Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.05 KB, 170 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ NGỌC TRÂM

LÊ THỊ NGỌC TRÂM

QUYỀN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
QUYỀN
HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Mã số: 62 38 01 02
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 62 38 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi
NGƢỜI2.
HƢỚNG
DẪN
KHOA
HỌC:
PGS.TS.


Tô Văn
Hòa

1. PGS,TS. Nguyễn Thị Hồi
2. PGS,TS. Tô Văn Hòa

HÀ NỘI - năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số
liệu và báo cáo trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận án chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Thị Ngọc Trâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 ........................................................................................................................... 9
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ ............................................... 9
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI................................................................................................... 9
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nƣớc............................................... 9
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền hành pháp ................................................. 14
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền hành pháp với các quyền
khác ...................................................................................................................................... 19
1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .............................. 21

CHƢƠNG 2 ......................................................................................................................... 25
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN HÀNH PHÁP ...................................... 25
2.1. Khái niệm quyền lực và quyền lực nhà nƣớc ............................................................... 25
2.2. Khái niệm, nội dung quyền hành pháp và mối quan hệ của quyền hành với quyền lập
pháp, quyền tƣ pháp trong tổ chức quyền lực nhà nƣớc ...................................................... 31
2.3. Việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong thực tiễn thực hiện quyền lực nhà
nƣớc ........................................................................................................................... 64
CHƢƠNG 3 ......................................................................................................................... 70
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN
HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM .............................................................................................. 70
3.1. Khái quát thực trạng quy định pháp luật về tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt
Nam trƣớc Hiến pháp năm 2013 .......................................................................................... 70
3.2. Quy định về quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013 .......................................... 104
CHƢƠNG 4 ................................................................................................................... …128
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỚI .......................................................................................... 128
4.1 Định hƣớng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam giai đoạn tới ................ 128
4.2. Giải pháp tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam giai đoạn tới ................... 131
KẾT LUẬN........................................................................................................................ 154


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt
Nam và Điều 2 của Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
đã khẳng định: “Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc
về Nhân dân…. Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,

tƣ pháp”. Việc xác định cụ thể các chủ thể thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tƣ pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi quyền.
Có thể nói ở Việt Nam, từ sau khi Hiến pháp năm 1992 đƣợc sửa đổi, bổ
sung tên gọi “quyền hành pháp” mới chính thức đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, thể
hiện sự đổi mới trong nhận thức của Đảng và Nhà nƣớc ta về việc tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nƣớc. Quan điểm trên tiếp tục đƣợc phát triển thêm trong Hiến pháp
năm 2013 qua quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nƣớc cao nhất của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp” (Điều 94
Hiến pháp năm 2013). Những thay đổi đó có ý nghĩa nhƣ thế nào? Thực chất
“Quyền hành pháp” là gì? Đây là những điều mà các học giả và các cơ quan có
thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu khi triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013
trong thực tế.
Trong các Hiến pháp Việt Nam trƣớc đây, dƣờng nhƣ các nhà làm Hiến pháp
nhấn mạnh nhiều hơn đến “quyền lập pháp”, đó là sự phản ánh của tƣ duy truyền
thống, theo đó, Hiến pháp dƣờng nhƣ “quên” đề cập đến thuật ngữ “quyền hành
pháp” và “quyền tƣ pháp”. Đây là điều không dễ giải thích một cách thấu đáo.
Trƣớc khi đƣợc đề cập đến trong Hiến pháp, thuật ngữ “quyền hành pháp” đã đƣợc
nhắc đến trong Cƣơng lĩnh năm 1991 của Đảng khi đề cập đến phƣơng hƣớng tổ

1


chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nƣớc với nội dung “tổ chức và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nƣớc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền
lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung
ƣơng. Nhà nƣớc Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp, với
sự phân công rành mạch ba quyền đó”.
Từ góc độ lịch sử, mặc dù thuật ngữ “quyền hành pháp” đã đƣợc đề cập đến
trong văn kiện của Đảng từ năm 1991 đến nay, song nội dung của quyền hành pháp

nhƣ thế nào thì lại chƣa đƣợc giải thích một cách thấu đáo và cụ thể trong các văn
kiện chính thức của Việt Nam. Đồng thời, quyền hành pháp chƣa đƣợc nghiên cứu
một cách cơ bản. Nhiều vấn đề thuộc quyền hành pháp chƣa đƣợc nghiên cứu sâu
sắc, đầy đủ hoặc còn bỏ ngỏ hay xuất hiện các vấn đề mới cần nghiên cứu nhƣ: nội
dung của quyền hành pháp, chức năng, nhiệm vụ của hành pháp, mối quan hệ giữa
quyền hành pháp với quyền lập pháp và quyền tƣ pháp, đánh giá thực tiễn tổ chức
quyền hành pháp, các vấn đề trong việc hoàn thiện tổ chức và vận hành quyền hành
pháp. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, khi mà vai
trò và vị thế của quốc gia cũng nhƣ việc bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời, quyền
công dân phụ thuộc khá nhiều vào khả năng quản lý điều hành năng động, sáng tạo,
nhạy bén và quyết đoán của hành pháp.
Thêm vào đó, với sự bùng nổ mạnh mẽ của cuộc cách mạng lần thứ 4 (cách
mạng 4.0), sự phát triển của hạ tầng kỹ thuật, trình độ nhận thức và tổ chức xã hội
cùng với sự chuyển dịch trong quan hệ giữa nhà nƣớc và xã hội đã làm cho nhà
nƣớc dịch chuyển mạnh mẽ trong mô hình, phƣơng thức quản trị nhà nƣớc. Đó là
thực tế khi các nhà hành pháp ngày càng gắn chặt và tác động tích cực vào quá trình
hình thành đƣờng lối chính trị, chính sách, hoạt động lập pháp.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự thay đổi vể tổ chức và hoạt
động của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc dân chủ pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã và đang
đƣợc xây dựng, chính phủ kiến tạo, phục vụ, hành động liêm chính đƣợc thể hiện và
chuyển hƣớng rõ ràng. Giờ đây, bộ máy quản lý nhà nƣớc không chỉ là cơ quan
chấp hành mà ngày càng xác lập rõ hơn, đây đủ hơn trách nhiệm giải trình trƣớc

2


nhân dân. Việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực lập pháp, hành pháp, tƣ
pháp đƣợc Hiến pháp giao cho Quốc hội, Chính phủ, Toà án thực hiện. Đây là
những điểm tiến bộ của Việt Nam trong cả nhận thức và tƣ duy. Điều đó ít nhiều
làm thay đổi diện mạo quản trị quốc gia ở nƣớc ta.

Trong lĩnh vực hành pháp, nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa cũng đòi hỏi phải cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các
phƣơng diện từ cải cách thể chế hành chính (mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành
chính), cải cách bộ máy hành chính nhà nƣớc, cải cách tài chính công đến xây dựng,
đào tạo đội ngũ công chức chuyên nghiệp để hƣớng đến một nền hành chính dân
chủ, hiệu quả, năng động và minh bạch vì mục tiêu phát triển của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân
Trong những điều kiện trên, việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn
đề lý luận và thực tiễn về quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay nhƣ khái niệm, nội
dung của quyền hành pháp, mối quan hệ giữa quyền hành pháp với quyền lập pháp
và quyền tƣ pháp, việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong thực tiễn… để từ
đó đề xuất những giải pháp cần thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực
hiện quyền hành pháp nói riêng và quyền lực nhà nƣớc nói chung trong quá trình
xây dựng một Nhà nƣớc kiến tạo là điều cần thiết. Đó là lý do của việc chọn và
nghiên cứu đề tài: “Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay” để làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là xem xét và làm rõ các vấn đề lý luận
về quyền hành pháp, các quy định pháp luật về tổ chức thực hiện quyền hành pháp
ở Việt Nam và một số nƣớc khác trên thế giới để trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp
có tính khả thi góp phần tổ chức thực hiện tốt hơn quyền hành pháp ở nƣớc ta trong
giai đoạn tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu đã nêu, việc nghiên cứu đề tài tập
trung vào giải quyết những nhiệm vụ sau:

3


- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền lực nhà nƣớc và quyền hành

pháp nhƣ: khái niệm quyền lực nhà nƣớc; khái niệm, nội dung của quyền hành
pháp; mối quan hệ giữa quyền hành pháp với các quyền lực khác của nhà nƣớc nhƣ
quyền lập pháp và quyền tƣ pháp, việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp…
- Nghiên cứu các quy định về quyền hành pháp trong Hiến pháp Việt Nam từ
khi Hiến pháp năm 1946 ra đời tới nay để đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện
quyền hành pháp trong thực tiễn ở nƣớc ta nhằm hiểu rõ sự thay đổi trong nhận thức
về quyền hành pháp của Đảng và Nhà nƣớc ta thời gian qua và xác định các thành
tựu cũng nhƣ hạn chế trong tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nƣớc ta.
- Xem xét các quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện quyền hành pháp
ở một số nƣớc trên thế giới nhằm tìm kiếm kinh nghiệm góp phần hoàn thiện việc tổ
chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam nhằm giúp cho các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, các nhà hoạch định
chính sách, các nhà hoạt động thực tiễn có thể tham khảo và áp dụng vào thực tiễn
tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nƣớc ta trong thời gian tới, qua đó góp phần
nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tƣợng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu một số vấn đề về
quyền hành pháp cả về phƣơng diện lý luận lẫn pháp lý ở Việt Nam và một số nƣớc
trên thế giới. Đó là các vấn đề sau: khái niệm, nội dung của quyền hành pháp; mối
quan hệ giữa quyền hành pháp với quyền lập pháp, quyền tƣ pháp; việc tổ chức thực
hiện quyền hành pháp trong thực tiễn thực hiện quyền lực nhà nƣớc
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận án chủ yếu nghiên cứu các vấn đề lý luận về
quyền hành pháp, các quy định pháp luật về quyền hành pháp của Việt Nam chủ
yếu đƣợc thể hiện trong các Hiến pháp đã có từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp
năm 2013, và các quy định về quyền hành pháp trong Hiến pháp và pháp luật hiện
hành của một số nƣớc trên thế giới.

4



4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
4.1. Phương pháp luận
- Đề tài luận án “Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay” đƣợc nghiên cứu
dựa trên cở sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà
nƣớc và pháp luật nói chung, về nhà nƣớc và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng,
về quyền con ngƣời, về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cũng nhƣ các quan điểm của Đảng về pháp luật, về công
cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc; đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc theo
yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Đồng thời, các thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học
khác nhƣ triết học, lịch sử, xã hội học… về bộ máy quyền lực nhà nƣớc cũng đƣợc
sử dụng để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận án.
- Luận án cũng đƣợc thực hiện trên cở sở tiếp thu có chọn lọc một số tƣ
tƣởng tinh hoa của nhân loại về pháp luật, về quyền lực nhà nƣớc và dân chủ nhƣ
“chủ quyền nhân dân” của Rousseau; “lý thuyết phân quyền” của Montesquieu…
- Ngoài các phƣơng pháp nghiên cứu biện chứng duy vật và biện chứng lịch
sử, luận án còn sử dụng các phƣơng pháp lý luận khác nhƣ lý luận về chính trị học,
một số lý luận về phƣơng pháp luận…
- Sử dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành khoa học
xã hội và nhân văn trƣớc hết là luật học (chủ yếu là phƣơng pháp tiếp cận chuyên
ngành Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật…) và các
ngành khoa học xã hội khác nhƣ lịch sử, kinh tế…
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng để nghiên cứu đề tài là
phân tích và tổng hợp, hệ thống, logic, so sánh, phƣơng pháp thống kê… nhằm khai
thác vấn đề từ cái chung đến cái riêng, từ cái riêng đến cái chung, một cách cụ thể
và bao quát. Luận án cố gắng lý giải các vấn đề một cách toàn diện từ cơ sở lý luận
đến minh chứng về tổ chức thực hiện quyền hành pháp không chỉ của riêng Việt
Nam mà còn ở một số nƣớc có hình thức chính thể khác nhau trên thế giới, qua đó


5


thấy đƣợc tính khách quan và tất yếu của quyền hành pháp và nó tồn tại nhƣ một
phạm trù lịch sử.
- Phƣơng pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tƣ liệu,
so sánh, quy nạp các vấn đề nghiên cứu giữa các đối tƣợng đƣợc chọn lựa.
- Phƣơng pháp nghiên cứu qua khảo sát thực tế, tiếp xúc và trao đổi trực tiếp
với các nhà nghiên cứu về các lĩnh vực chính trị và luật pháp.
- Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp hệ thống: nhằm thống kê và so sánh các
quy định về tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong các văn kiện chính trị - pháp
lý của Việt Nam (chủ yếu ở các mục 3.1, 3.2).
Phƣơng pháp phân tích tổng hợp, tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học:
nhằm xây dựng khái niệm quyền lực, quyền lực nhà nƣớc và quyền hành pháp, làm
rõ vai trò của quyền hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà nƣớc (chủ yếu ở các
mục 2.1,2.2).
Phƣơng pháp nghiên cứu luật so sánh: nhằm so sánh việc tổ chức thực hiện
quyền hành pháp ở Việt Nam với quyền hành pháp ở một số nƣớc trên thế giới (chủ
yếu ở các mục 2.4).
Phƣơng pháp khảo sát thực tiễn, sử dụng số liệu thống kê của các cơ quan
quản lý nhằm tìm hiểu các quy định về quyền hành pháp trong hệ thống pháp luật
Việt Nam (chủ yếu ở các mục 3.1; 3.2).
Phƣơng pháp phân tích - dự báo khoa học nhằm dự báo về các xu hƣớng phát
triển, phƣơng hƣớng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nƣớc ta và các giải pháp
đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quyền hành pháp ở Việt Nam (chủ
yếu ở các mục 4.1,4.2).
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể trên luôn
đƣợc sử dụng theo hƣớng tiếp cận đa ngành, liên ngành luật học và phối hợp sử
dụng nhiều phƣơng pháp.

5. Những điểm mới của luận án
Trên cơ sở tập hợp, phân tích, đánh giá hệ thống các công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài, luận án đã kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đó.

6


Từ đó, đƣa ra các quan điểm lý luận về khái niệm, nội dung quyền hành pháp ở Việt
Nam hiện nay.
Luận án phân tích thực trạng các quy định pháp luật về quyền hành pháp ở
Việt Nam qua các bản Hiến pháp và chỉ ra những quy định mới trong bản Hiến
pháp năm 2013.
Luận án đề xuất đƣợc một số định hƣớng và giải pháp nhằm tổ chức thực
hiện quyền hành pháp phù hợp, hiệu quả hơn, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền
công dân tốt hơn ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Qua đó hƣớng tới việc thực hiện
có hiệu quả quyền hành pháp nói riêng và quyền lực nhà nƣớc nói chung.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn
về quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay, luận án đã góp phần bổ sung và hoàn
thiện một số vấn đề lý luận về quyền hành pháp nhƣ: khái niệm, nội dung quyền
hành pháp, và mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp, quyền tƣ pháp
trong tổ chức quyền lực nhà nƣớc.
Qua việc nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật về quyền hành pháp
của Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới, luận án đã bƣớc đầu tổng kết, đánh giá
đƣợc thực trạng tổ chức thực hiện quyền này trong thực tế qua quy định của các bản
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm
1992 và Hiến pháp năm 2013, cũng nhƣ hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Luận án cung cấp thêm nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên
cứu, học tập luật học cũng nhƣ cho các nhà hoạt động thực tiễn trong quá trình tổ
chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam

7. Kết cấu của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án gồm phần Mở đầu, 4 chƣơng và kết luận
Phần Mở đầu
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Các vấn đề lý luận cơ bản về quyền hành pháp

7


Chƣơng 3: Thực trạng quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện quyền hành pháp
ở Việt Nam
Chƣơng 4: Định hƣớng và giải pháp tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
thời gian tới.
Kết luận

8


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Nghiên cứu về quyền hành pháp không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở nƣớc
ta. Trong thực tế, quyền hành pháp chủ yếu đƣợc nghiên cứu từ phƣơng diện quản
lý hành chính, một phƣơng diện quan trọng thể hiện tác động và hiệu quả của quyền
hành pháp trong đời sống xã hội. Tuy nhiên điều đó chƣa nói hết đƣợc các khía
cạnh quyền lực nhà nƣớc cũng nhƣ vấn đề lý luận, chính trị xã hội của quyền hành
pháp. Nhƣng những công trình nghiên cứu, những bài viết trên các diễn đàn khoa
học là tất cả những gì đáng trân trọng mà các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu có
đƣợc về quyền lực nhà nƣớc nói chung và quyền hành pháp nói riêng. Theo nội
dung vấn đề nghiên cứu có thể chỉ ra những nhóm công trình khoa học dƣới đây:

1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nƣớc
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nƣớc, có thể chỉ ra
đây một số bài viết, công trình khoa học sau:
Sách chuyên khảo: “Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc
sửa đổi Hiến pháp 1992” – GS. TS. Trần Ngọc Đƣờng (2012), Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội. Cuốn sách luận giải về cơ sở lý luận của sự phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc phù hợp với hệ thống chính trị của nƣớc ta, từ
đó đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện, đƣa ra các kiến nghị liên quan trực tiếp
đến phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong mối quan hệ với
các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị nƣớc ta.
Sách “Tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc với việc tổ chức bộ máy nhà
nƣớc ở một số nƣớc” – TS. Nguyễn Thị Hồi (2005), Nxb Tƣ pháp, Hà Nội. Cuốn
sách trình bày một cách cụ thể và có hệ thống về lịch sử ra đời và sự phát triển của
tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc cũng nhƣ sự thể hiện tƣ tƣởng này trong
thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nƣớc trên thế giới và có sự liên hệ với thực tiễn tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ở Việt Nam.

9


Sách chuyên khảo: “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc”- PGS. TS
Thái Vĩnh Thắng, Nxb Tƣ pháp, 2011, tr.96 - 97 đã phân tích, lý giải cách thức tổ
chức và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong các kiểu và mô hình nhà nƣớc khác
nhau nhằm tìm ra những nguyên lý, những bài học kinh nghiệm để phục vụ công
cuộc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nƣớc Việt Nam.
Bài viết “Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất và sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam” – TS.
Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Luật học số 2/2007 đƣa ra một số nhận định về vấn đề
quyền lực nhà nƣớc là thống nhất và sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà
nƣớc trong việc thực hiện quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam

Các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết đƣợc một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nƣớc nói chung, quyền lực hành pháp
nói riêng cũng nhƣ mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực nhà nƣớc lập pháp, hành
pháp, tƣ pháp ở Việt Nam và ở một số nƣớc trên thế giới
Sách “Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN” – GS.TSKH Đào Trí Úc
(Chủ biên) 2005, Nxb Chính trị Quốc gia. Sách đề cập đến những chủ trƣơng, giải
pháp, những điều kiện cần thiết cho việc bảo đảm, duy trì bản chất của Nhà nƣớc ta
là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân, phát huy hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà
nƣớc và sức mạnh làm chủ của nhân dân.
Sách “Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nƣớc pháp quyền” – Ths. Bùi
Ngọc Sơn (2005), Nxb Tƣ pháp, đã góp phần làm sáng tỏ các giá trị của Hiến pháp,
các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong tiến trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ở nƣớc ta hiện nay.
Sách “Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nƣớc” – PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung (2001), Nxb Giao thông vận tải. Sách đề cập đến những vấn đề chung
về Hiến pháp và bộ máy nhà nƣớc nhƣ đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp, nội
dung cơ bản của Hiến pháp, Hiến pháp và vấn đề tổ chức bộ máy nhà nƣớc, tổng
quan về cơ cấu và tổ chức bộ máy nhà nƣớc Việt Nam và đề cập đến những vấn đề

10


riêng của Luật Hiến pháp nhƣ những chế định cơ bản về Quốc hội, về Chính phủ và
mô hình của Chính phủ, về tƣ pháp và mô hình của Tƣ pháp.
Sách “Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nƣớc CHXHCN Việt Nam” – TS. Lê Minh Thông (2001), Nxb KHXH, bao gồm
nhiều báo cáo của các nhà khoa học, đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ta hiện nay nhƣ: các vấn đề chung về tổ
chức quyền lực nhà nƣớc, về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch
nƣớc, Chính phủ, các cơ quan tƣ pháp và chính quyền địa phƣơng trong điều kiện

cụ thể ở Việt Nam. Các vấn đề trên đã đƣợc các nhà khoa học pháp lý phân tích khá
sâu sắc và toàn diện.
Sách “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt
Nam” – GS. TSKH Đào Trí Úc (Chủ biên – 2006), Nxb Tƣ pháp, đã làm rõ những
đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền XHCN, đồng thời trên cơ sở đó thiết kế
mô hình Nhà nƣớc pháp quyền XHCN phù hợp với mục tiêu chính trị và điều kiện,
đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Sách “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc trong giai đoạn hiện nay” –
PGS.TS. Bùi Xuân Đức (2004), Nxb Tƣ pháp. Cuốn sách đi sâu phân tích quan
điểm, nguyên tắc của việc cải cách bộ máy nhà nƣớc; làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của những đổi mới căn bản của bộ máy nhà nƣớc trong Hiến pháp năm 1992,
đồng thời luận giải những phƣơng hƣớng, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nƣớc theo hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận, thực
tiễn và các giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ta
trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền hành
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu và thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Liên quan đến đề tài luận án, đối với các công trình nghiên cứu của tác giả
nƣớc ngoài thì chƣa có một tác giả nào nghiên cứu về quyền lực nhà nƣớc nói

11


chung và quyền hành pháp ở Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận
về quyền lực, quyền hành pháp nói chung đã đƣợc nhiều tác giả luận giải trên cơ sở
thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu.
Trong một số tác phẩm dịch từ tiếng nƣớc ngoài nhƣ: “Các vấn đề căn bản
của Chính trị” - Leslie Lipson (1974), Đặng Thanh Tâm dịch, Sài gòn; tác phẩm

“Những cách diễn giải hiện nay về thuyết phân quyền ở Phương Tây” – Marsenco
M.N (1995), Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
Hà Nội, tƣ tƣởng phân chia quyền lực đƣợc đề cập đến với các tên gọi nhƣ “Thuyết
phân quyền”, “ Học thuyết phân quyền”. Song nếu tìm hiểu về cội nguồn của nó, có
thể thấy những cách gọi trên do ngƣời đời sau đặt ra căn cứ vào nội dung cơ bản của
tƣ tƣởng này, trong thực tế, những ngƣời đặt nền móng, xây dựng và phát triển tƣ
tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc nhƣ Aristotle, Locke, Montesquieu thì lại
không nhắc đến các tên gọi trên trong tác phẩm của họ. Chẳng hạn, Aristote cho
rằng: Có ba bộ phận trong tất cả các nhà nƣớc, đó là Hội nghị nhân dân (The Public
Assembly), các viên chức nhà nƣớc (The officers of the state) và cơ quan tòa án
(The Judicial Department). Sau đó ông trình bày về ba bộ phận này và đề cập rất sơ
lƣợc về mối quan hệ giữa ba bộ phận đó mà không hề nhắc tới từ “phân quyền” hay
“phân chia quyền lực”
Mặc dù mới chỉ dừng ở mức khái quát, song có thể nói Aristote đã đề cập
đến các chủ thể chính thực hiện quyền hành pháp của nhà nƣớc, đó chính là các
viên chức nhà nƣớc
Trong tác phẩm “Two Treaties of Government” Edited by Laslett.P, Locke,
Cambridge University Press (tạm dịch là Hai chuyên luận về chính quyền), Locke
đã lý giải khá cặn kẽ về nguồn gốc, mục đích của nhà nƣớc và các loại quyền lực
nhà nƣớc, về nội dung, phạm vi giới hạn của từng quyền, về vị trí và mối quan hệ
giữa các loại quyền lực nhà nƣớc. Ở chƣơng XII, quyển 2 với tiêu đề: “Về quyền
lực lập pháp, hành pháp và liên bang của nƣớc cộng hòa” (Of the legislative,
Executive, and federative Power of the Commonwearth), Locke trình bày sơ qua về
nội dung, đặc tính của từng loại quyền lực trên. Ở các chƣơng khác, ông trình bày

12


giới hạn của quyền lực lập pháp, về sự phụ thuộc của các quyền lực khác vào quyền
lập pháp. Nhƣng trong cả tác phẩm ông không nói đến cụm từ “phân quyền” hay

“phân chia quyền lực”.
Có thể thấy Locke là một trong những học giả đầu tiên trên thế giới đề cập
đến quyền lực hành pháp với tƣ cách là một loại quyền lực nhà nƣớc, từ tên gọi đến
nội dung, chủ thể thực hiện quyền lực hành pháp đến mối quan hệ giữa quyền lực
hành pháp với quyền lực lập pháp. Theo Locke, quyền lực hành pháp ở vị trí thấp
hơn quyền lực lập pháp vì nó xuất phát từ quyền lực lập pháp và phải phụ thuộc vào
quyền lực lập pháp, quyền lực lập pháp luôn là tối cao
Trong tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu, cha đẻ
của thuyết phân quyền đã giải mã nhƣ sau: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ
quyền lực: Quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp
và quyền thi hành những điều trong luật dân sự. Với quyền lực thứ nhất, nhà vua
hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay
hủy bỏ luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định việc hòa hay chiến, gửi
đại sứ đi các nƣớc, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lƣợc. Với quyền lực thứ ba, nhà
vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa cá nhân. Ngƣời ta
gọi đây là quyền tƣ pháp, vì trên kia là quyền hành pháp quốc gia”. Dƣới con mắt
của Montesquieu, quyền lực nhà nƣớc đƣợc cấu thành bởi các loại quyền lực có tên
gọi và nội dung khác nhau (Montesquieu, “Bàn về tinh thần pháp luật” – Bản dịch
của Hoàng Thanh Đạm – Hà nội, NXB Lý luận chính trị, 2006, tr.105,106).
Xem xét tác phẩm tinh thần pháp luật của Montesquieu cho thấy, mặc dù kế
thừa Aristote và Locke song Montesquieu đã phát triển tƣ tƣởng phân quyền lên
một bƣớc mới. Ông không chỉ đề cập đến tên gọi các loại quyền lực nhà nƣớc nhƣ
lập pháp, hành pháp, tƣ pháp mà còn đề cập đến nội dung, chủ thể thực hiện từng
loại quyền lực, vị trí và mối quan hệ giữa các loại quyền lực nói trên. Nếu Locke
chƣa đề cập đến quyền lực tƣ pháp thì Montesquieu đã đề cập đến loại quyền lực
này, nếu Locke cho rằng quyền lực hành pháp thấp hơn quyền lực lập pháp thì
Montesquieu lại cho rằng quyền lực hành pháp lại ngang bằng với quyền lực lập

13



pháp. Điều đặc biệt quan trọng là Montesquieu phát kiến ra cơ chế kiểm soát và
kiềm chế lẫn nhau giữa các loại quyền lực nhà nƣớc theo nguyên tắc “ dùng quyền
lực để ngăn cản quyền lực” nhằm ngăn chặn hạn chế sự lộng quyền và lạm quyền
xâm hại đến quyền tự do của công dân trong quá trình thực hiện quyền lực nhà
nƣớc. Vì thế đây là tác phẩm quan trọng đề cập đến lý luận về quyền lực nhà nƣớc
nói chung và quyền lực hành pháp nói riêng
Sách “Thể chế tam quyền phân lập của Nhật Bản” – Hồ Việt Hạnh, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, (2008). Dựa trên cơ sở thuyết tam quyền phân lập của
Montesquieu, đã đánh giá những nét cơ bản về thể chế tam quyền phân lập của Nhật
Bản nhƣ: Mức độ tác động của sự phát triển dân chủ; khả năng bảo đảm chủ quyền
thuộc về nhân dân trên cơ sở bảo đảm tính tối thƣợng của Hiến pháp; và đặc biệt là
vấn đề xác định tính triệt để của thể chế tam quyền phân lập. Đặc biệt tác phẩm chỉ
rõ thể chế tam quyền phân lập ở Nhật Bản là không cơ quan nào toàn quyền tuyệt
đối, lấn át hoàn toàn cơ quan quyền lực khác. Khẳng định nét văn hóa Nhật Bản đã
đƣa nghị viện Nhật Bản thành một thể chế có quyền lực mạnh nhất trong các nhánh
quyền lực cấu thành nên Nhà nƣớc.
Cuốn sách là tài liệu tham khảo cung cấp kinh nghiệm về xử lý mối quan hệ
giữa quyền lực hành pháp với các loại quyền lực nhà nƣớc khác.
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền hành pháp
Cho đến nay, đã có một số lƣợng khá lớn các công trình nghiên cứu, bài viết
về quyền hành pháp. Có thể kể đến một số công trình sau:
Bài viết “Quyền hành pháp và chức năng của quyền hành pháp” – PGS.TS.
Lê Minh Tâm, Tạp chí Luật học số 6/2000 đã phân tích khái niệm quyền hành pháp
và chức năng của quyền hành pháp.
Bài viết “Về kiểm soát Quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà
nƣớc Việt Nam hiện nay” – TS. Vũ Thƣ, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 12/2006
đã phân tích cơ sở của việc kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, đối tƣợng và các phƣơng
diện của kiểm soát quyền lực nhà nƣớc và đƣa ra nhận định sơ bộ về kiểm soát
quyền lực hành pháp ở nƣớc ta.


14


Sách chuyên khảo “Chính phủ trong Nhà nƣớc pháp quyền”- PGS.TS
Nguyễn Đăng Dung (2008), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề cập đến Nhà nƣớc
pháp quyền và đặc điểm, mô hình của Chính phủ hành pháp trong Nhà nƣớc pháp
quyền, đƣa ra những yêu cầu, cách thức và hoạt động của Chính Phủ hành pháp
trong việc xây dựng một nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân.
Bài viết “Những bất cập về chế định Chính phủ trong Hiến pháp hiện hành”
– TS. Phạm Tuấn Khải, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3(211) 2/2012, tr 5-9, đã
làm rõ quyền hành pháp và chủ thể thực hiện quyền hành pháp, thẩm quyền của tập
thể Chính phủ và các thành viên Chính phủ cũng nhƣ việc phân cấp và ủy quyền
theo Hiến pháp năm 1992.
Bài viết “Quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp năm 2013”, ThS.
Nguyễn Ngọc Toán, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17(273)T9/2014 tr 3-10, bài
viết bình luận một số điểm mới về quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp
năm 2013 và nêu kiến nghị để Chính phủ thực hiện tốt hơn quyền hành pháp.
Bài viết “Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện
quyền lực nhà nƣớc”, TS. Trần Anh Tuấn, Tạp chí Cộng sản số 851 T9/2013, tr1723. Cho rằng, quyền hành pháp chủ yếu đƣợc thực hiện bởi chủ thể là Chính phủ,
đứng đầu là Thủ tƣớng, nêu rõ trách nhiệm chính trị và thẩm quyền của cơ quan
thực hiện chức năng hành pháp và vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện quyền
lực nhà nƣớc.
Bài viết “Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp năm 2013”, TS. Nguyễn
Văn Cƣơng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 12(268) T6/2014. Đã nêu lên quan
điểm và khái niệm về quyền hành pháp của một số nhà khoa học trên thế giới và
Việt Nam. Tác giả đã đƣa ra các góc nhìn so sánh cũng nhƣ các vấn đề nhận thức về
quyền hành pháp hiện nay.
Bài viết “Quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp và kiến nghị sửa
đổi luật Tổ chức Chính phủ”, ThS Cao Vũ Minh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số

09 (265), T5/2014. Bài viết đƣa ra các quan điểm và ý kiến của các nhà khoa học về

15


khái niệm quyền hành pháp và phân tích các quan điểm đó. Đồng thời đƣa ra đề
xuất sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001.
Bài viết “Cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ theo quy định
của pháp luật”, Nguyễn Phƣớc Thọ, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 13(269),
T7/2014, đã bƣớc đầu tổng kết, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật hiện
hành về cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ; đồng thời làm rõ cơ chế
này đƣợc quy định trong Hiến pháp năm 2013 và đề xuất các kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện cơ chế.
Kỷ yếu hội thảo “Quyền hành pháp trong nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – Bản chất và cơ chế thực hiện” – Viện khoa học pháp lý, Bộ Tƣ
pháp, T12/2013 gồm nhiều bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về các vấn đề
nhƣ: Quyền hành pháp, cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ, mối quan
hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp ở Việt Nam, quyền tƣ pháp với quyền
hành pháp ở Việt Nam hiện nay…..
Bài viết “Chế định Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013”, Dƣơng Thị
Thanh Mai, Tạp chí Luật học số ĐSLHP năm 2014 (Tr 46-49) nói vể những nội
dung cơ bản và những điểm mới của chế định Chính phủ và các quy định liên quan
trong Hiến pháp năm 2013”
Các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
quyền hành pháp nhƣ: khái niệm, bản chất và cơ chế thực hiện quyền hành pháp.
Đồng thời đề cập đến chủ thể chủ yếu thực hiện quyền hành pháp là Chính phủ
Bài viết "Sự cần thiết khách quan của quyền lập quy của Chính phủ",
Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Thị Phƣợng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, số 9/2006, tr. 10 – 14.
Bài viết “Một số suy nghĩ vể mô hình Chính phủ trong nhà nƣớc kiến tạo

phát triển” , GS, TS. Phạm Hồng Thái trong Hội thảo “Nhà nƣớc kiến tạo và phát
triển lý luận và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam” – Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, Tháng 3/2017. Bài viết đã đƣa ra các điều kiện, mục tiêu để tổ chức,

16


xây dựng một Chính phủ kiến tạo, liêm chính hoạt động vì lợi ích của nhân dân, vì
sự phát triển của xã hội.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến vị trí, vai trò, tổ chức hoạt
động và đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ - chủ thể thực hiện quyền hành
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta
Đối với các tài liệu nƣớc ngoài nghiên cứu về quyền hành pháp, có thể kể
đến một số tác phẩm, công trình nghiên cứu sau:
Theo Rod Hague and Martin Harrop, Political Science: A Comparative
Introduction, 6th ed (New york: Palgrave Macmillan,2010) at 319 cho rằng: “khi cai
trị, có thể thiếu bộ máy lập pháp và tƣ pháp nhƣng không thể thiếu bộ máy hành
pháp”.
Quan điểm về quyền hành pháp của Montesquieu đƣợc thể hiện rất rõ trong
việc thiết kế cơ cấu quyền lực nhà nƣớc trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Cụ thể, theo từ
điển luật học nổi tiếng Black’s Law Dictionary thì “quyền hành pháp” (executive
power) là “quyền thấy đƣợc các đạo luật đƣợc thực thi một cách đầy đủ. Theo luật
liên bang quyền này đƣợc trao cho Tổng thống, còn ở các bang quyền này đƣợc trao
cho thống đốc. Các nội dung cụ thể của quyền hành pháp của Tổng thống đƣợc quy
định trong mục 2 Điều 2 Hiến pháp Hoa Kỳ” (Bryan A. Garner (ed.), Black’s Law
Dictionary, 9th ed. (St.Paul, MN: Thomson Reuteurs, 2009) at 657).
Trong bách khoa thƣ về quyền lực “Encyclopedia of Power” do Keith
Dowding (giáo sƣ Đại học quốc gia Úc) Chủ biên xuất bản năm 2011, các tác giả có
định nghĩa rằng: “The executive power is the authority to enforce laws and to
ensure that they are implemented as intended” ( “quyền hành pháp là thẩm quyền

thực thi các đạo luật và bảo đảm rằng các đạo luật này đƣợc thi hành nhƣ ý định đặt
ra các đạo luật ấy”) (Andre Kaiser, “executive power” in Keith Dowding (ed.),
Encyclopedia of Power (London: Sage, 2011) at 228.
Tác phẩm “The Federalist Papers” (Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ) do Ralph
H.Gabriel Chủ biên, bản dịch của Nguyễn Hƣng Vƣợng - Nxb Nhƣ Nguyệt, Sài
Gòn 1959, Tr152,153, 165 đã lý giải đặc tính thực sự của ngành hành pháp, đó là

17


phần lớn quyền lực của ngành hành pháp đều đƣợc giao phó cho một ngƣời độc
nhất… Những yếu tố làm cho ngành hành pháp có uy quyền cƣơng quyết là: trƣớc
hết là sự đơn giản, thứ nhì là sự lâu dài, thứ ba là những dự liệu thích hợp để bảo vệ
uy quyền, thứ tƣ là những quyền lực thích hợp. Các chính trị gia công nhận rằng
ngành hành pháp chỉ nên có một nguyên thủ, còn ngành lập pháp nên có nhiều hội
viên. Họ nhận thấy rằng uy quyền cƣơng quyết rất cần thiết cho ngành hành pháp,
và uy quyền chỉ có thể có đƣợc khi tập trung trong tay một ngƣời độc nhất. Đồng
thời họ cũng nhận thấy rằng ngành lập pháp có đông ngƣời thì mới thảo luận kỹ
lƣỡng, khôn ngoan, vừa đáng để cho nhân dân tín nhiệm, vừa thích hợp để duy trì
quyền lợi của nhân dân.
Trong tác phẩm “An out line of American Government” (Khái quát về chính
quyền Mỹ), Nxb Chính trị quốc gia, 1999 đã tập trung trình về bày Hiến pháp Mỹ và
chế độ Hiến pháp Mỹ với những vấn đề có tính chất đặc trƣng của nó nhƣ: phân
quyền, chế độ Tổng thống, chế độ lƣỡng viện, quyền công dân…. Trong tác phẩm
nêu rõ quyền hành pháp là thiết yếu nhằm bảo vệ đất nƣớc trƣớc sự tấn công của
ngoại bang, quản lý pháp luật công bằng, bộ máy lập pháp phản ánh ý chỉ của ngƣời
dân, đƣa ra những đánh giá thận trọng và đƣợc bàn luận thấu đáo bằng một đạo luật.
Đối với nhánh tƣ pháp, những phẩm chất đề ra cũng rất đặc biệt không phải sự
nhanh nhạy của ngƣời hành pháp, cũng không phải sự cảm thông với thái độ của
công chúng hay khả năng thỏa hiệp của nhà lập pháp mà là “sự minh bạch dung

hòa”. Đƣa ra những ý tƣởng phân tách quyền lực giữa các nhánh quyền nhằm tránh
sự chuyên chế của quyền lực tập trung thuộc về phạm trù rộng hơn về cơ chế kiểm
soát lẫn nhau.
Trong tác phầm “Bàn về khế ước xã hội” của Jean – Jacques Rousseau ngƣời dịch Thanh Đạm, Nxb TP Hồ Chí Minh (1992), ngoài những vấn đề mang
tính nguyên tắc chung của việc cai trị theo pháp luật. Rousseau còn bàn khá cặn kẽ
đến quyền hành pháp, quyền lập pháp, quyền tƣ pháp. Ông cho rằng: “Trong một
nƣớc ý chí toàn dân thể hiện ở cơ quan lập pháp, tức là cơ quan có quyền lực tối
cao; còn sức mạnh quốc gia thể hiện ở cơ quan hành pháp tức là Chính phủ”. Tác

18


phẩm cho rằng: “Ta đã thấy quyền lực thuộc về nhân dân và chỉ có thể thuộc về
nhân dân mà thôi. Trái lại, quyền hành pháp không thể thuộc về cái chung nhƣ
quyền lập pháp hoặc quyền lực tối cao, bởi lẽ quyền hành pháp chỉ liên quan đến
những điều khoản cụ thể không thuộc về thẩm quyền của luật cơ bản hoặc của cơ
quan quyền lực tối cao, mà mọi cử chỉ cần phải làm là những đạo luật”.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trên thế giới về quyền hành pháp của
các quốc gia gắn với mỗi chế độ chính trị, xã hội, nền văn hóa pháp lý truyền thống
của mỗi quốc gia đó khá phong phú. Các công trình đó đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền hành pháp nhƣ: nội dung của quyền hành
pháp, mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp, chủ thể thích hợp nhất
để nắm quyền lập pháp, cách thức tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong thực
tiễn ở một số nƣớc trên thế giới… Thông qua các nghiên cứu đó có thể tìm thấy
những nét tƣơng đồng, rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo trong
quá trình tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nƣớc ta.
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền hành pháp với
các quyền khác
Đối với nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền hành
pháp với các quyền khác có một số bài viết, tài liệu sau:

Sách “Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam” –
Lê Quốc Hùng (2004), Nxb Tƣ pháp, Hà Nội: Sách đã nghiên cứu cơ bản và có hệ
thống, làm sáng tỏ các vấn đề nhƣ bản chất của quyền lực nhà nƣớc, sự thống nhất
của quyền lực nhà nƣớc và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nƣớc thông qua sự phân
công và phối hợp các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tƣ pháp. Đây là công trình đầu tiên đề cập đến nguyên tắc thống nhất phân
công và phối hợp quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam;
Sách chuyên khảo – tham khảo “Phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà
nƣớc trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp ở Việt Nam” – TS.
Cao Anh Đô (2013), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Nội dung cuốn sách
tập trung nghiên cứu việc phân công quyền lực nhà nƣớc về lập pháp, hành pháp và

19


tƣ pháp trong mối quan hệ tổ chức bộ máy nhà nƣớc, làm rõ vai trò và chức năng
của các chủ thể này trong việc thực hiện các quyền nói trên.
Bài viết "Về quyền hành pháp của Chính phủ trong cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc", Nguyễn Phƣớc Thọ, Cao Anh Đô, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 22/2011, tr. 35 - 40, 48 đƣa ra vấn đề
cần làm rõ nội dung quyền hành pháp của Chính phủ đến đâu, các nguyên tắc cơ
bản của cơ chế vận hành quyền lực đƣợc trao bảo đảm tính thống nhất, thông suốt
và liên tục của quản lý điều hành các mặt đời sống, kinh tế- xã hội của đất nƣớc.
Bài viết "Mối quan hệ giữa hoạt động lập pháp (Quốc hội) và hành pháp
(Chính Phủ) ở nƣớc ta" - Ngô Đức Tuấn, Khoa học pháp lý, Trƣờng đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Số 3/2000, tr. 9 đề cập đến mối quan hệ giữa hoạt động
lập pháp của Quốc hội và hoạt động hành pháp của Chính phủ.
Bài viết “Về quyền lực nhà nƣớc và sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
cơ quan nhà nƣớc trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp hiện
nay” - Trần Ngọc Đƣờng, tạp chí Cộng sản số 858 (tháng 4 năm 2014), trang 73-77

đề cập đến việc thống nhất quyền lực nhà nƣớc là ở nhân dân và mối quan hệ giữa
quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp trên cơ sở phân công và kiểm soát quyền lực và
bảo đảm tính pháp quyền của nhà nƣớc.
Bài viết “Mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền
tƣ pháp theo tinh thần Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2013”, Tô Văn
Hòa, số ĐS 9/2014 (Tr. 34-45) đề cập đến mối quan hệ giữa quyền hành pháp và
quyền tƣ pháp và cơ quan thực hiện các quyền này đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp
năm 2013.
Các công trình trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ
chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp ở nƣớc ta, qua đó làm sáng tỏ hơn mối quan
hệ giữa quyền hành pháp với các quyền lập pháp và tƣ pháp ở nƣớc ta
Thông qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu trong nƣớc có liên quan
đến đề tài luận án, có thể thấy số lƣợng các công trình nghiên cứu có liên quan đến

20


quyền lực nhà nƣớc nói chung và quyền hành pháp nói riêng là rất lớn. Đặc biệt,
việc nghiên cứu cơ chế bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nƣớc và sự phân
công quyền lực giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tƣ pháp ở nƣớc ta đã đƣợc rất nhiều công trình nghiên
cứu đề cập đến. Phạm vi đối tƣợng nghiên cứu trong các công trình nói trên chủ yếu
theo các hƣớng sau: nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền lực và quyền lực
nhà nƣớc, thực hiện quyền lực nhà nƣớc, mối quan hệ giữa các loại quyền lực, sự
phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa…; hoặc nghiên cứu các vấn đề về tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc, xây dựng tổ chức chính quyền
hành chính tại địa phƣơng…; hoặc nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm, chức
năng của quyền hành pháp trong nhà nƣớc pháp quyền, xây dựng nhà nƣớc pháp

quyền.
1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.4.1. Đánh giá các kết quả nghiên cứu đã đạt được
Qua nội dung các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trên
thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam đã nêu, có thể đánh giá về các kết quả nghiên cứu đó
nhƣ sau:
Các nghiên cứu đó đã làm rõ mối quan hệ giữa quyền lực, quyền lực nhà
nƣớc, quyền lực nhân dân, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Tùy theo quan niệm
và sự phát triển của nhu cầu quản lý nhà nƣớc, vấn đề tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nƣớc ở mỗi nƣớc có sự khác nhau nhất định. Quyền lực nhà nƣớc có thể tập
trung trong tay một cá nhân hoặc một cơ quan (nhóm ngƣời) hay phân công cho
nhiều cơ quan khác nhau thực hiện, nhƣng dù có thành lập thêm bao nhiêu cơ quan
đi chăng nữa thì quyền lực nhà nƣớc vẫn luôn thống nhất, bộ máy nhà nƣớc vẫn
phải luôn là một cơ chế thống nhất nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nƣớc. Do
vậy, việc định ra các quyền lực nhƣ quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tƣ

21


pháp… chẳng qua là xác định các chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nƣớc
trong pháp luật.
Việc phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp là nhằm tránh hiện tƣợng tập trung quyền lực
vào một chủ thể, nhờ vậy có thể tránh đƣợc hiện tƣợng lộng quyền và lạm quyền.
Tuy nhiên việc phân quyền ở đây không có nghĩa là áp dụng một cách cơ học, các
quyền hoàn toàn biệt lập, không có mối liên hệ với nhau. Trái lại, các quyền đó bổ
sung cho nhau, tƣơng tác lẫn nhau để sao cho trong nội tại mỗi quyền và giữa các
quyền sẽ hình thành mối liên hệ vừa phối hợp, vừa kiểm soát lẫn nhau trong một
chỉnh thể thống nhất của quyền lực nhà nƣớc.

Các nghiên cứu của một số tác giả cũng nêu lên khái niệm về quyền hành
pháp, nội dung của quyền hành pháp với nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau. Nội
dung của khái niệm “quyền hành pháp” cho đến nay vẫn chƣa có sự thống nhất, có
rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền hành pháp, có tác giả cho rằng
quyền hành pháp là quyền cai trị theo luật, có tác giả lại đồng nhất quyền hành pháp
với quyền hành chính công, hoặc có tác giả cho rằng quyền hành pháp chính là
quyền điều hành đất nƣớc… Mặc dù vậy, các quan điểm khác nhau về quyền hành
pháp đã giúp cung cấp cái nhìn đa chiều, đa diện về quyền hành pháp để từ đó tiếp
tục đi sâu nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận về quyền hành pháp trong cơ chế
thực hiện quyền lực nhà nƣớc.
Các công trình nghiên cứu cũng cung cấp một cái nhìn toàn diện về quyền
lực nhà nƣớc là thống nhất và sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc
trong việc thực hiện quyền lực nhà nƣớc, mối quan hệ giữa quyền hành pháp với
quyền lập pháp và quyền tƣ pháp. Cung cấp cơ sở lý luận của sự phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc phù hợp với hệ thống chính trị của nƣớc ta, từ
đó có thể luận giải đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của quyền
hành pháp trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nƣớc và hoàn thiện pháp luật của
nƣớc ta.

22


×