Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Các chức năng và kỹ năng của nhà quản trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.56 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHÀ QUẢN TRỊ..........................................................................2
CHƯƠNG 2: CÁC CHỨC NĂNG VÀ KỸ NĂNG CỦA NHÀ QUẢN TRỊ. .5
1. Các chức năng của nhà quản trị..................................................................5
1.1: Chức năng hoạch định và ra quyết định...................................................5
1.2: Chức năng tổ chức...................................................................................9
1.3: Chức năng lãnh đạo................................................................................13
1.4: Chức năng kiểm tra................................................................................17
2. Kỹ năng của nhà quản trị..........................................................................19
2.1: Kỹ năng kỹ thuật....................................................................................19
1.2

Kỹ năng nhân sự..................................................................................19

2.3 Kỹ năng tư duy:.......................................................................................21
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN TRONG QUẢN TRỊ HIỆN NAY......................23
KẾT LUẬN........................................................................................................26


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thế giới hiện nay, chắc không ai phủ nhận vai trò quan trọng và to
lớn của quản trị trong việc bảo đảm sự tồn tại và hoạt động bình thường của đời
sống kinh tế xã hội đối với sự phát triển của từng đơn vị hay cộng đồng và cao
hơn nữa là cả một quốc gia, quản trị càng có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, trên
thực tế hầu hết những thất bại trong hoạt động kinh doanh của cá nhân và các
doanh nghiệp, cũng như thất bại trong hoạt động của tổ chức kinh tế, chính trịxã hội nhiều năm qua cho thấy nguyên nhân cơ bản vẫn là do quản trị yếu kém.
Ngân hàng Châu Mỹ đã nêu ra trong bản công bố báo cáo về kinh doanh nhỏ
rằng “Theo kết quả phân tích cuối cùng, hơn 90% các thất bại trong kinh doanh
là do thiếu kỹ năng và thiếu kinh nghiệp quản trị”. Nhưng nếu nhà quản trị biết
tổ chức hoạt động và những việc quản trị khác thì triển vọng đạt kết quả tốt sẽ


cao hơn, đặc biệt quan trọng không phải chỉ là kết quả mà còn ít tốn kém thời
gian, tiền bạc, nguyên vật liệu và những phí tổn khác. Quản trị có khả năng sáng
tạo to lớn. Điều đó có nghĩa là cùng với các điều kiện về con người và về vật
chết kỹ thuật như nhau, nhưng các quản trị khác nhau sẽ đem lại hiệu quả kinh
tế khác nhau. Do đó nhà quản trị cần phải trau dồi những kỹ năng quản trị của
mình để mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và góp phần đưa nền kinh tế đất
nước phát triển. Sau khi phân tích, nhận thấy những vai trò quan trọng của nhà
quản trị tôi đã chọn đề tài “ Các chức năng và kỹ năng của nhà quản trị” làm
đề tài cho môn Quản trị học. Với mục đích nghiên cứu, hiểu thêm về môn học
và nắm rõ những chức năng, kỹ năng mà một nhà quản trị cần phải có.
Để phù hợp với nội dung của đề tài thì tiểu luận được chia làm 3 phần:
Chương 1: Nhà quản trị.
Chương 2: Các chức năng và kỹ năng của nhà quản trị.
Chương 3: Thực tiễn trong quản trị hiện nay.

1


CHƯƠNG 1: NHÀ QUẢN TRỊ
Nhà quản trị
Nhà quản trị là một khái niệm rất rộng gồm nhiều định nghĩa khác nhau.
Nhưng theo tôi, nhà quản trị là người đảm nhận trách nhiệm dẫn dắt, lãnh đạo,
hướng dẫn hoạt động quản trị cho một tổ chức hay một đối tượng quản trị nhất
định thông qua việc sử dụng các nguồn tài nguyên khác nhau về nhân lực, tài
chính, vật tư, tri thức và giá trị vô hình làm cho tổ chức ấy hoàn thành được
những mục tiêu nhất định. Một tổ chức hay một nhóm đối tượng quản trị có thể
thuộc bên quản trị hay dịch vụ, kinh doanh hay phi lợi nhuận, thuộc khu vực tư
hay khu vực công, hành chính hay sự nghiệp…
Ngoài ra, ta có những định nghĩa khác về nhà quản trị như sau:
Nhà quản trị là những người làm việc trong tổ chức, điều khiển công việc

của người khác và chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động của họ.
Nhà quản trị là người lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển và kiểm soát
những nguồn lực trong tổ chức một cách có hiệu quả để đạt được mục tiêu của
tổ chức.
Nhà quản trị là người có quyền sử dụng các loại nguồn lực trong tổ chức
đó và chịu trách nhiệm đưa tổ chức đó hoàn thành mục tiêu chung.
Hoạt động quản trị cũng là một hoạt động xã hội của con người và chính
vì vậy nó cũng cần được chuyên môn hóa. Trong mỗi tổ chức, các công việc về
quản trị không chỉ có tính chuyên môn hóa cao mà nó còn mang tính thứ bậc rõ
nét. Tùy theo cấp bậc có thể chia nhà quản trị thành 3 loại: nhà quản trị cấp cơ
sở, nhà quản trị trung cấp và nhà quản trị cao cấp. Thứ bậc của 3 cấp quản trị
này được mô tả trong mô hình sau:
Các nhà quản trị cấp cơ sở (First-line Managers) cũng thường gọi là tổ
trưởng, đốc công cai thợ, Đây là các quản trị viên ở cấp bậc cuối cùng trong hệ
thống cấp bậc của các nhà quản trị trong cùng một tổ chức. Nhiệm vụ của họ là
đưa ra các quyết định tác nghiệp nhằm đốc thúc, hướng dẫn điều khiển các nhân
viên trong các công việc sản xuất kinh doanh, công tác cụ thể hàng ngày, nhằm
2


thực hiện mục tiêu chung.
Các nhà quản trị trung cấp (Middle Managers) thường mang chức danh
trưởng phòng, trưởng ban, cửa hàng trưởng, đốc công phân xưởng, trưởng khoa,
Nhiệm vụ của họ là đưa ra các quyết định chiến thuật thực hiện các kế hoạch và
chính sách của doanh nghiệp, phối hợp các hoạt động các công việc để hoàn
thành mục tiêu chung.
Các nhà quản trị cấp cao (Top Managers) như giám đốc, tổng giám đốc,
giám đốc điều hành, chủ tịch hội đồng quản trị, Nhiệm vụ là đưa ra các quyết
định chiến lược, tổ chức thực hiện chiến luợc, duy trì và phát triển tổ chức. họ
chịu trách nhiệm về những thành quả cuối cùng của tổ chức.

Nhà quản trị có thể là một người đội trưởng đội bảo vệ cơ quản, một tổ
trưởng tổ vệ sinh đường phố, một công chức, viên chức bình thường trong bộ
máy quản lý nhà nước, một giám đốc của một doanh nghiệp, nhà nước hay tư
nhân, một vị bộ trưởng hay một ông thủ tướng,…
Ở mỗi lĩnh vực khác nhau đòi hỏi những nhà quản trị phải có những kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm và công cụ hỗ trợ quản trị khác nhau.
Ngày nay, nghề quản trị thực sự là một nghề lao động trong xã hội, có
những đặc thù riêng với rất nhiều thách thức, khó khăn song cũng là một nghề
có nhiều cơ hội phát triển, thăng tiến. Nó đòi hỏi người làm việc trong nghề phải
thực hiện đúng chức năng, và phải luôn không nhừng trau dồi kỹ năng.
Cơ hội của các nhà quản trị là rất rộng mở, được làm việc ở những vị trí
cao trong các doanh nghiệp như CEO. Đây là một nghề đức cao vọng trọng
trong xã hội, với mức lương cao tương ứng với trách nhiệm. Bên cạnh đó cơ hội
được khẳng định bản thân và cơ hội thăng tiến rất lớn. Do đó nên các nhà quản
trị có nhiều cơ hội phát triển cá nhân và cơ hội đóng góp vào sự phát triển của
nền kinh tế đất nước.
Bên cạnh những cơ hội luôn có những thử thách chờ đợi các nhà quản trị
bởi quản trị là một nghê vừa mang tính khoa học lại vừa mang tính nghệ thuật.
Là một nghê khoa học nên đòi hỏi là quản trị phải được đào tạo bài bản, chuyên
3


nghiệp. Là một nghề nghệ thuật, đòi hỏi nhà quản trị phải có năng khiếu, và luôn
tự rèn luyện bản thân mình. Những đòi hỏi đó thực sự là một thách thức đối với
những người hoạt động trong nghề, bởi việc kết hợp giữa tính khoa học và nghệ
thuật là việc không dễ dàng.
Thực tế ở Việt Nam, các nhà quản trị chưa thực sự nắm vững được chức
năng, cũng như chưa khai thác hết các kỹ năng để trở thành một nhà quản trị tốt.
Chính vì vậy chúng ta cần phải nghiên cứu và nắm rõ chức năng và kỹ năng của
nhà quản trị.


4


CHƯƠNG 2: CÁC CHỨC NĂNG VÀ KỸ NĂNG CỦA NHÀ QUẢN TRỊ
1. Các chức năng của nhà quản trị.
1.1: Chức năng hoạch định và ra quyết định.
a. Chức năng hoạch định.
- Hoạch định là một trong bốn chức năng thiết yếu của một nhà quản
trị,đồng thời được coi là một chức năng ưu tiên hay là nền tảng của quản trị. Đây
là công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải thực hiện ngay từ đầu để triển khai
các hoạt động để đạt mục tiêu đã xác định. Chức năng hoạch định bao gồm quá
trình xác định mục tiêu trong tương lai và những phương tiện thích hợp để đạt
mục tiêu đó. Tất cả các nhà quản trị trong mọi cấp bậc đều phải thức hiện công
tác hoạch định. Thông qua hoạch định , nhà quản trị chuẩn bị cho tổ chức của
mình những hoạt động cần thiết nhằm đạt được thành công cả trong ngắn hạn và
dài hạn. Khi nhà quản lý thiếu tư duy chiến lược, thiếu khả năng hoạch định thì
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không thể phát triển lâu bền. Trong môi
trường kinh doanh đầy tính cạnh tranh như hiện nay và nhất là trong bối cảnh
toàn cấu hóa, thì hoạch định một cách có hiệu quả ngày càng trở nên quan trọng
hơn. Việc này giúp doanh nghiệp có thể ổn định, đứng vững và phát triển.
- Chúng ta hiểu qua về hoạch định là một quá trình thiết lập mục tiêu,
định ra chương trình, bước đi và triển khai các nguồn lực nhằm thực hiện
mục tiêu của tổ chức.
- Từ khái niệm trên ta có thể rút ra được đặc điểm của chức năng hoạch
định là bao gồm:
+ Xác định những mục tiêu trong tương lai mà nhà quản trị và tổ chức
mong muốn đạt được.
+ Lựa chọn phương hướng hành động đòi hỏi phải xem xét đến dự báo
tương lai.

+ Dự kiến các nguồn lực để thực hiện, bao gồm các nguồn lực của tổ
chức, hoặc tổ chức huy động được từ bên ngoài.
+ Chỉ rõ ai là người thực hiện, thực hiện như thế nào, thời gian thực hiện
5


khi nào.
- Vai trò của hoạch định :
+ Góp phần thực hiện các mục tiêu của tổ chức. Hoạch định là sự lựa
chọn của ác mục tiêu của tổ chức và xác định phương thức để đạt được mục tiêu
đó. Do toàn bộ quá trình hoạch định là tập trung sự chú ý vào mục tiêu, nếu
công tác hoạch định tốt sẽ góp phần tích cực vào việc hoàn thành mục tiêu đề ra.
+ Ứng phó với những bất định trong tương lai. Để hoạch định tốt nhà
quản trị phải thấy được xu thế của tương lai, phải dự đoán được những biến
động có thể xảy ra; xem xét thời cơ và thách thức, phân tích những tác động tiêu
cực, tích cực của môi trường. Từ đó xây dựng được kế hoạch, chiến lược phù
hợp với sự thay đổi của môi trường, góp phần tạo nên thành công của tổ chức.
+ Nâng cao hiệu của các hoạt động tác nghiệp trong tổ chức. Nhờ có
hoạch định, các hoạt động tác nghiệp diễn ra có kế hoạch và có sự phối hợp nhịp
nhàng, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hiệu quả của quản trị trong tổ chức.
+ Tạo thuận lợi cho công tác kiểm tra trong tổ chức. Các nhà quản trị
không thể kiểm tra công việc của cấp dưới nếu không có tiêu chuẩn để đo lường.
Hoạch định tốt sẽ tạo ra những mục tiêu xác đáng làm tiêu chuẩn đo lường cho
công tác kiểm tra các chức năng khác của quản trị như chức năng tổ chức, chức
năng lãnh đạo.
- Mục đích cuối cùng của công việc hoạch định là đưa ra các mục tiêu và
phương pháp cụ thể. Trong 4 chức năng quản trị, có thể nói Hoạch định là chức
năng quan trọng nhất, bởi vì chúng ta không thể tiến hành công việc khi không
biết chúng ta muốn đạt được điều gì và phải làm gì để đạt được những điều đó.
Có rất nhiều công ty đã thất bại chỉ vì hoạch định sai mục tiêu của mình.

Một ví dụ điển hình là Ford trong việc tung ra chiếc Edsel vào tháng 9
năm 1957. Có rất nhiều sai lầm trong việc hoạch định kế hoạch này, cụ thể là:
tên của mẫu xe không thu hút khách hàng, thời điểm tung ra thị trường không
phù hợp (vào thời đó các mẫu xe mới thường được bán vào tháng 11 hằng năm),
thiết kế tồi, có nhiều trục trặc kỹ thuật, giá thành quá cao trong khi khách hàng
6


đang nhắm đến những chiếc xe rẻ hơn, và trên hết là việc quảng cáo thái quá về
chiếc xe mà không hề có một khảo sát thị trường nào. Kết quả là chiếc Edsel chỉ
tồn tại trong 4 năm (từ 1957 đến 1960) với doanh số 60.000 chiếc trong năm đầu
tiên, chưa đến 30% mong đợi.
Một ví dụ khác là P&G (Procter and Gamble)-Tập đoàn hàng đầu thế
giới về các sản phẩm chăm sóc cá nhân – đã có những đánh giá sai lầm trong
việc hoạch định số lượng thương hiệu phụ của một nhãn hàng. Họ cho rằng càng
nhiều sự lựa chọn cho khách hàng thì doanh số sẽ càng cao. Họ đã tung ra đến
52 thương hiệu phụ của chỉ một dòng sản phẩm kem đánh răng Crest và 31
thương hiệu phụ của một toàn bối rối trước hàng loạt sản phẩm và cuối cùng
Crest chỉ chiếm 15% thị phần kem đánh răng của thị trường Mĩ, bị Colgate bỏ
lại rất xa.
Như vậy, qua hai ví dụ trên chúng ta có thể thấy được rằng, hoạch định
có vai trò rất quan trọng trong việc kinh doanh cũng như hoạt động của bất kỳ tổ
chức nào khác. Không có hoạch định hoặc hoạch định yếu kém sẽ dẫn chúng ta
đến thất bại nặng nề.
b. Chức năng ra quyết định.
- Ra quyết định cũng là một chức năng quan trọng và không thể thiếu của
nhà quản trị. Theo như James H. Donnelly, James L. Gibson “ Quyết định quản
trị là quá trình tư duy, cân nhắc cách thức và các nguồn lực để giải quyết một
vấn đề tổ chức”. Hay theo như Trần Anh Tài “ Quyết định quản trị là hành vi
sáng tạo của nhà quản trị nhằm định ra chương trình và tính chất hoạt động của

các tổ chức để giải quyết một vấn đề đã chín muồi, trên cơ sở hiểu biết các quy
luật vận động khách quan các hệ thống bị quản trị và việc phân tích các thông
tin về hiện trạng của nó” . Ta thấy được khái niệm của quyết định quản trị là rất
nhiều, vì thế chúng ta sẽ đưa ra khái niệm chung nhất về quyết định quản trị:
Quyết định quản trị là hành vi sáng tạo của nhà quản trị nhằm đưa ra mục
tiêu, cách thức thực hiện và các nguồn lực để giải quyết một vấn đề của tổ
chức.
7


- Đặc trưng của quyết định quản trị được thể hiện qua cụm từ 5W1H,
chúng ta có thể hiểu là:
+ What – quyết định cái gì ?
+ Why – tại sao phải làm ?
+ When – thời gian làm ?
+ Where – làm ở đâu ?
+ Who – ai làm ?
+ How – làm như thế nào ?
- Quyết định quản trị thường có các đặc điểm sau:
+ Mọi thành viên của tổ chức đều có thể ra quyết định, nhưng chỉ có nhà
quản trị mới đưa ra quyết định quản trị.
+ Quyết định quản trị đưa ra khi có sự tư vấn, tổng hợp của các bộ phận
tham mưu.
+ Quyết định quản trị luôn gắn với thông tin.
+ Quyết định quản trị chứa đựng những yếu tố khoa học và sáng tạo.
- Vai trò của quyết định quản trị:
+ Các quyết định luôn là sản phẩm chủ yếu và trung tâm của mọi hành
động về quản trị.
+ Sự thành công hay thất bại của tổ chức phụ thuộc nhiều vào quyết định
quản trị.

+ Không thể thay thế quyết định quản trị bằng tiền bạc, vốn liếng, sự tự
điều chỉnh, hoặc bất cứ thứ tự động hóa nào bằng máy móc tinh xảo.
+ Mỗi quyết định là một khâu quan trọng trong hệ thống, các quyết định
có sự tương tác lẫn nhau.
- Trong vai trò là quản lý gần như chúng ta phải ra quyết định, cũng có
lúc là quyết định đơn giản, nhưng cũng có lúc là quyết định phức tạp. Có thể
những quyết định đó là đúng, nhưng cũng có thể là quyết định sai. Chúng ta
cùng xem một ví dụ sau:
Phòng tài chính chuẩn bị chuyển sang địa điểm mới và Samantha - trưởng
8


phòng - cần chọn một người đại diện cho phòng tài chính tham gia vào nhóm bố
trí mặt bằng của toàn công ty. Đối với Samantha, đây là một quyết định giao phó
đơn giản. Ai trong số các cấp dưới của cô sẽ đại diện cho phòng tài chính? Đó
phải là người có tính quyết đoán, có kỹ năng làm việc theo nhóm và phải nắm
vững nhu cầu không gian của phòng tài chính. Vì hiểu rõ khả năng của từng
nhân viên nên Samantha đã không khó khăn gì khi chọn George và anh ta cũng
sốt sắng nhận trách nhiệm mới. Đúng là George sẽ có ít thời gian hơn để thực
hiện công việc thường ngày của mình, nhưng cả anh lẫn Samantha đều thấy rằng
đó không phải là vấn đề nghiêm trọng.
Không phải quyết định nào cũng dễ dàng như ví dụ trên, có những quyết
định sẽ khó khăn cho nhà quản trị, đòi hỏi nhà quản trị phải đưa ra lựa chọn
những phương án tối ưu nhất cho tổ chức hoặc doanh nghiệp để có thể đưa tổ
chức hoặc doanh nghiệp đó đi đến thành công. Chúng ta cũng không thể phủ
nhận tầm quan trọng của chức năng này, đây cũng là một trong những chức năng
quan trọng mà nhà quản trị cần nắm bắt và học hỏi.
1.2: Chức năng tổ chức.
- Sau khi phác thảo xong các kế hoạch, nhà quản trị cần phải làm cho
những ý tưởng tương đối vắn tắt này trở thành thực tế. Hiểu biết về tổ chức là

yêu cầu vô cùng thiết yếu để thực thi được điều đó. Thực hiện hiệu quả chức
năng tổ chức giúp các nhà quản trị phối hợp tốt hơn các nguồn lực của tổ chức.
Sự thành công của tổ chức phụ thuộc phần lớn vào khả năng sử dụng các nguồn
lực này một cách hữu hiệu và hiệu quả.
- Tổ chức theo từ gốc Hy Lạp ‘Organon’ nghĩa là ‘hài hòa’, từ tổ chức
nói lên một quan điểm rất tổng quát “đó là cái đem lại bản chất thích nghi với sự
sống”. Theo Chester I. Barnard thì tổ chức là một hệ thống những hoạt động hay
nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức. Theo
Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich thì công tác tổ chức là “việc
nhóm gộp các hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu, là việc giao phó mỗi
nhóm cho một người quản lý với quyền hạn cần thiết để giám sát nó, và là việc
9


tạo điều kiện cho sự liên kết ngang và dọc trong cơ cấu của doanh nghiệp”.
- Có thể dẫn ra nhiều quan niệm của các tác giả khác nữa nhưng điều
quan trọng là vấn đề chúng ta cần xem xét bản chất của chức năng tổ chức từ
góc độ của khoa học quản trị. Tổng hợp từ những khái niệm khác nhau về chức
năng tổ chức, chúng ta có thể hiểu bản chất của chức năng tổ chức là thiết kế
một cấu trúc tổ chức hiệu quả nhằm đảm bảo cho các hoạt động quản trị đạt
được mục tiêu của nó. Nói cách khác chức năng tổ chức là việc chia tổ chức
ra nhiều bộ phận khác nhau, xác định chức năng, nhiệm vụ cho từng bộ
phận và thiết lập mối quan hệ giữa chúng nhằm thực hiện mục tiêu của tổ
chức.
- Nếu như tầm vai trò của lập kế hoạch được thể hiện ở việc xác định
mục tiêu, phương án hành động thì chức năng tổ chức thể hiện tầm quan trọng
của nó ở việc biến những mục tiêu thành hiện thực. Sẽ không sai khi nói rằng tổ
chwusc là nhân tố quyết định thành bại của một tổ chức. Tất cả các quyết định
quản lý, kế hoạch, hoạt động lãnh đạo, kiểm tra sẽ không trở thành hiện thực nếu
không tổ chức thực hiện một cách khoa học. Vai trò của chức năng tổ chức thể

hiện ở những phương diện cơ bản sau:
+ Xác định cơ cấu tổ chức hợp lý, phù hợp với mục tiêu, sứ mệnh phát
triển của tổ chức.
+ Phát huy sức mạnh của cá nhân, tập thể trong cơ cấu tổ chức.
+ Tạo điều kiện để phát huy các chức năng khác như: hoạch định, quản trị
nhân sự, lãnh đạo, kiểm tra,…
+ Tạo môi trường làm việc thích hợp, tác động tích cực đến việc sử dụng
các nguồn lực của tổ chức.
- Mục tiêu của công tác tổ chức là gì? Có thể nói mục tiêu tổng quát nhất
của công tác tổ chức là thiết kế được một cấu trúc tổ chức vận hành một cách
hiệu quả nhằm đạt được những mục tiêu mà tổ chức đã xác định. Cấu trúc tổ
chức phù hợp nghĩa là hình thành nên cơ cấu quản trị cho phép sự phối hợp các
hoạt động và các nỗ lực giữa các bộ phận và các cấp tốt nhất. Những mục tiêu
10


cụ thể đối với công việc tổ chức mà các tổ chức thường hay nhắm tới là: (1) Xây
dựng một bộ máy quản trị gọn nhẹ và có hiệu lực; (2) Xây dựng nếp văn hóa của
tổ chức lành mạnh; (3) Tổ chức công việc khoa học; (4) Phát hiện, uốn nắn và
điều chỉnh kịp thời mọi hoạt động yếu kém trong tổ chức; (5) Phát huy hết sức
mạnh của các nguồn tài nguyên vốn có; (6) Tạo thế và lực cho tổ chức thích ứng
với mọi hoàn cảnh thuận lợi cũng như khó khăn ở bên trong và bên ngoài đơn
vị.Cũng như mọi loại mục tiêu quản trị khác, mục tiêu của công tác tổ chức phải
khoa học, khả thi, phải phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Khác với yêu cầu về
các loại mục tiêu quản trị khác, yêu cầu đối với các mục tiêu về tổ chức là phải
tuân thủ những qui luật khách quan đặc thù của công tác tổ chức. Ví dụ như qui
luật về tầm hạn quản trị, qui luật về cấu trúc tổ chức, qui luật về phân chia quyền
hạn, bổ nhiệm, đề cử, đề bạt, thăng chức v.v...
- Cơ cấu tổ chức quản trị là tổng hợp các bộ phận khác nhau, được
chuyên môn hóa và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí theo

những cấp nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng quản trị và phục vụ mục tiêu
chung đã xác định. Cơ cấu tổ chức quản trị càng hoàn hảo càng tác động một
cách hiệu quả đến sản xuất, kinh doanh, dịch vụ làm gia tăng lợi nhuận. Ngược
lại, nếu cơ cấu tổ chức cồng kềnh, nhiều cấp, nhiều khâu, thiết kế công việc
không tương quan quyền hành, xếp đặt nhân viên không đúng sẽ trở thành nhân
tố kìm hãm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và giảm lợi nhuận. Chú trọng phát
triển và hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản trị sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp phản
ứng nhanh chóng trước những biến động trong sản xuất kinh doanh, tạo điều
kiện nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác nhau trong doanh nghiệp.
Mọi hoạt động quản trị có nhiều người tham gia đều cần có sự quản lý, và
để quản lý phải có tổ chức. Quá trình thiết kế và xây dựng tổ chức từ những bộ
phận nhỏ hơn là một hình thức thể hiện của qui luật khách quan về chuyên môn
hóa lao động trong quản trị. Chính sự tồn tại của các bộ phận hoạt động tương
đối độc lập và liên quan giữa chúng trong một tổ chức đã tạo nên cơ cấu của nó.
Như vậy cơ cấu tổ chức bộ máy là tổng hợp các bộ phận (đơn vị và cá nhân)
11


khác nhau, có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa
và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp,
những khâu khác nhau nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản trị và phục
vụ mục đích chung đã xác định của tổ chức.Để đảm bảo việc thiết kế một cơ cấu
tổ chức quản trị phù hợp, chúng ta cần phải nắm bắt được các nguyên tắc tổ
chức, những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức và hiểu biết về các kiểu cơ
cấu tổ chức quản trị.
- Chúng ta có thể xem một ví dụ về chức năng tổ chức:
Được lấy cảm hứng từ câu chuyện Moby-Dick của nhà văn người Mỹ nổi
tiếng Herman Melville, Star Bucks là chuỗi cửa hàng cà phê lớn nhất trên thế
giới với hơn 16.000 cửa hàng trên 50 quốc gia. Bắt đầu với một cửa hàng cà phê
lụp xụp ơ Seattle. Starbucks giờ đây đã đạt được vị trí mà biết bao đối thủ cạnh

tranh trong nền công nghiệp thức ăn nhanh của Mỹ thèm khát. Từng được bán
lại cho Howard Schultz chỉ với giá 3,8 triệu USD nhưng chỉ riêng trong năm
2010, doanh thu của Starbucks đã lên đến 10.71 tỷ USD.
Lý do vì đâu mà Starbucks lại đạt được thành công đến vậy thì đó là nhờ
vào các nguyên tắc của tổ chức quản trị.
 Nguyên tắc linh hoạt:
+StarBucks đóng cửa 7.100 cửa hàng tại Mỹ trong vòng 3 giờ rưỡi
đồng hồ.
+Đề nghị mọi người viết email thẳng cho ông để bày tỏ ý kiến.
+Phát tặng thưởng cho khách hàng.
 Nguyên tắc hiệu quả:
+StarBucks đóng cuwae 600 cửa hiệu, sa thải 7% số nhân viên tiết
kiệm 850 triệu USD.
+Khoảng 70% trong số các cửa hàng bị đóng cửa hàng này mới chỉ mở
trong vòng 3 năm trước đó.
 Nguyên tắc gắn liền với mục tiêu:

12


+ Tham vọng mở 40.000 quán cà phê toàn cầu.
+ “ Bộ óc tỉ USD” – Clara Shih tại StarBucks.
 StarBucks thay những máy tính tiền và máy tính cũ.
 Thay toàn bộ máy pha cà phê espresso bằng loại máy cao cấp Mastrena
có xuất xứ từ Thụy Sĩ.
 Duy trì chế độ bảo hiểm y tế cho nhân viên, tăng lương cho nhân viên
theo thành tích công việc.
- Từ ví dụ này chúng ta có thể thấy được tổ chức cũng là một chức năng
quan trọng quyết định thành bại của một tổ chức hay một doanh nghiệp. Chính
vì thế mà nhà quản trị cần phải nắm rõ được những chức năng cơ bản này.

1.3: Chức năng lãnh đạo.
- Lãnh đạo là một phần của quản trị, nhưng không phải là toàn bộ công
việc của quản trị. Có rất nhiều khái niệm về lãnh đạo như theo Bennis “Lãnh đạo
là quá trinh gây ảnh hưởng mang tính xã hội nhằm tìm kiếm sự tham gia tự
nguyện của cấp dưới đề thực hiện một cách tốt nhất mục tiêu của tố chức”. Hay
theo House và cộng sự “ Lãnh đạo là khả năng gây ảnh hưởng, động viên,
khuyến khích của một người nào đó để làm cho cấp dưới đóng góp công sức cho
mình cho sự thành công của tổ chức”. Từ đay ta sẽ đưa ra một khái niệm chung
cho lãnh đạo: Là một quá trình, một nghệ thuật tác động gây ảnh hưởng đến
con người làm cho họ tự nguyện, hăng hái thực hiện thành công các nhiệm
vụ, mục tiêu của tổ chức.
- Vai trò của chức năng lãnh đạo:
+ Vai trò dẫn dắt tổ chức. Nhà lãnh đạo phải có năng lực, có tầm nhìn
chiến lược để giúp cho tổ chức thấy được con đường cần đi và cái đích cần đến.
+Vai trò tập hợp lực lượng xung quanh mình để thực thi sứ mệnh của tổ
chức.
+Lãnh đạo là người tạo nên phong cách lãnh đạo, ứng xử trong tổ chức.
- Phong cách lãnh đạo đó là lề lối, kiểu cách, phương pháp và cách ứng
xử bền vững của các nhà quản trị trong khi làm việc. Phong cách lãnh đạo
13


được chia làm 3 phong cách:
- Phong cách độc đoán.
Là phong cách trong đó người lãnh đạo sẽ trực tiếp ra các quyết định mà
không cần tham khảo ý kiến của người dưới quyền.
+ Đặc điểm: Cấp dưới chỉ được cấp trên cung cấp thông tin để thực hiện
nhiệm vụ, các chỉ thị, mệnh lệnh được đề ra trên cơ sở kiến thức, kinh nghiệm
của người lãnh đạo, thông tin một chiều từ trên xuống là chủ yếu, rất ít ở dưới
lên.

+ Ưu điểm: Giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng kịp thời.
+ Nhược điểm: Chủ quan, không phát huy được sáng tạo, kinh nghiệm
của cấp dưới.
- Phong cách dân chủ.
Là phong cách trong đó người lãnh đạo ra các quyết định trên cơ sở bàn
bạc trao đổi và tham khảo ý kiến của cấp dưới.
+ Đặc điểm: Thu hút người lao động tham gia vào công tác quản trị;
người lãnh đạo chỉ giải quyết các vấn đề quan trọng, còn lại giao cho cấp dưới;
thông tin 2 chiều: từ trên xuống và từ dưới lên. Các thành viên có quan hệ chặt
chẽ với nhau.
+ Ưu điểm: Khai thác được những sáng kiến, kinh nghiệm của những
người dưới quyền, từ đó tạo ra thỏa mãn cho họ vì được thực hiện công việc do
chính mình đề ra.
+ Nhược điểm: Tốn kém thời gian, tiền bạc.
- Phong cách tự do.
Là phong cách trong đó người lãnh đạo cho phép người dưới quyền ra các
quyết định riêng của mình và họ ít tham gia vào việc ra quyết định.
+ Đặc điểm: Người lãnh đạo rất ít tham gia vào hoạt động của tập thể,
thường chỉ nêu ý tưởng rồi giao hết quyền hạn và trách nhiệm cho cấp dưới; cấp
dưới được tự do ra quyết định, được hành động theo cách mà họ cho là tốt nhất;
thông tin theo chiều ngang là chủ yếu giữa các thành viên với nhau, từ lãnh đạo
14


xuống rất ít.
+ Ưu điểm: Phát huy tối đa năng lực sáng tạo của người dưới quyền.
+ Nhược điểm: Dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn vô chính phủ trong tổ
chức.
Ví như: William Henry Gates III thường được biết dưới tên Bill Gates, là
một doanh nhân người Mỹ, người đi tiên phong trong lĩnh vực phần mềm máy vi

tính. Cùng Paul Allen, ông đã sáng lập nên tập đoàn Microsoft, một công ty
phần mềm được coi là lớn nhất thế giới. Trong suốt sự nghiệp tại Microsoft, Bill
Gates giữ chức chủ tịch đồng thời đóng vai trò kiến trúc sư trưởng phần mềm
của hãng. Trong suốt hơn 30 năm qua, Tập đoàn Microsoft đã tăng trưởng không
ngừng với một tốc độ đáng kinh ngạc, nuôi sống cả trăm ngàn nhân viên hoạt
động trên khắp thế giới, luôn nhận được sự chú ý cũng như sự ngưỡng mộ của
công chúng. Nhiều thanh niên Mỹ tìm cách bắt chước con đường Bill Gates đã
đi, kể cả việc bỏ học giữa chừng! Thế nhưng, một câu hỏi quan trọng được đặt
ra “Thành công mà Bill Gates đạt được là do đâu?”. Không có gì là ngẫu nhiên
cả, từ vai trò một kĩ sư phần mềm cho tới cương vị chủ tịch tập đoàn Microsoft
ông đều đã làm rất tốt. Năng lực chuyên môn của Bill Gates là thứ mà không
một ai có thể phủ nhận, sản phẩm của hãng luôn gắn liền với tên tuổi của ông,
Bill là người giàu nhất và có lẽ, quyền lực nhất trong làng công nghệ. Đối với
bất cứ một doanh nhân thành đạt nào, điều mà người ta luôn tìm kiếm và học hỏi
ở họ chính là cách thức làm việc và phong cách lãnh đạo, đó cũng chính là
những người bạn đồng hành trên đường tới thành công cuả họ.Bill Gates là một
nhà lãnh đạo điển hình của sự pha trộn nhiều phong cách: độc đoán chuyên
quyền, dân chủ và tự do. Trong từng trường hợp, từng tình huống mà Bill Gates
thể hiện các loại phong cách lãnh đạo khác nhau.Nó vừatạo ra được sự uy quyền
quyết đoán nhất định của 1 nhà quản trị tài ba có nguyên tắc, vừa tham khảo ý
kiến của các thành viên khác, phát huy được khả năng và tính sáng tạo của
họ.Tuy phong cách độc đoán chuyên quyền được ông thể hiện nhiều hơn cả
nhưng phong cách tự do cũng được ông thể hiện khá độc đáo.Điều này được thể
15


hiện thông qua cáccách quản lý của ông trong công ty. Ở Microsoft, sáng thứ
bẩy hàng tuần, Bill thường dành ít nhất một tiếng mời các vị phó chủ tịch đến,
nghe trình bày và “thọc” vào các chi tiết của từng dự án. Bill đặc biệt rất quan
tâm về các hiệu suất công việc. Bill giữ được kiểm soát tới từng bộ phận thông

quacác phó chủ tịch công ty. Điều này chứng tỏ ông luôn lắng nghe ý kiến của
mọi người giúp cho công việc quản lý được dễdàng hơn. Bill Gates và các giám
đốc điều hành đều để xe ở bãi chung, ăn trong nhà ăn chung hoặc trong phòng
làm việc, tự làm những công việc đáng ra dành cho các thư ký như xem thư,soạn
thư, chuyển thư... Nhờ đó,họ huỷ bỏ được những "tầng nhân tạo" làm chậm lại
các việc giao dịch và ra quyết định. Từ những ngày đầu thành lập công ty, Bil
Gates và Paul Alen đã đưa tác phong làm việc của chính mình thành “chuẩn
mực” của Microsoft. Họ muốn làm cho các nhân viên của mình thật là thoải mái,
hiệu suất và sung sướng nhất có thể trong công việc. Bill Gates và Microsoft có
một cách đơn giản để tối đa hóa năng suất của nhân viên, đó là cho phép văn
phòng làm việc của mỗi cá nhân được sắp xếp theo ý riêng của họ. Điều đó có
nghĩa là văn phòng làm việc tạo cho họ cảm giác như đang ở nhà, họ có thể
đóng cửa lại, bật nhạc lên, điều chỉnh ánh sáng và làm việc. Không có luật quy
định về ăn mặc tại Microsoft. Thay cho các bộ complê và carvat mà ta thấy ở
các công ty khác, ở Microsoft, trong mùa hè, ra lại thấy các kiểu áo cộc, áo
phông và mọi thứ khác.Cách thức ứng xứ này của Gateslàm tinh thần người
nhân viên luôn phấn chấn, giúp họ đạt được năng suất cao. Ở Microsoft không
có việc quy định giờ làm việc với các nhà lập trình và điều hành. Các nhân viên
có thể chọn giờ làm việc của mình nhưng phải có những khoảngthời gian xác
định hàng ngày. Mọi người có thể bắt đầu vào những thời gian khác nhau và làm
việc theo những giờ khác nhau mỗi ngày. Điều này thể hiện rất rõ phong cách
quản lý theo kiểu tự do của Bill Gate. Ông luôn biết cách tạo cho nhân viên sự
thoái cần thiết để họ phát huy được khả năng và sức sáng tạo đóng góp chung
vào thành công cho công ty.
Với tư cách một doanh nhân, không phải lúc nào Bill Gates cũng được ca
16


tụng. Tại Microsoft, người ta cũng kể lại nhiều câu chuyện về tính cách thực
dụng và khắt khe của ông. Theo tờ The Economist của Mỹ “nhiều nhân viên

thấy sợ chính tư duy thiên tài của Gates, bởi ông đòi hỏi nhân viên rất cao và
thiếu kiên nhẫn với thuộc cấp đến mức khắc nghiệt, với những người không đáp
ứng tư duy của một thiên tài như ông, Gates sẵn sàng coi họ là kẻ đần độn" .
Trong suốt 33 năm, hình ảnh Bill Gates gắn liền với Microsoft, đến mức người
ta mặc định Bill Gates là Microsoft và Microsoft là Bill Gates. Ông là gương
mặt của Microsoft, là chiến lược gia, và cũng được coi là người dẫn đầu ngành
công nghệ của thế giới. Cho dù với phong cách lãnh đạo nào đi nữa, buổi chia
tay với Microsoft trong nước mắt của cả ông và tập thể nhân viên và cộng sự
vào ngày 27/06/2008 là minh chứng lớn nhất cho sự thành công không chỉ đối
với lĩnh vực công nghệ mà thể hiện khả năng thu phục lòng người của Gates.
1.4: Chức năng kiểm tra
- Kiểm tra là một tiến trình đo lường kết quả thực hiện so sánh với những
điều đã được hoạch định, đồng thời sữa chữa và chấn chỉnh những sai lầm để
đảm bảo công việc đạt được mục tiêu như kế hoạch hoặc các quyết định đặt ra
để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Khi triển khai một kế hoạch, cần phải kiểm tra để dự đoán những tiến bộ
để phát hiện sự chệch hướng khỏi kế hoạch và đề ra biện pháp khắc phục. Trong
nhiều trường hợp, kiểm tra vừa tạo điều kiện đề ra mục tiêu mới hình thành kế
hoạch mới, cải thiện cơ cấu tổ chức nhân sự và thay đổi kỹ thuật điều khiển.
Những công cụ kiểm tra trong quản trị là những lỷ lệ, tiêu chuẩn, con số
thống kê và các sự kiện cơ bản khác, có thể được biểu diễn bằng các loại hình đồ
thị, biểu bảng nhằm làm nổi bật những dự kiện mà các nhà quản trị quan tâm.
- Tóm lại kiểm tra là quá trình so sánh kết quả thực tế với kế hoạch
đề ra, đồng thời phát hiện những sai lệch nếu có để kịp thời điều chỉnh các
hoạt động của tổ chức đi đúng mục tiêu.
- Đặc điểm của chức năng kiểm tra:
+ Kiểm tra được thiết kê theo kế hoạch
17



+Hệ thống kiểm tra phải phù hợp với tổ chức và con người trong tổ chức.
+Kiểm tra phải khách quan.
+Kiểm tra phải linh hoạt.
+Kiểm tra phải hiệu quả.
+Kiểm tra phải có tác động điều chỉnh.
- Vai trò của chức năng kiểm tra:
+Phát hiện sai lệch.
+Hệ thống, thống kê báo cáo.
+Dự báo xu hướng biến động.
+Thực hiện các chức năng quản trị.
+Hoàn thiện và đổi mới.
- Kiểm tra được phân ra thành 4 loại:
+ Theo quá trình hoạt động
+ Theo mức độ của nội dung kiểm tra
+ Theo tần suất của các cuộc kiểm tra
+ Theo mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng kiểm tra
- Các quy trình kiểm tra:
Bước 1: Thiết lập các tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn là cơ sở để đo lường kết quả có thể được diễn tả bằng đơn vị
số lượng vật chất như số giờ công, số lượng phế phẩm, hoặc đơn vị tiền tệ như
chi phí, doanh thu hoặc bằng bất cứ khái niệm nào dùng để đo lường thành quả
kể cả những khái niệm tâm lý như sự vui lòng của khách hàng
Bước 2: Đo lường thành quả
Có thể và nên hình dung ra các thành quả trước khi nó được thực hiện, để
so sánh với tiêu chuẩn và từ đó có biện pháp sửa chữa kịp thời.
Nếu các tiêu chuẩn được vạch ra một cách thích hợp và nếu có các
phương tiện để xác định một cách chính xác rằng cấp dưới đang làm gì, các nhà
quản trị có thể đánh giá thành quả thực tế của những nhân viên dưới quyền của
họ. Tuy nhiên, sự đánh giá đó không phải bao giờ cũng thực hiện được. Có
18



nhiều họat động khó có thể nêu ra các tiêu chuẩn chính xác, và có nhiều họat
động kho cho sự đo lường. Ví dụ như thành quả của phó giám đốc tài chính, hay
cán bộ phụ trách công đoàn.
Bước 3: Sửa chữa sai lầm.
Có thể sửa chữa, điều chỉnh sai lệch bằng cách tổ chức lại bộ máy trong xí
nghiệp, phân công lại các bộ phận, đào tạo lại nhân viên, tuyển thêm nhân viên,
thay đổi phong cách lãnh đạo của chính họ, hoặc thậm chí có thể phải điều chỉnh
mục tiêu …
2. Kỹ năng của nhà quản trị
2.1: Kỹ năng kỹ thuật
Là những khả năng cần thiết để thực hiện một công việc chuyên môn cụ
thể, nói cách khác là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản trị. Kỹ năng
kỹ thuật bao hàm sự hiểu biết và sự thành thạo về một loại hình hoạt động đặc
biệt, nhất là loại hình hoạt động có liên quan đến các phương pháp, các chu
trình, các thủ tục hay các kỹ thuật. Nhà quản trị có được những chuyên môn đó
qua đào tạo ở các trường hay qua bồi dưỡng ở đơn vị. Đây là kỹ năng rất cần
cho quản trị viên cấp cơ sở hơn là cho cấp quản trị viên trung gian hoặc cao cấp.
Ví dụ: Những kỹ năng kỹ thuật của nhạc sĩ, nhân viên kế toán hay kỹ
sư… Kỹ năngkỹ thuật đòi hỏi kiến thức chuyên môn, khả năng phân tích trong
chuyên môn đó và sự thành thạo, dễ dàng trong việc sử dụng các công cụ và kỹ
thuật của chuyên ngành đặc biệt đó.
Kỹ năng kỹ thuật có lẽ là cái quen thuộc nhất bởi vì nó cụ thể nhất, số
người đòi hỏi là đông nhất. Hầu hết các chương trình hướng nghiệp và đào tạo
vừa học vừa làm chủ yếu quan tâm đến việc phát triển kỹ năng kỹ thuật chuyên
môn này.
1.2

Kỹ năng nhân sự


Là những kiến thức liên quan đến khả năng cùng làm việc, động viên và
điều khiển nhân sự. Kỹ năng nhân sự là tài năng đặc biệt của nhà quản trị trong
việc quan hệ với những người khác nhằm tạo sự thuận lợi và thúc đẩy sự hoàn
19


thành công việc chung. Một vài kỹ năng nhân sự cần thiết cho bất cứ quản trị
viên nào là biết cách thông đạt hữu hiệu, có thái độ quan tâm tích cực đến người
khác, xây dựng không khí hợp tác trong lao động, biết cách tác động và hướng
dẫn nhân sự trong tổ chức để hoàn thành các công việc.
Kỹ năng nhân sự đối với mọi cấp quản trị viên đều cần thiết như nhau
trong bất kỳ tổ chức nào, dù là phạm vi kinh doanh hoặc phi kinh doanh. Kỹ
năng nhân sự thể hiện qua:
- Nhận thức được những thái độ, giả thiết và niềm tin của chính mình đối
với các cá nhân khác hay đối với các nhóm; họ có khả năng thấy được tính hữu
ích và những hạn chế của các cảm giác này. Bằng cách chấp nhận sự tồn tại của
những quan điểm, những nhận thức và những niềm tin khác với những quan
điểm, nhận thức và niềm tin của chính mình, họ có kỹ năng hiểu được cái mà
những người khác thực sự muốn nói qua từ ngữ và hành vi của họ.
- Thông qua hành vi của mình, truyền đạt cho những người khác điều mà
họ muốn nói đến, trong những ngữ cảnh của những người kia một cách thành
thạo. Người như vậy thường cố gắng tạo ra một bầu không khí tán thành và đảm
bảo, trong đó những người dưới quyền cảm thấy tự do trong việc tự biểu lộ bản
thân mà không sợ bị khiển trách hoặc chế nhạo, bằng cách khuyến khích họ
tham gia vào việc lập kế hoạch và tiến hành những công việc có ảnh hưởng trực
tiếp đến họ.
- Họ có đủ nhạy cảm đối với những nhu cầu và động cơ của những người
khác trong tổ chức đến mức họ có thể đánh giá những phản ứng và những hậu
quả của những cách hành động khác nhau mà họ có thể làm. Với sự nhạy cảm

như vậy, họ có khả năng và mong muốn hành động theo cách nào có tính đến
được những nhận thức đó của những người khác.
Kỹ năng thực tế trong công tác với những người khác phải trở thành một
hoạt động tự nhiên, liên tục, vì rằng nó đòi hỏi tính nhạy cảm không chỉ ở thời
điểm ra quyết định mà còn cả trong hành vi ứng xử hàng ngày của cá nhân. Kỹ
năng

con

người

không

thể



“một
20

thứ

đôi

khi

thỉnh

thoảng”



Vì vậy, để hoạt động có hiệu quả, kỹ năng này phải được phát triển một cách tự
nhiêncũng như phải phù hợp, phô diễn trong những hành vi cá nhân đó. Nó phải
trở thành một bộ phận cấu thành của toàn bộ bản chất một nhà quản trị.
Ví dụ: Hãng Honda có chính sách luân phiên huấn luyện nhân viên.
Thông thường, những nhà quản trị đều có xu hướng muốn giữ những nhân viên
giỏi nhất của mình không cho luân chuyển sang bộ phận khác, nhưng về lâu dài,
chính sách luân chuyển nhân viên giỏi sẽ rất có lợi cho toàn thể công ty.
2.3 Kỹ năng tư duy:
Là cái khó hình thành và khó nhất, nhưng nó lại có vai trò đặc biệt quan
trọng, nhất là đối với các nhà quản trị cao cấp. Họ cần có tư duy chiến lược tốt
để đề ra đúng đường lối chính sách đối phó có hiệu quả với những bất trắc, đe
dọa, kìm hãm sự phát triển đối với tổ chức. Nhà quản trị cần phải có phương
pháp tổng hợp tư duy hệ thống, biết phân tích mối liên hệ giữa các bộ phận, các
vấn đề…biết cách làm giảm những sự phức tạp rắc rối xuống một mức độ có thể
chấp nhận được trong một tổ chức.
Kỹ năng tư duy bao gồm khả năng bao quát doanh nghiệp như một tổng
thể. Khả năng này bao gồm việc thừa nhận các tổ chức khác nhau của tổ chức
phụ thuộc lẫn nhau như thế nào, và những thay đổi trong một bộ phận bất kỳ ảnh
hưởng đến tất cả những bộ phận khác như thế nào. Khả năng này cũng mở rộng
đến việc hình dung được mối quan hệ giữa một cá thể doanh nghiệp với tất cả
ngành công nghiệp, với cả cộng đồng, và các lực lượng chính trị, xã hội và kinh
tế trên cả nước với tư cách là một tổng thể. Thừa nhận những mối quan hệ này
và nhận thức được những yếu tố nổi bật trong bất kỳ tình huống nào, người quản
trị khi đó sẽ có thể hành động theo cách nào nâng cao được phúc lợi tổng thể của
toàn bộ tổ chức.
Vì thế sự thành công của bất cứ quyết định nào đều phụ thuộc vào kỹ
năng tư duy của những người đưa ra quyết định và những người chuyển quyết
định thành hành động.
Ví dụ: Khi thực hiện một thay đổi quan trọng trong chính sách tiếp thị thì

21


điều tối quan trọng là phải tính đến những tác động đối với sản xuất, việc kiểm
tra, tài chính, công tác nghiên cứu và những con người có liên quan. Và công
việc này giữ nguyên tầm quan trọng của nó cho đến tận cấp cán bộ điều hành
cuối cùng, người phải thi hành chính sách mới. Nếu như mỗi nhà quản trị đều
thừa nhận những quan hệ tổng thể và tầm quan trọng của sự thay đổi thì họ gần
như chắc chắn sẽ là người điều hành sự thay đổi đó có hiệu quả hơn. Và do vậy,
cơ hội thành công sẽ tăng lên rất nhiều.
Không chỉ có việc phối hợp một cách hiệu quả các bộ phận khác nhau của
doanh nghiệp mới phụ thuộc vào kỹ năng tư duy của các nhà quản trị mà toàn bộ
đường hướng và sắc thái tương lai của tổ chức cũng tùy thuộc vào đó. Thái độ
của người điều hành cao với doanh nghiệp khác. Những thái độ này là phản ảnh
của kỹ năng tư duy của nhà quản trị phản ứng lại trước định hướng mà doanh
nghiệp cần đi theo, trước các mục tiêuvà chính sách của công ty, và những lợi
ích của các cổ đông và các nhân viên trong công ty.
Vì thành công trên tổng thể của công ty phụ thuộc vào kỹ năng nhận thức
của người điều hành trong việc hình thành và thực hiện các quyết định chính
sách, nên kỹ năng này là một thành phần không thể tách rời, thành phần làm
chức năng phối hợp của quá trình điều hành và có tầm quan trọng không thể
chối cãi trên tổng thể.
Các nhà quản trị cần có 3 kỹ năng trên nhưng tầm quan trọng của chúng
tùy thuộc vào các cấp quản trị khác nhau trong tổ chức .Chúng ta có thể thấy
những cấp quản trị càng cao thì càng cần những kỹ năng tư duy. Ngược lại ở
những cấp quản trị càng thấp, thì càng cần nhiều kỹ năng về chuyên môn kỹ
thuật. Kỹ năng về nhân sự thì ở đâu, ở cấp nào cũng cần và cũng đều là quan
trọng. Mặc dù vậy, trên thực tế thường đòi hỏi cụ thể về mức độ kỹ năng nhân
sự có thể có sự khác nhau tùy theo loại cán bộ quản trị, nhưng xét theo quan
điểm của nhiều nhà kinh tế thì nó lại đóng vai trò quan trọng nhất, góp phần làm

cho các nhà quản trị thực hiện thành công các loại kỹ năng khác của mình và
góp phần vào việc đạt được thành công về mục tiêu chung của cả tổ chức.
22


CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN TRONG QUẢN TRỊ HIỆN NAY
Thực tế hiện nay, các nhà quản trị còn thiểu rất nhiều năng lực, kỹ năng,
trình độ chuyên môn. Những yếu kém trong kỹ năng của các nhà quản trị chưa
được khắc phục, bên cạnh đó nhà quản trị cũng chưa nắm vững được các chức
năng, vai trò của mình. Chính vì thế mà xảy ra những tổn thất lớn cho công ty,
hay cho một tổ chức doạnh nghiệp, cùng với đó là cơ cấu tổ chức trong tổ chức
doanh nghiệp yếu kém, dẫn đến không ít các doanh nghiệp, tổ chức lâm vào
cảnh đóng cửa. Chúng ta hãy cùng nhìn một ví dụ điển hình hiện nay ở Việt
Nam:
Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam VINASIN
Gần 5 năm qua, nhất là từ năm 2008 đến nay, trong bối cảnh kinh tế thế
giới suy thoái, tác động nặng nề tới nền kinh tế nước ta, hầu hết các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần quan trọng
vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và bảo đảm phúc lợi - an
sinh xã hội của đất nước.
Riêng Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Tập đoàn Vinashin), do
cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, đã lâm vào tình trạng hết sức khó
khăn. Chính phủ đã chỉ đạo nhiều biện pháp để tháo gỡ.
Một trong những nguyên nhân khó khăn, yếu kém của Tập đoàn là những
yếu kém và sai phạm nghiêm trọng của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin là nguyên
nhân trực tiếp, chủ yếu, với những biểu hiện cụ thể như sau:
+ Năng lực quản trị doanh nghiệp và dự báo yếu kém, trình độ cán bộ
lãnh đạo quản lý chưa đáp ứng yêu cầu; xây dựng và thực hiện kế hoạch sản
xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp quá nhanh, quá nóng, không

phù hợp với nguồn vốn, năng lực quản lý và quy hoạch phát triển được cấp có
thẩm quyền phê duyệt; quản lý đầu tư, quản lý tài chính lỏng lẻo, kém hiệu quả,
nhiều quyết định trái quy định của pháp luật; tổ chức phát triển hệ thống doanh
23


nghiệp quá dàn trải và quản lý nhân sự cán bộ không chặt chẽ.
+ Báo cáo không đúng thực trạng về sử dụng vốn, về đầu tư, về phát triển
thêm doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh và tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh, mỗi lần báo cáo số liệu khác nhau. Năm 2009 và Quý I năm 2010 thua lỗ
nhưng vẫn báo cáo có lãi. Khuyết điểm này của lãnh đạo, trước hết của người
đứng đầu Tập đoàn làm cho cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chủ sở hữu cấp
trên nắm không đúng thực trạng nên chỉ đạo không kịp thời, đầy đủ.
+ Quyết định thực hiện nhiều dự án đầu tư ngoài quy hoạch, không đúng
quy định của pháp luật hiện hành; quyết định sử dụng vốn kém hiệu quả, có biểu
hiện sai trái; sử dụng một số vốn lớn để mua tàu vận tải biển của nước ngoài,
trong đó có những con tàu mua quá cũ; không nghiêm túc thực hiện những ý
kiến chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền.
Những yếu kém và sai phạm nghiêm trọng, nhất là về đầu tư, về sử dụng
vốn của lãnh đạo Tập đoàn cộng với những yếu tố khách quan tác động nặng nề,
đã làm cho Tập đoàn thua lỗ, không vay được vốn, mất khả năng chi trả, không
còn vốn để hoạt động. Từ năm 2008, nhiều dự án đầu tư phải dừng lại, một số
đơn vị ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh, một bộ phận không nhỏ người lao
động bỏ việc, mất việc.
Từ đó ta có thể thấy các nhà quản trị đã làm sai chức năng của mình, từ
chức năng hoạch định đến chức năng kiểm tra, bên cạnh đó họ còn thiếu rất
nhiều những kỹ năng. Điển hình là kỹ năng tư duy.
Vai trò của một nhà quản trị đối với một nền kinh tế, một đất nước là rất
to lớn họ như những người lái tàu đưa chiếc thuyền vượt qua phong ba bão tác
để cập bến. Do đó họ phải hạn chế tối đa những sai lầm trong quá trình quản trị

bằng cách thực hiện đúng, đủ vai trò và chức năng đồng thời các nhà quản trị
phải trau dồi thêm những kỹ năng với việc tham gia các khóa học về quản lý,
quản trị, nghệ thuật lãnh đạo, kỹ năng mềm.
Song song với đó nhà quản trị cần xây dựng một đội ngũ nhân viên giỏi,
bởi một nhà quản trị không thể làm nên thành công nếu thiếu các nhân viên.
24


×