Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Hoạt động của các tổ chức tài chính Việt Nam giai đoạn 2014 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.45 KB, 39 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

BÀI TẬP LỚN
MÔN TIỀN TỆ NGÂN HÀNG
Đề tài: Hoạt động của các tổ chức tài chính Việt Nam
giai đoạn 2014 đến nay.

Nhóm tín chỉ:17
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Vũ Mai Chi
Nhóm: 07

Hà Nội - 2017


2

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

BÀI TẬP LỚN
MÔN TIỀN TỆ NGÂN HÀNG
Đề tài: Hoạt động của các tổ chức tài chính Việt Nam
giai đoạn 2014 đến nay.

Nhóm tín chỉ:17
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Vũ Mai Chi
Nhóm: 07

Hà Nội - 2017



3

Danh sách thành viên nhóm

ST
T
1

Họ và tên
Vũ Thị Thanh Hải – Nhóm trưởng
(01233110997)

Mã sinh viên
18A4010161

2

Nguyễn Thị Lan Anh

18A4010039

3

Trần Thị Mỹ Linh

18A4010308

4


Cao Đỗ Ngọc Mỹ

18A4010359

5

Nguyễn Thị Mai

18A4010330

6

Nguyễn Thị Thảo

18A4010496

7

Nguyễn Thị Ngọc Anh

18A4000043

8

Phạm Lan Anh

18A4010051


4


MỤC LỤC


5

PHẦN I. MỞ ĐẦU
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát
triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và
quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngược lại khi nền
kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị
trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện.
NHTM là hệ thần kinh, trái tim của nền kinh tế, là dấu hiệu báo hiệu trạng thái
sức khoẻ của nền kinh tế. Các ngân hàng mạnh, nền kinh tế mạnh. Ngược lại, các
ngân hàng yếu, nền kinh tế sẽ yếu kém. Thậm chí nếu ngân hàng đổ vỡ nền kinh tế
sẽ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ.
Với tư cách là tổ chức trung gian tài chính nhận tiền gửi và tiến hành các hoạt
động cho vay và đầu tư. NHTM đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội
như là người mở đường, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình
sản xuất kinh doanh. NHTM ngày càng đóng vai trò là trung tâm tiền tệ, tín dụng
và thanh toán của các thành phần kinh tế, là định chế tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế.
Nhất là tại các nước đang phát triển như Việt Nam, NHTM thực sự đóng vai
trò rất quan trọng vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền
kinh tế được lưu thông và góp phần bôi trơn cho hoạt động của nền kinh tế thị
trường non yếu. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động của ngân hàng nước ta
đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát
triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Hệ
thống NHTM xứng đáng là công cụ hỗ trợ đắc lực cho nhà nước đẩy lùi lạm phát,
ổn định giá cả.



6

PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về NHTM
1.1. Khái quát về NHTM
NHTM là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
(Theo điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng Số 47/2010/QH12)
Các chức năng của NHTM
Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội
Thực hiện chức năng này NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh
nghiệp, các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và
chi tiền của họ. Đối với khách hàng thông qua việc gửi tiền vào ngân hàng họ
không những được đảm bảo an toàn về tài sản mà còn thu được một khoản lợi tức
từ ngân hàng. Đối với ngân hàng nó là cơ sở để thực hiện chức năng trung gian
thanh toán đồng thời tạo nguồn vốn chủ yếu cho NHTM thực hiện chức năng trung
gian tín dụng.
Chức năng trung gian tín dụng
Đây được xem là chức năng cơ bản nhất của NHTM. Khi thực hiện chức năng
trung gian tín dụng, NHTM là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về
vốn, vừa là người đi vay, vừa là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh
lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay, góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
bên tham gia. Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó mang đến
lợi nhuận lớn nhất cho NHTM.
Chức năng trung gian thanh toán
NHTM thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ
tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài



7
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh
của họ. Các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ
nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa. Do vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều
chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,
từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền
Kết hợp giữa chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung gian tín
dụng làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay
ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số
dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận
của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với
chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền
kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM tạo tiền phụ thuộc
vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy NHTW có
thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
1.2Đặc điểm của NHTM
Là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì mục tiêu lợi
nhuận
Có quy mô lớn, hệ số nợ rất cao và cấu trúc tài sản đặc biệt. Ở Việt Nam,
vốn chủ sở hữu của các NHTM là hàng nghìn tỷ đồng, mạng lưới các chi nhánh
thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nợ
được huy động từ bên ngoài Ngân hàng. Phần lớn tài sản của NHTM là tài sản tài
chính, mang đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản đơn chỉ là giấy tờ hoặc
thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử.



8
Hoạt động của NHTM luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu sự kiểm soát,
giám sát chặt chẽ của hệ thống luật pháp. Hệ số nợ cao sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt
động cũng cao. Bên cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu của NHTM lại là tiền gửi với
đặc trưng có thể bị rút ra trước hạn với khối lượng khó xác định. Rủi ro trong hoạt
động của NHTM đa dạng, ở mức độ cao, tích luỹ nhanh và dễ lây lan: rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro
đạo đức,…
Tính liên kết và ổn định của hệ thống Ngân hàng. Hoạt động như một hệ
thống các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một NHTM, dù yếu và nhỏ nhất, gặp
khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ
phá sập cả hệ thống. Hệ thống Ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy
cảm với mọi biến động về kinh tế, kỹ thuật, chính trị xã hội. Những biến động này
thường có tác động gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính, điển
hình là thị trường chứng khoán, theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
của hệ thống Ngân hàng.
1.3Vai trò của NHTM
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Trong thực tế, các doanh nghiệp muốn phát triển kinh tế thì phải cần có lượng vốn
đủ lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như những hoạt động
khác. Khó khăn của các đơn vi kinh tế là họ không thể tự đứng ra để tập trung mọi
khoản tiền nhàn rỗi để cung ứng kịp thời cho nhu cầu vốn thiết yếu. Ngân hàng
thương mại, thông qua hoạt động tín dụng, đã huy động được mọi nguồn lực trong
xã hội để cung ứng vốn kịp thời cho hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp. Nhờ
đó, các cá nhân cũng như tổ chức kinh tế có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến
công nghệ, năng suất lao động tăng lên, nâng cao được chất lượng sản phẩm cũng
như hiệu quả kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường:



9
Tín dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường
nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp - vấn đề luôn là mối lo thường trực của
các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân hàng
đối với doanh nghiệp là một ngân quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ lao động
phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ cao. Đặc biệt trong
điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu ngành, những cán bộ
có năng lực và những công nhân lành nghề.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được chia làm hai cấp:
Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh (NHTM). Nhà nước điều tiết
ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và thanh
toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống, từ đó góp phần mở rộng khối
lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Bên cạnh đó, thông qua việc cung ứng tín
dụng cho các ngành trong nền kinh tế, Ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn
dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia và điều khiển vốn một cách có hiệu quả.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế:
Một trong những điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế
quốc gia với nền kinh tế thế giới là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia
kết nối với nền tài chính quốc tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại
trong các lĩnh vực kinh doanh ( nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, ngoại
hối…). Đặc biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ
tín dụng với ngân hàng Nhà nước đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần
thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó, Ngân hàng thương
mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của
nền tài chính quốc tế.



10
1.4Các loại hình NHTM
NHTM Nhà nước: là NHTM trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều
lệ. Bao gồm NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và NHTM cổ phần do
Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.
NHTM cổ phần: là NHTM được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.
NHTM liên doanh: là NHTM được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của
bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và bên nước ngoài (gồm
một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh. NHTM liên
doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên
trở lên, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
NHTM 100% vốn nước ngoài: là NHTM được thành lập tại Việt Nam với
100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài; trong đó phải có một ngân hàng nước
ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (ngân hàng mẹ). NHTM 100% vốn nước ngoài
được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc từ
hai thành viên trở lên, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
1.5Các hoạt động của NHTM
NHTM hoạt động dựa trên những quy định cụ thể (về phạm vi, loại hình, nội
dung hoạt động) trong Giấy phép mà Ngân hàng Nhà nước cấp, thực hiện theo
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
1. Hoạt động ngân hàng của NHTM
Nhận tiền gửi
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn
trong nước và nước ngoài.
Cấp tín dụng
Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
Cung ứng các phương tiện và dịch vụ thanh toán.
2. Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước
3. Vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính



11
4. Mở tài khoản
5. Tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán
6. Góp vốn, mua cổ phần
7. Tham gia thị trường tiền tệ
8. Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh
9. Nghiệp vụ ủy thác và đại lý
10. Các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại: quản lý tiền
mặt; tư vấn ngân hàng, tài chính; bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két an toàn; mua,
bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp; lưu ký chứng khoán, kinh doanh
vàng ...

1.6Kinh nghiệm quốc tế về việc xây dựng hệ thống NHTM
Một số ngân hàng lớn trên thế giới với dịch vụ phát triển và có chi nhánh tại
Việt Nam: Ngân hàng CitiBank - Mỹ, Ngân hàng HSBC - Anh, Ngân hàng ANZ –
Australia. Những nước này có hệ thống NHTM phát triển là do:
Thứ nhất, hệ thống NHTM được sắp xếp tổ chức hợp lý, đảm bảo cho NHTM
trong nền kinh tế hoạt động theo pháp luật, phục vụ tốt nhất cho yêu cầu phát triển
của ngành NH và của nền kinh tế.
Thứ hai, hệ thống NHTM với nhiều hình thức sở hữu hoạt động kinh doanh ở
từng địa phương đến các vùng kinh tế với cách phân bổ hợp lý về hội sở, chi nhánh
và các phòng giao dịch.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh của NHTM có sự phân tầng, có các NHTM
mạnh đủ sức cạnh tranh với các NHTM trong khu vực và trên thế giới, đồng thời
cũng có các NHTM ở mức trung bình làm chức năng kinh doanh tiền tệ - tín dụng
trong nền kinh tế.
Thứ tư, mỗi NHTM hoạt động kinh doanh phải có nguồn tài chính vững chắc,
sẵn sàng hội nhập với hệ thống NHTM các nước trong khu vực và trên thế giới.



12
Lấy ví dụ về Mỹ- một trong những trung tâm tài chính phát triển nhất thế
giới. Về nguyên tắc, việc tăng vốn điều lệ cho phép các ngân hàng đầu tư thêm về
công nghệ, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, mở rộng thêm mạng lưới và quy mô
hoạt động. Nghĩa là kỳ vọng về doanh thu và lợi nhuận sẽ lớn hơn. Nhưng tăng vốn
không có nghĩa là an toàn, mở rộng quy mô hoạt động cũng không đồng nghĩa kinh
doanh hiệu quả hơn. Trong một số trường hợp, việc duy trì quy mô nhỏ sẽ bền vững
hơn, chẳng hạn như ở Mỹ.
Ngân hàng First Vietnamese American lập ra vào năm 2005 ở Mỹ chỉ có số
vốn 15 triệu USD nhưng vẫn cạnh tranh được với Bank of America hay Wells
Fargo ở địa phương. Đó là nhờ có Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang Mỹ
(FDIC) bảo hiểm cho tất cả các ngân hàng hoạt động ở Mỹ. Thành ra người dân bỏ
tiền vào một ngân hàng nhỏ xíu trong một làng cũng được bảo hiểm y như khi gửi
ở một ngân hàng lớn tại New York.
Mỹ hỗ trợ công bằng cho cả ngân hàng nhỏ do đó, các ngân hàng địa phương
không hề lo thiếu vốn. Mỹ khuyến khích ngân hàng đi vào cộng đồng nhỏ để phục
vụ, tăng hiệu quả nhờ cạnh tranh. Các ngân hàng lớn thường chỉ quan tâm đến
khách hàng lớn. Bởi vậy mà có lẽ các ngân hàng ở Mỹ phục vụ đến 80% dân cư,
còn ngân hàng ở Việt Nam chỉ phục vụ được khoảng 20%. Theo FDIC, trung bình
từ 2007-2011, có hơn 78,2% số NHTM tại Mỹ chỉ hoạt động ở một địa phương
nhất định. Việt Nam muốn các ngân hàng nội địa mạnh thì cần phát triển thị trường
tài chính, chứ không đơn giản là yêu cầu họ tăng vốn.
Sau cuộc đại khủng hoảng 2008, Chính phủ Mỹ đã phải can thiệp trực tiếp đến
hệ thống tài chính bằng những chính sách quyết liệt như bơm tiền, hạ lãi vay, mua
trái phiếu, sáp nhập ngân hàng, quốc hữu hóa ngân hàng.
Rủi ro hệ thống ngân hàng Việt nam không đến từ các ngân hàng có quy mô
lớn mà đến từ những ngân hàng nhỏ, dễ bị rủi ro thanh khoản và gây rủi ro lan
truyền cho toàn hệ thống. Phương pháp tái cấu trúc ngân hàng lâm vào tình trạng



13
khủng hoảng cũng được NHNN áp dụng giống như một vài cách mà Cục dự trữ
liên bang Mỹ đã làm. Quốc hữu hóa những ngân hàng yếu kém, không có khả năng
tăng vốn, không có khả năng sáp nhập là một biện pháp đúng đắn nhằm đảm bảo
giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam.

2. Thực trạng hoạt động của NHTM tại Việt Nam
2.1Các văn bản pháp lý về hoạt động của NHTM
Một số bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động của ngân hàng
thương mại:
- Luật các tổ chức tín dụng 2010
- Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
- Văn bản hợp nhất số 05/2015/VBHN-NHNN quy định về việc cấp giấy phép, tổ
chức,hoạt động của ngân hàng thương mại
- Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng do
Quốc hội ban hành
- Văn bản hợp nhất 26/VBHN-NHNN năm 2016 hợp nhất thông tư quy định giới
hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành
- Thông tư 39/2016 /TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng
- Văn bản hợp nhất 43/VBHN-NHNN năm 2016 hợp nhất nghị định về thanh toán
không dùng tiền mặt do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành
Nhận xét, đánh giá về khung pháp lý hiện hành:
Ngân hàng thương mại là một loại hình trung gian tài chính đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động của hệ thống ngân hàng có ảnh
hưởng lớn tới sự vững mạnh của hệ thống tài chính quốc gia cũng như nền kinh tế
nói chung.
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn

bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ cũng như ngày càng hoàn
thiện khung pháp lý về tổ chức hoạt động của TCTD nói chung và NHTM nói
riêng. Không giống như doanh nghiệp thông thường, ngân hàng hoạt động trên cơ


14
sở mỗi nghiệp vụ được dựa trên nền tảng hàng loạt văn bản quy chế, quy trình, quy
định.
Các văn bản quy định nội bộ của ngân hàng lại có mối liên hệ chặt chẽ với các
văn bản pháp quy. Pháp luật có sự thay đổi, thì quy trình nội bộ của ngân hàng cũng
phải thay đổi.
Giữa các bộ luật, các văn bản pháp luật đã có tính đồng bộ, thống nhất với
nhau về quy định về hoạt động của NHTM. Mặc dù đã đề cập đến hầu như là khá
đầy đủ về các quy định về hoạt động của NHTM song bên cạnh đó vẫn tồn tại
nhiều bất cập và thiếu sót như:
Một là, chưa có chiến lược tổng thể phát triển hệ thống NHTM phù hợp với
quy mô thị trường Việt Nam.
Hai là, công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các NHTM với vai trò là
TCTD chưa chặt chẽ, chưa kịp thời đưa ra những cảnh báo và biện pháp thực sự
quyết liệt nhằm hạn chế rủi ro và chấn chỉnh những vi phạm, yếu kém của nhiều
NHTM. Trên cơ sở Luật Thanh tra, thanh tra chuyên ngành ngân hàng có những
khó khăn trong việc tuân thủ phương pháp thanh tra, quy trình thanh tra, nội dung
thanh tra, nội dung báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra, công khai kết luận
thanh tra, xử lý sau thanh tra dẫn đến việc thanh tra giám sát chưa đạt hiệu quả.
Ba là, giữa lý thuyết và việc thực hiện các quy định pháp luật của các NHTM
còn chưa có sự thống nhất, chưa thực sự thực hiện đúng theo luật.
Bốn là, các quy định về việc mua lại các NHTM với giá 0 đồng còn chưa rõ
ràng, chưa phù hợp với với các quy định chung của ngành ngân hàng trên thế giới.
Một số đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý:
Một là, cần có chiến lược, định hướng cụ thể để phát triển ngành ngân hàng

một cách phù hợp với nền kinh tế nước nhà.
Hai là, hoàn thiện các quy định an toàn, các biện pháp thận trọng trong hoạt
động ngân hàng; các quy định, chính sách quản lý các loại hình tổ chức tín dụng và
hoạt động ngân hàng, đồng thời, đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình thanh
tra, giám sát phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ ngân
hàng và trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng.
Ba là, cần đưa ra những hình phạt cụ thể và quyết liệt về pháp lý đối với tổ
chức không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Bốn là, cần nhanh chóng bổ sung và đưa ra các quy định về việc áp dụng luật
phá sản đối với các TCTD nói chung và NHTM nói riêng, từ đó đưa ra các quy
định về việc mua lại các NHTM với giá 0 đồng của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.


15
2.2Hoạt động
a. Tổng tài sản
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm

NHTM

NHTM

Tổng TS toàn hệ

Tốc độ tăng so với

NN


CP

thống

năm trước(%)

2014

2876,17

2781

6514,9

-

2015
2016
2017

3303
3860

2928
3420

>7300
>8500


12,35%
18,16%

4200
3720
(31/08/2017)
Từ bảng trên, có thể thấy:

>9250

8,79%

Cuối năm 2014, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng đạt 6.514,9 nghìn tỷ
đồng. Và tăng dần theo các năm cho đến nay, cụ thể, năm 2015 tổng tài sản toàn hệ
thống đạt hơn 7,3 triệu tỷ đồng tăng 12,35% so với năm ngoái; cuối năm 2016, tổng
tài sản của hệ thống các tổ chức tín dụng vượt 8,5 triệu tỷ đồng, tăng 18,16% so với
cuối năm 2015 và tính đến thời điểm ngày 31/08/2017 tổng tài sản đã đạt hơn 9,25
triệu tỷ đồng tăng 8,79% so với năm trước. Tuy tổng tài sản tăng nhưng tốc độ tăng
qua các năm lại có xu hướng giảm dần từ 12,35% (2015) xuống 18,16%(2016) và
đến cuối tháng 08/2017 chỉ đạt 8,79%.
Tài sản tăng là do hoạt động tín dụng ngày càng tăng trưởng. Không những
vậy các ngân hàng ngày càng đẩy mạnh hoạt động trong nhiều lĩnh vực như dịch
vụ, mua bán chứng khoán, đầu tư ,...
b. Vốn điều lệ, vốn tự có
Chỉ tiêu
1.Vốn điều lệ

2014
2015
2016


Tổng

Tốc độ tăng so với

(nghìn tỷ đồng)
435,6
460
488,424

năm trước(%)
5,6%
6,11%


16

2.Vốn tự có

3.Tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu(CAR)
4.Tỷ suất sinh lời
trên tài sản(ROA)

2017
2014
2015
2016
2017
2014

2015
2016
2017
2014
2015
2016
2017

505
496,6
578
639,67
667
Đơn vị: %
12,75%
13%
12,84%
12,66%
0,51%
0,46%
0,54%
-

3,39%
16,4%
10,67%
4,27%(cuối tháng 03)
(cuối tháng 5)
-


Ghi chú: Mọi số liệu của năm 2017 chỉ cập nhật đến ngày 31/08/2017
Cuối năm 2014, vốn tự có toàn hệ thống gần 496,6 nghìn tỷ đồng. Trong đó,
nhóm NHTM Nhà nước tăng chậm nhất, đạt 169,7 nghìn tỷ đồng. Về vốn điều lệ,
cuối năm 2014, toàn hệ thống đạt 435,6 nghìn tỷ đồng.
Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) của toàn hệ thống là 0,51%; tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu (CAR) của toàn hệ thống ngân hàng được ghi nhận ở mức 12,75%; Tỷ
lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của hệ thống đến hết năm 2014 là 20,15%.
Cuối tháng 12/2015 vốn tự có của toàn hệ thống đạt 578.000 tỷ đồng, tăng
16,4% so với cuối năm 2014.Vốn điều lệ cũng tăng 344 tỷ đồng tăng khoảng 5,6%
lên 460.000 tỷ đồng. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của toàn hệ thống tiếp tục giữ ở
mức 13%, cao hơn quy định được Ngân hàng Nhà nước đặt ra là 9%.
Năm 2016, vốn điều lệ toàn hệ thống tổ chức tín dụng cũng tăng hơn 6% so
với năm 2015 đạt 488.424 tỷ đồng. Về tỷ lệ an toàn vốn (CAR), tất cả các nhóm tổ
chức tín dụng đều đạt yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước là trên 9%.
Đến thời điểm ngày 31/08/2017, tổng vốn điều lệ của hệ thống đạt hơn 505
nghìn tỷ đồng, tăng 3,45% so với cuối năm 2016, trong đó vốn điều lệ của nhóm


17
các ngân hàng cổ phần đã tăng vốn điều lệ tích cực hơn cùng kỳ năm trước khi đạt
mức tăng trưởng 2,87% so với đầu năm và đạt hơn 206,6 nghìn tỷ đồng, còn nhóm
thương mại Nhà nước vẫn vô cùng chật vật khi tổng vốn điều lệ của nhóm này tăng
chưa nổi 1% và hiện chưa đến 147,7 nghìn tỷ đồng.Vốn tự có của các ngân hàng
đạt 513 nghìn tỷ đồng.Ngoài ra, đến 31/8, CAR của toàn hệ thống mới chỉ
đạt10,46%.
c. Diễn biến lãi suất huy động, cho vay
Năm 2014 NHNN đã thực hiện 2 lần điều chỉnh trần lãi suất huy động vốn đối
với tiền gửi VNĐ kỳ hạn 1-6 tháng từ mức 7% cuối năm 2013 xuống còn 5,5%
cuối năm 2014. Lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,8-1%/năm đối với
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 5-5,5%/năm đối với tiền gửi có

kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,7-6,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6
tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,8-7,5%/năm.
Lãi suất huy động giảm đã tạo điều kiện để lãi suất cho vay giảm theo. So với
năm 2013, lãi suất cho vay VNĐ giảm từ 2,5% đối với kỳ hạn ngắn, và từ 2-3% đối
với trung dài hạn. Tại thời điểm cuối năm, lãi suất cho vay phổ biến đối với các
lĩnh vực ưu tiên ở mức 7%/năm đối với ngắn hạn, 9-10%/năm đối với trung và dài
hạn. Còn với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường, lãi suất ở mức 79%/năm đối với ngắn hạn, 9,5-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Mặt bằng lãi suất huy động USD cũng giảm nhẹ. Huy động USD từ dân cư
giảm 0,5% xuống mức 0,75%/năm, huy động USD từ tổ chức giữ ở mức thấp
0,25%/năm.
Năm 2015, lãi suất huy động bằng VNĐ giảm nhẹ với mức giảm từ 0,1-0,5%
tuỳ từng kỳ hạn. Trần lãi suất huy động kỳ hạn duới 6 tháng ở mức 5,5% cũng được
NHNN duy trì trong cả năm, cho thấy mặt bằng lãi suất đã ở điểm đáy khi chênh
lệch cung - cầu vốn ngày càng tăng khiến thanh khoản của các ngân hàng không
còn duy trì dồi dào như trước.


18
Mặt bằng lãi suất cho vay cũng tiếp tục giảm nhẹ so với năm 2014. Lãi suất
cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên về cơ bản giữ nguyên ở mức 67%/năm đối với ngắn hạn, còn đối với trung và dài hạn ở mức 9-10%/năm tại các
NHTM nhà nước và cao hơn khoảng 0,5-1% tại các Ngân hàng TMCP. Lãi suất cho
vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường giảmnhẹ 0,2-0,5%, ở mức 6,89%/năm đối với ngắn hạn, 9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Cũng trong năm 2015, NHNN đã quyết định hạ mức lãi suất huy động USD
của cá nhân từ 0,75%/năm xuống còn 0,25%/năm và tiếp tục xuống 0%/năm, và
của tổ chức từ 0,25% xuống 0%/năm. Mục tiêu của chính sách này là để ngăn chặn
tình trạng nắm giữ ngoại tệ, chuyển từ quan hệ huy động – cho vay bằng ngoại tệ
sang quan hệ mua – bán bằng ngoại tệ, và giảm sức ép về tỷ giá trong bối cảnh
đồng nhân dân tệ phá giá và Fed có khả năng sẽ tăng lãi suất 4 lần trong năm
2016.Trong khi đó, lãi suất cho vay USD tương đối ổn định so với năm 2014, phổ
biến ở mức 3-6,7%/năm. Trong đó, lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 35,5%/năm, cho vay trung và dài hạn phổ biến ở mức 5,5-6,7%/năm.

Năm 2016 so với năm 2015, lãi suất huy động tăng khoảng 0,5-1% ở các kỳ
hạn dài trên 12 tháng. Một phần nguyên nhân là do các ngân hàng đang cạnh tranh
về nguồn vốn huy động trung dài hạn để đáp ứng Thông tư 06 yêu cầu tỷ lệ VNH
cho vay TDH hạ từ mức 60% trong năm 2016 xuống còn 50% trong năm 2017. Lãi
suất có hai đợt điều chỉnh tương đối rõ vào Quý I và cuối Quý IV. Đến cuối năm,
lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng phổ biến trong khoảng 4,55,4%/năm, từ 6 tháng đến dưới 12 tháng trong khoảng 5,4-6,5%/năm, từ 12 tháng
trở lên trong khoảng 6,4-7,2%/năm.
Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay VNĐ khá ổn định và ít biến động. Lãi
suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giữ nguyên so năm 2014, ở mức 67%/năm đối với ngắn hạn và 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường giảm nhẹ khoảng 0,2%/năm, xuống


19
mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn, và 9,3- 11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối
với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho
vay có thể từ 4-5%/năm.
Lãi suất huy động USD tiếp tục được giữ nguyên ở mức 0%, lãi suất cho vay
USD tiếp diễn xu hướng giảm nhẹ. Hoạt động cho vay bằng ngoại tệ tiếp tục được
kiểm soát chặt chẽ, giảm từ 0,2-0,5%/năm tùy từng kỳ hạn, nhưng các ngân hàng
được xem xét cho khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ để thực hiện phương án sản
xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tới cuối năm 2017. Tại thời điểm cuối năm, lãi suất
cho vay USD đối với các khoản vay ngắn hạn là 4,2-4,8%, đối với các khoản vay
trung dài hạn là 5,0-6,0%.
Quý I/2017, lãi suất huy động VNĐ có sự phân hóa theo nhóm NHTM, trong
khi đó lãi suất cho vay tương đối ổn định. Ngay từ đầu năm, một số NHTMCP đã
tập trung huy động vốn dài hạn với các mức lãi suất cạnh tranh nhằm cải thiện cơ
cấu nguồn vốn huy động để đáp ứng yêu cầu của Thông tư 06/2016 về giảm tỷ lệ
VNH cho vay TDH cũng như đáp ứng nhu cầu thanh khoản do tín dụng tăng trưởng
cao hơn so với huy động. Tuy nhiên, tại nhóm NHTMNN, lãi suất huy động vẫn
được duy trì ổn định do tỷ lệ VNH cho vay TDH của nhóm này tính đến cuối năm

2016 ở mức 37,32%, thấp hơn so với nhóm NHTMCP (39,93%).
Mặc dù vậy, lãi suất cho vay trong Quý I khá ổn định so với thời điểm cuối
năm 2016. Theo NHNN, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu
tiên ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn và 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi
suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối
với ngắn hạn; 9,3- 11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng
tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay có thể từ 4-5%/năm.
Mặt bằng lãi suất USD tiếp diễn xu thế những năm trước: lãi suất huy động
tiếp tục giữ nguyên ở mức 0%, lãi suất cho vay USD tiếp tục giảm nhẹ. Hoạt động
cho vay bằng ngoại tệ tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ, giảm nhẹ 0,2%/năm đối với


20
các khoản vay ngắn hạn. Kết thúc Quý I, lãi suất cho vay USD là 4,0-4,8% áp dụng
cho các khoản vay ngắn hạn, và là 5,0-6,0% áp dụng với các khoản vay trung dài
hạn.
Đánh giá tình hình huy động vốn: Trong năm 2014, tổng vốn huy động của hệ
thống ngân hàng tăng hơn 11% so với cuối năm 2013. Tuy nhiên vốn đang dư thừa
ở ngân hàng , tình hình thanh khoản của nền kinh tế đang rất cao. Do vậy, nhằm đạt
mục tiêu đã đề ra, lãi suất huy động và cho vay đã và đang giảm dần. Năm 2016,
tổng phương tiện thanh toán tăng 17,88%, huy động vốn tăng 18,38% so với cuối
năm 2015. Huy động vốn 10 tháng đầu năm 2017 tuy giảm so với cùng năm trước
nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng khá, ước tăng 12% so với cuối năm 2016 (cùng kỳ
năm trước tăng 14,7%). Trong đó, tiền gửi khách hàng ước tăng 11,5% so với cuối
năm 2016; phát hành GTCG ước tăng 24,4%. Huy động ngoại tệ tăng 3,7%, chiếm
khoảng 10,1% tổng huy động. Huy động vốn bằng VND ước tăng 13%, chiếm
89,9% tổng huy động. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng ổn định, biểu hiện là
lãi suất liên ngân hàng đã liên tục giảm (bình quân giảm khoảng 0,2 điểm% so với
tháng trước) và tiếp tục được duy trì ở mức thấp (lãi suất O/N ở mức 0,9%/năm, lãi
suất 1 tuần là 0,9%/năm, lãi suất 1 tháng là 1,5%/năm). Thanh khoản hệ thống ổn

định do NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ, và cung ứng tiền ròng khoảng 130
nghìn tỷ đồng từ đầu năm đến nay.
d. Tăng trưởng tín dụng và tình hình nợ xấu
Đối với tăng trưởng tín dụng, tính đến ngày 19/12/2014 tín dụng đã tăng
11,8% so với cuối năm 2013. Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích
cực, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh,đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên
theo chủ trương chính phủ. Các chương trình, chính sách tín dụng ngành, lĩnh vực
đã được hệ thống ngân hàng triển khai kịp thời, góp phần hô trợ tăng trưởng kinh tế
và đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, dư nợ tín dụng nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản là 416.769 tỷ đồng, tăng 13,83% so với tháng 12/2013. Dư nợ đối với


21
ngành công nghiệp và xây dựng là 1,39 triệu tỷ đồng, tăng 6,13% so với tháng
12/2013. Dư nợ tín dụng hoạt động thương mại, vận tải và viễn thông là 868.175 tỷ
đồng, tăng 8,68% so với tháng 12/2013. Với tín dụng thương mại là 737.308 tỷ
đồng và với vận tải, viễn thông là 130.867 tỷ đồng. Dư nợ tín dụng cho các hoạt
động dịch vụ khác là hơn 1,29 triệu tỷ đồng, tăng 29,22% so với tháng 12/2013.
Báo cáo của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho biết, đến
31/12/2015, dư nợ tín dụng nền kinh tế tăng 17,29% so với cuối năm 2014. Trong
đó, dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn – 1 trong 5 lĩnh vực
ưu tiên- của các tổ chức tín dụng (không bao gồm dư nợ cho vay của Ngân hàng
chính sách xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam) đến cuối tháng 12/2015 tăng
13,32% so với 31/12/2014. Cho vay lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
cao tăng 43,07%; cho vay lĩnh vực công nghiệp ưu tiên phát triển tăng 9,89% và
doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 7,56%; cho vay lĩnh vực xuất khẩu giảm 3,43% so
với cuối năm 2014. Về chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết 02, đến
31/12/2015, có 41.146 khách hàng được ký hợp đồng tín dụng trong gói tín dụng
hỗ trợ nhà ở với tổng số tiền cam kết cho vay từ các ngân hàng đạt hơn 27.400,0 tỷ
đồng; chiếm tỷ trọng khoảng 91,3% tổng nguồn vốn dành cho chương trình, tăng

183% so với 31/12/2014.
Tính đến ngày 29/12/2016, tín dụng tăng 18,71% so với cuối năm 2015. Cơ
cấu tín dụng diễn biến tích cực theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn,
chất lượng, tập trung chủ yếu cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tín dụng đối với
lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản chậm lại. Tín dụng cho công nghiệp và
các hoạt động dịch vụ khác vẫn chiếm tỷ trọng lớn, tạo điều kiện để tăng trưởng
của khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ liên tục cải thiện. Tín dụng
tiêu dùng cũng tăng mạnh, góp phần duy trì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ so với GDP. Tín dụng tiêu dùng ước tăng 39% so với cuối năm 2015, chiếm
11,4% tổng tín dụng (năm 2015 là 9,8%). Trong đó, gần 50% tín dụng tiêu dùng tập


22
trung vào cho vay sửa chữa nhà, mua nhà để ở mà nguồn trả nợ bằng tiền lương của
khách hàng vay. Tín dụng đầu tư và kinh doanh bất động sản tăng chậm lại. Năm
2016, tín dụng bất động sản ước tăng 12,5% so với cuối năm 2015, thấp hơn nhiều
so với năm 2015 (28,3%). Tuy nhiên, UBGSTCQG lưu ý, tín dụng tiêu dùng với
gần 50% tập trung vào lĩnh vực bất động sản cho thấy hình thái tín dụng bất động
sản có sự chuyển dịch và cần được theo dõi, đánh giá. Tín dụng VND tăng cao
trong khi tín dụng ngoại tệ tăng thấp, phù hợp với chủ trương chống đô la hóa của
Chính phủ.
Theo Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia, tín dụng 10 tháng đầu năm 2017
tăng trưởng tích cực. Tính đến hết tháng 10/2017, tín dụng (bao gồm trái phiếu
doanh nghiệp) ước tăng khoảng 13,5% so với cuối năm 2016. Tỷ trọng tín dụng
trung dài hạn giảm trong khi tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tăng. Tín dụng trung và dài
hạn ước chiếm 53,7% tổng tín dụng (cuối năm 2016 chiếm 55,1%). Tín dụng ngắn
hạn ước chiếm 46,3% tổng tín dụng (cuối năm 2016 là 44,9%). Tín dụng bằng
ngoại tệ tăng cao hơn cùng kỳ năm 2016 chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu tăng cao so
với cùng kỳ năm 2016. Tín dụng bằng ngoại tệ tính đến cuối tháng 10 ước tăng
11,5% so với cuối năm 2016 (cùng kỳ năm 2016 tăng 4,4%). Cơ cấu tín dụng theo

ngành nghề kinh tế có chuyển biến tích cực. Tỷ trọng tín dụng vào lĩnh vực nông
nghiệp chiếm khoảng 9,9% (10 tháng năm 2016 là 8,3%). Tỷ trọng tín dụng vào
hoạt động kinh doanh bất động sản và xây dựng giảm xuống còn 15,5% (năm 2016
là 17,1%). Tín dụng tiêu dùng tiếp tục đà tăng mạnh kể từ đầu năm 2017 phù hợp
với những xu hướng gia tăng cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Tổng dư nợ cho vay
tiêu dùng tăng khoảng 58,6% so với cuối năm 2016.
Về tình hình nợ xấu:
Năm 2014, TheoNgân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, thời điểm cuối năm
2014, nợ xấu theo báo cáo của các TCTD là 167.861 tỷ đồng tương đương khoảng
hơn 3,8%. Vì vậy, ngành Ngân hàng đã quyết tâm triển khai đồng bộ các giải pháp


23
quản lý, điều hành, tái cơ cấu và xử lý nợ xấu theo đúng mục tiêu, định hướng đề
ra, quyết tâm đưa nợ xấu về mức dưới 3% và kiên quyết xử lý các TCTD yếu kém,
đẩy mạnh sáp nhập, hợp nhất, lành mạnh hóa tài chính, cơ cấu lại hoạt động kinh
doanh và đổi mới hệ thống quản trị, điều hành.
Với mục tiêu đã đề ra năm 2014 thì khi nhìn lại một năm thực hiện mục tiêu,
năm 2015được cho là một năm thành công ngoài mong đợi và nổi bật của ngành
ngân hàng khi đưa tỷ lệ nợ xấu về mức dưới 3% hoàn thành xuất xắc mục tiêu đề ra
năm 2014 là đưa nợ xấu về mức dưới 3%. Cụ thể, ước tính tỷ lệ nợ xấu cuối năm
2015 chỉ còn hơn 2,5%- theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành
viên VAMC( công ty quản lý tài sản) cho biết. Trong năm, VAMC đặt kế hoạch thu
hồi nợ 10 nghìn tỷ đồng, tuy nhiên đến cuối năm 2015, tổ chức này đã vượt kế
hoạch hơn 70%. Cụ thể, kết quả phát mại tài sản, thu hồi nợ đạt 17.780 nghìn tỷ.
Từ tháng 10/2013 đến hết 2015, tổng số nợ thu hồi, xử lý đạt 22.780 nghìn tỷ đồng,
đã xử lý được hơn 9% tính trên nợ gốc, còn tính trên trái phiếu đặc biệt đạt trên
10%.
Năm 2016, tỷ lệ nợ xấu bình quân toàn hệ thống đến cuối năm 2016 ước tính
giảm nhẹ từ 2,9% năm 2015 xuống 2,8%. Theo số liệu của Ủy ban Giám sát tài

chính Quốc gia, hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý khoảng 95 nghìn tỷ đồng nợ
xấu. Trong đó, xử lý qua thu hồi nợ, bán tài sản bảo đảm chiếm khoảng 52,6% tổng
giá trị nợ xấu được xử lý, bằng nguồn dự phòng rủi ro chiếm 26,6%, bán cho Công
ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chiếm 21%.
Dù tiếp tục giảm nhẹ và một lượng lớn được xử lý nói trên, nhưng Ủy ban
Giám sát đánh giá, nợ xấu chờ xử lý (nợ bán cho VAMC) và nợ xấu tiềm ẩn trong
tái cơ cấu vẫn lớn. Tổng số nợ bán cho VAMC chưa xử lý được là 224 nghìn tỷ
đồng (chiếm 85% nợ xấu bán cho VAMC, và chiếm khoảng 4,3% tổng tín dụng).
Năm 2016, số dự phòng rủi ro tín dụng của hệ thống ước tăng khoảng 11,9% so với


24
cuối năm 2015 (năm 2015 tăng 5,4%); dự phòng rủi ro cụ thể tăng 24,9%, cao hơn
so với cùng kỳ 2015 (11,9%); tỷ lệ dự phòng rủi ro cụ thể/nợ xấu báo cáo là 57,2%.
Sáng ngày17/11/2017, trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội (QH)
khóa XIV, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Minh Hưng trả lời về vấn
đề nợ xấu, Thống đốc NHNN cho biết tính đến cuối tháng 9/2017, tỷ lệ nợ xấu nội
bảng toàn hệ thống là 2,34%, giảm so với tỷ lệ 2,46% tại thời điểm cuối năm 2016.
Cụ thể, nếu đánh giá một cách thận trọng, tổng số nợ tiềm ẩn có thể thành nợ xấu,
nợ xấu nội bảng và nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được thì tính đến cuối
tháng 9/2017 là 566 nghìn tỷ đồng giảm so với mức 600 nghìn tỷ đồng tại thời
điểm cuối năm 2016, tỷ lệ nợ xấu là 8,61% giảm so với mức 10,08% tại thời điểm
cuối năm trước.Bên cạnh nợ xấu, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cũng lưu ý
vấn đề lãi dự thu gia tăng trong những năm gần đây, đặc biệt tập trung ở một số tổ
chức tín dụng yếu kém.Năm 2016, lãi dự thu tiếp tục tăng khoảng 19% so với cuối
năm 2015; tỷ lệ lãi dự thu/dư nợ là 2,9% (năm 2015 là 2,8%, năm 2012 là 2,4%).
Tín dụng đang ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn do xã hội ngày càng phát
triển, thanh toán thương mại điện tử mang lại sự đảm bảo, thuận tiện và an toàn
hơn.Tuy nhiên cùng với tín dụng tăng trưởng thì cần phải đi đôi với việc xử lý nợ
xấu.

e. Tăng trưởng lãi thuần


25
Biểu đồ tăng trưởng lãi thuần của các mảng kinh doanh của các ngân
hàng trong 6 tháng đầu năm 2017 và 2016

Biểu đồ cơ cấu lãi thuần của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2017
và 2016
Nhìn vào biểu đồ có thể thấy, thu nhập lãi thuần chiếm hơn 80% thu nhập của
các ngân hàng. Tuy nhiên, nó lại không phải là chỉ tiêu có sự tăng trưởng đột phá
trong năm 2017 so với năm trước mà là hoạt động mua bán chứng khoán, hoạt
động dịch vụ cũng cho thấy lợi thế cạnh tranh nhất định.Thống kê từ khoảng 13
ngân hàng trong 6 tháng đầu năm nay cho thấy, tổng lãi từ hoạt động mua bán
chứng khoán đạt gần 1.900 tỷ đồng, gấp đến 75 lần cùng kỳ năm trước. Đóng góp
vào khoảng 2,3% thu nhập cho ngân hàng, trong khi cùng kỳ chỉ mang lại rất ít với
0,04%. ACB là ngân hàng nổi trội nhất khi lãi gần 425 tỷ đồng trong khi cùng kỳ lỗ
đến472 tỷ đồng. Con số lãi 123 tỷ đồng của MBBank cũng rất đáng ghi nhận khi
cùng kỳ lỗ 42 tỷ đồng. Về mức tăng trưởng, VPBank đứng đầu khi lãi từ mua bán
chứng khoán đạt gần 382 tỷ đồng, gấp đến 11 lần cùng kỳ năm trước. Kế đến là
TPBank đạt 18 tỷ đồng, gấp gần 6 lần cùng kỳ.


×