn gia tăng... Đặc biệt khả năng cạnh tranh thấp của các
DNNN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trên thị trường nội địa cũng như
thị trường quốc tế.
Những tồn tại trên chưa khắc phục được vì chính bản thân DNNN cịn
có những yếu kém sau đây:
Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các
DNNN còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ
tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó địi ngày càng lớn; tính
năng động của một bộ phận khơng nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá
chung, số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số
doanh nghiệp kinh doanh khơng có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%,
còn lại 40% số doanh nghiệp kinh doanh chưa có hiệu quả, khi lỗ khi lãi.
Khơng ít doanh nghiệp xây dựng dự án, kế hoạch không phù hợp với định
hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính khả thi; việc bảo tồn vốn của
khơng ít doanh nghiệp chưa tốt, cịn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn. Những
mặt hạn chế trên của các DNNN được thể hiện rất rõ qua tình hình hoạt động

20



×