Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH CHÈ THEO HƯỚNG AN TOÀN TĂNG SỨC CẠNH TRANH TRONG THỜI K Ỳ HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.02 KB, 24 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn hai mươi năm đổi mới ngành công nghiệp của nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Điều đó thể hiện ở tỷ trọng các ngành công nghiệp trong
GDP của nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng , đời sống nhân dân ngày càng được
nâng cao . Mục tiêu đặt ra của chúng ta là đến năm 2020 nước ta trở thành một
nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Trên cơ sở mục tiêu chung ấy và
phân tích bối cảnh , điều kiện phát triển công nghiệp, những điểm mạnh, điểm yếu
cơ hội và thách thức với triển công nghiệp Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ
chiến lược phát triển công nghiệp như sau : “Phát triển nhanh các ngành công
nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và
đẩy mạnh xuất khẩu, như chế biến nông, lâm, thủy sản , may mặc giầy da điên tử
-tin học,một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng … ”.Cây chè là một trong
những loại cây phù hợp với điều kiện tự nhiên của nước ta. Các sản phẩm từ chè
cũng có giá trị cao. Chủ chương phát triển ngành chè là một trong những chiến lược
nhằm phát huy lợi thế của chúng ta . Tuy nhiên ngành chè hiện nay đã xuất khẩu
sang khá nhiều nước trên thế giới nhưng thương hiệu chè Việt vẫn còn ít người biết
đến do lượng xuất khẩu chưa nhiều đặc biệt là chất lượng sản phẩm chưa cao...Tôi
nghiên cứu đề tài : “Xây dựng ngành chè theo hướng an toàn tăng sức cạnh tranh
trên thị trường”nhằm hiểu sâu hơn về ngành chè một ngành công nghiệp chế biến
đang phát triển ở nước ta và đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển một thương
hiệu chè Việt an toàn đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn nhằm tăng kim ngạch xuất
khẩu . Để thực hiện thành công nghiên cứu đề tài này đã có một phần rất lớn sự
hướng dẫn của T.S Trương Đức Lực và rất nhiều bài báo ,tài liệu viết về ngành
chè . Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Trương Đức Lực đã giúp tôi thực hiện thành
công đề án này . Mặc dù đã rất cố gắng nhưng tôi cũng không thể tránh được những
thiếu sót,tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để cho đề tài
của tôi ngày càng một hoàn thiện .
Lê thị Hồng Hạnh -1 - Lớp Công nghiêp 47B

I . NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NGÀNH CHÈ .


1.1Tiềm năng của cây chè .
Hiếm có nơi nào trên thế giới lại được thiên nhiên ưu đãi , đất đai phù hợp
cho sự phát triển của cây chè như ở Việt Nam . Hầu như khắp nơi trên đất nước
Viêt Nam đều trồng được chè đặc biệt là ở các vùng trung du miền núi phía Bắc .
Chúng ta có thể đi cách Hà nội 20-40 km về phía Bắc là gặp những đồi chè lớn như
ở Thái Nguyên , Phú Thọ xa hơn nữa là Hà giang , Lào Cai , với những giống chè
nổi tiếng không những trong nước mà còn được bạn bè trên thế giới biết đến như
chè Shan tuyết , chè lài ,chè Ô long …
Về phân bố địa lý hành chính ,36/64 tỉnh thành trong cả nước có chè, từ Trung
du miền núi phía Bắc, Đồng Bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ đến duyên hải miền Trung
4 tỉnh Tây nguyên và ba đô thị lớn nhất là Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí
Minh . Có những nơi như Đài Loan , phải cậy từng phiến đá , mua hoặc vận chuyển
đất từ nơi khác đến. Nhưng ở nước ta chất lượng đất khá màu mỡ, đặc biệt là loại
đất Bazan tập trung ở các vùng núi là một trong những điều kiện quan trọng và cần
thiết nhất để phát triển cây chè. Khí hậu cũng là một thuận lợi ở nước ta với những
trận mưa phùn nhỏ tạo điều kiện cho cây chè ra búp nhiều.
Việt Nam có đủ các loại chè nguyên sản, núi cao trên mực nước biển >1000m
có hương thơm tự nhiên, những cây chè cổ thụ hầu như còn nguyên vẹn tại một số
vùng miền núi phía Bắc . Có những giống chè địa phương trồng ngay trong vườn
riêng của gia đình và có cách pha chế hết sức đặc biệt .
Ngoài ra Việt Nam cũng lai tạo và nhập thêm một số giống chè có chất lượng
cao từ Ấn Độ, Trung Quốc ,Silanca, Đài Loan , Nhật Bản , Inđonêsia ,với quĩ gene
hơn 100 bộ giống.
Với tiềm năng sẵn có như vậy việc phát triển ngành chè ở nước ta có nhiều thuận lợi.
1.2 Phát triển ngành chè theo hướng an toàn để nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới
1.2.1 Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng chè của Việt Nam
Lê thị Hồng Hạnh -2 - Lớp Công nghiêp 47B

Đại hội Đại biểu lần thứ VIII đã đề ra phương hướng : “Phát triển mạnh các loại

cây công nghiệp có hiệu quả kinh tế cao ; hình thành những vùng sản xuất tập
trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp với
chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp ,coi
trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất ; áp dụng công nghệ sinh học …
Chính vì vậy , với ưu thế khí hậu, nguồn tài nguyên đất đai, lao động và sự ưa
chuộng của thị trưòng thế giới , sản xuất chè đã trở thành tập quán canh tác của
nông dân Việt Nam, và ngày càng khẳng định trong nền kinh tế quốc dân đặc biệt
là trong xuất khẩu .
Mặc dù có nhiều ưu thế và đạt được những thành quả cao, nhưng thực tiễn hoạt
động sản xuất và xuất khẩu chè của nước ta nhiều năm qua cho thấy quy mô chưa
lớn , vẫn mang tính chất của nền sản xuất nhỏ , thị trường xuất khẩu chưa vững
chắc . Do vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng này là hoàn toàn mang
tính cấp thiết với nhiều lý do về chính trị xã hội ,văn hoá kinh tế, mở rộng hợp tác
quốc tế
Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển sản xuất và xuất khẩu chè góp phần cải
biến cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất theo hướng CNH-HĐH :
Thứ hai, khi năng lực cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu nâng cao lên sẽ làm
hiệu quả kinh tế ngày càng cao, kim ngạch xuất khẩu ngày càng lớn ,góp phần tăng
ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán quốc, đảm bảo cho nguồn thu ngoại tệ, ổn
định nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Thứ ba ,nâng cao năng lực cạnh tranh còn là một vấn đề cần thiết nhằm cải biến
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH
Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển sản xuất và xuất khẩu chè chính là một
cơ sở quan trọng để mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài ,
đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Lê thị Hồng Hạnh -3 - Lớp Công nghiêp 47B

1.2.2 Việt Nam phát triển chè theo hướng an toàn để cạnh tranh trên thị trường
thế giới.
Hiện cả nước có khoảng 122.500 ha chè tăng 47.700 ha so với năm 1999 (63%)

trong đó diện tích chè cho sản phẩm là 101.700 ha (68.9%), giai đoạn 1996-2006
tốc độ tăng diện tích bình quân 6,2%một năm . Chè Việt Nam đang đứng thứ năm
thế giới về diện tích và trở thành cây công ngiệp mũi nhọn ,giải quyết việc làm cho
400.000 lao động, mỗi năm xuất khẩu 100 triệu USD.Diện tích chè trên cả nước từ
năm 1995-2007 liên tục tăng nhanh theo thống kê trên bảng sau ta thấy rõ điều đó :
Trồng chè đã trở thành nghề truyền thống của nhiều địa phương .Tuy nhiên giá
chè xuất khẩu trong những năm gần đây giảm . Nếu như năm 1999, xuất giá bình
quân 1.333 USD /1tấn đến năm 2003 còn 1.000USD /1tấn, năm 2004 còn
968,5USD/tấn và năm 2006 dù nhích lên 1.057USD /tấn nhưng vẫn thua so với 7
năm trước. Ngoài những nguyên nhân do ảnh hưởng của giá chè quốc tế giảm , giá
chè xuất khẩu của Việt Nam giảm còn do chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu
của thị trường chè cao cấp về chất lượng sản phẩm.
. Mới đây Hiệp hội chè đã đưa ra cảnh báo khả năng mất thị trường Châu âu sau
khi Anh và một số nước châu Âu đưa ra thông báo về dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật trong các sản phẩm chè xuất khẩu vượt ngưỡng cho phép nhiều lần .Khi có sự
Lê thị Hồng Hạnh -4 - Lớp Công nghiêp 47B

mất cân đối giữa sự phát triển ồ ạt của các cơ sở chế biến chè dẫn đến sự khai thác
cạn kiệt các vùng nguyên liệu . Tình trạng sẽ cũng đe doạ đến mục tiêu tăng kim
ngạch xuất khẩu của ngành chè.
Chỉ tính riêng các doanh nghiệp chế biến chè hiện nay có 650 cơ sở công
nghiệp với tổng công suất trên 3.100tấn búp tươi một ngày .Với sản lượng 546.000
tấn chè búp tươi năm 2005 chỉ đáp ứng được 88% nhu cầu nguyên liệu chè búp của
các cơ sở chế biến này .
Ngoài ra còn có hàng trăm cơ sở chế biến chè thủ công bán công nghiệp cùng
tham gia thu mua nguyên liệu để sơ chế và nhiều cơ sở đấu trộm ướp hương đóng
gói chè .Do thiếu nguyên liệu nên nhiều cơ sở không quan tâm đến chất lượng đầu
vào, đặc biệt kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè, giá cả thu mua
không hơp lý nên không khuyến khích được người sản xuất coi trọng chất lượng
nguyên liệu, chăm sóc vườn chè đúng quy cách, dẫn đến năng suất chè bình quân

cả nước chỉ đạt 5.7 tấn /ha (mà nếu chăm sóc tốt nhiều vườn chè cho năng suất 20-
25tấn/ ha ).
Bên cạnh đó , trang thiết bị công nghệ chế biến lạc hậu nên hầu hết chè Việt
Nam được xuất khẩu ở dạng chè nguyên liệu ,chè thành phẩm mới chỉ chiếm 7%
tổng kim ngạch xuất khẩu, chè nguyên liệu chiếm xấp xỉ 80%.
Khi nguyên liệu thiếu như vậy thì giá chè tăng lên như vậy nhân dân được lợi
nhưng về lâu dài thì chất lượng chè kém đi. Khi hái chè thông thường người chồng
chè chỉ ngắt một búp, hai lá, nhưng giá tăng cao họ dùng liềm cắt cành dài khiến
cho cây chè bị tổn thương , khó có thể khôi phục vườn chè nhanh được .
Chất lượng chè kém đi thì xuất khẩu sẽ giam sút . Với cơ cấu trên 2/3 sản lượng chè
được sản xuất dành cho xuất khẩu, trong khi chỉ có non 1/3 tiêu dùng trong nước.
Chính vì thế, khi kim ngạch xuất khẩu giảm tất yếu sẽ dẫn đến chuyện đình đốn .
Theo số liệu thống kê sơ bộ, 4 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu chè ước tính chỉ đạt
27 nghìn tấn với trị giá 26 triệu USD, tăng 8% về lượng và 4% về trị giá so với
cùng kỳ năm ngoái .
Lê thị Hồng Hạnh -5 - Lớp Công nghiêp 47B

Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự nhận định về triển vọng xuất
khẩu của Việt Nam, năm 2006 , tăng trưởng xuất khẩu đạt 22% và năm nay 2007
dự kiến sẽ đạt 25% . Nếu giữ vững đà tăng trưởng này, ,sau 3 năm nữa (2010), kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt 100 tỷ USD .Hiện nay với tư cách là thành
viên WTO đã và đang mang lại những ưu thế cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam . Điều quan trọng hơn 84 luật và hơn 30 pháp lệnh đã được thông qua trước
khi Việt Nam gia nhập WTO giúp môi trường kinh doanh ở nước ta thông thoáng
hơn đối với mọi doanh nghiệp .Tuy nhiên, hiện các nước nhập khẩu hàng Việt Nam
đều đang tích cực áp dụng những rào cản kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và
sức khoẻ cộng đồng . Vì vậy, đòi hỏi chất lượng hàng xuất khẩu ngày càng khắt
khe .Vào năm 2015 sắp tới tiêu chuẩn thực phẩm toàn cầu (ISO 2015) sẽ được ban
hành .Các nhà xuất khẩu Việt Nam phải lưu tâm điều này để tránh nguy cơ mất thị
trường xuất khẩu chỉ vì vài doanh nghiệp không chấp hành đúng luật .

Với phong trào Nâng cao chất lượng an toàn sản phẩm trong công nhân lao động
ngành chè đã có nhiều thành tích góp phần đưa xuất khẩu chè năm 2006 đạt mức
kỷ lục vượt 100.000 tấn đã đóng góp đưa tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2006 đạt
gần 111.6 triệu USD .
Trước mắt, ngành chè phải tiếp tục nâng cao chất lượng chè để tăng cường xuất
khẩu . Còn xuất khẩu thành phẩm đối với ngành chè dự đoán trong giai đoạn 5-10
năm tới vẫn là mục tiêu cao xa .
1.3 Quản lý sản xuất, chế biến và chứng nhận chè an toàn .
Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn vừa có quyết định số 43/2007/QĐ-
BNN ngày 16/5/2007 ban hành Quy định về,sản xuất,chế biến và chứng nhận chè
an toàn ; áp dụng đối với tổ chức và cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước
ngoài tham gia sản xuất, chế biến,chứng nhận điều kiện sản xuất và chứng nhận sản
phẩm chè an toàn ở Việt Nam .
Chè an toàn là sản phẩm chè được sản xuất bảo quản theo đúng quy trình kỹ
thuật, có tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng nitrat, chất điều hoà sinh
Lê thị Hồng Hạnh -6 - Lớp Công nghiêp 47B

trưởng và các vi sinh vật có hại dưới mức giới hạn cho phép . Quy định nêu rõ các
điều kiện về đất trồng, phân bón, nước tưới, kỹ thuật canh tác chè an toàn, phòng
trừ sâu bệnh, … Sản phẩm chè an toàn trước khi đưa vào lưu thông phải có giấy
chứng nhận sản phẩm chè an toàn , bao gói nhãn mác theo qui định tại Nghị định số
89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nghi nhãn mác hàng hoá và
Thông tư 09/2007/BKHCN ngày 6/4/2007 của Bộ khoa học và công nghệ .
Cơ sở sản xuất chè an toàn cần được tổ chức theo các hình thưc phù hợp với điều
kiện cụ thể như doanh nghiệp hợp tác xã , trang trại . Các cơ sở này phải đăng ký
và chấp hành nghiêm túc các quy định về điều kiện sản suất , chế biến chè an toàn ,
có hồ sơ hoạc sổ nghi tay ghi chép toàn bộ quá trình sản xuất , chế biến (theo mẫu
quy định ). Tô chức cá nhân sản xuất gửi kèm hồ sơ đơn đăng ký về Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn sở tại để cấp chứng nhận đủ điều kiện để sản suất
chè an toàn sau 30 ngày , kể từ ngày hồ sơ đăng ký hợp lệ và đảm bảo các điều

kiện. Giấy chứng nhận này có hiệu lực không quá 3 năm . Tổ chức có nhu cầu hoạt
động về chứng nhận sản phẩm chè an toàn gửi hồ sơ tới cục trồng trọt. Trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ , cục Trồng trọt tổ chức thẩm định nếu
đủ điều kiện trình Bộ quyết định công nhận . Cục Trồng trọt tổ chức kiểm tra các tổ
chức chứng nhận chè an toàn , định kỳ 2 năm một lần hoặc đột xuất khi có khiếu
nại . Chủ các lô sản phẩm chè có nhu cầu chứng nhận sản phẩm chè an toàn gửi hồ
sơ về Tổ chức chứng nhận sản phẩm chè an toàn và phải trả phí cho việc kiểm
nghiệm và chứng nhận sản phẩm chè an toàn . Mức phí do hai bên thoả thuận .
Quyết định còn ban hành các phụ lục về giới hạn cho phép của kim loại nặng có
trong đất , hàm lượng kim loại nặng trong đất , hoá chất bảo vệ thực vật trong đất ,
hàm lượng kim loại nặng cho phép trong chè , đơn đăng ký chứng nhận điều kiện
sản xuất chè an toàn v.v…

Lê thị Hồng Hạnh -7 - Lớp Công nghiêp 47B

II .THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM
2.1 Những thành tựu đạt được trong sản xuất kinh doanh của ngành chè của
nước ta .
2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng do doanh nghiệp chủ động tìm kiếm
thị trường .


Biểu đồ :Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu chè 8 tháng đầu năm của
Việt Nam
Năm 2006 ngành chè Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn để đạt được
những tiến bộ trong sản xuất kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu . Lần
đầu tiên kim ngạch xuất khẩu chè vượt mức 100 triệu USD .Bước vào năm 2007
năm đầu tiên chính thức hội nhập mức thuế nhập khẩu chè có thể lên đến 150%
theo quy định của WTO(mức trước đây là 100%) cộng với những chính sách hỗ trợ
của nhà nước đối với cây chè dần dần bị cắt giảm .Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu

chè trong quý I /2007 của cả nước vẫn tương đối khả quan với kim ngạch xuất khẩu
ước tính lên tới 21 triệu USD, sản lượng xấp xỉ 21 tấn, tăng 2% về trị giá và 4%về
sản lượng so với cùng kỳ năm 2006.
Tháng 1/2007 , cả nước xuất khẩu được 8,4 nghìn tấn chè các loại với kim ngạch
đạt trên 8 triệu USD , giảm 21,6 % về lượng và 24% về giá trị so với tháng 12/2006
Lê thị Hồng Hạnh -8 - Lớp Công nghiêp 47B

. Nhưng lại tăng 62,3%về lượng và 51% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006 . Trong
tháng 1/2007, lượng chè xuất khẩu của Việt Nam sang Inđônêxia và thị trường Mỹ
tăng 44,7% và 31,4% .
Dự kiến trong năm nay năm 2007 đạt giá trị xuất khẩu là 110 nghìn tấn , với kim
ngạch 140 triệu USD tăng 15% về lượng và 30% về giá trị so với năm 2006 . Sáu
tháng đầu năm 2007, sản lượng chè xuất khẩu của Việt Nam đạt 47.000 tấn , với
giá trị trên 45 triệu tăng gần 0.9% về giá giá trị so với cùng kỳ năm 2006. Tháng
7/2007, Việt Nam xuất được 12.000 tấn tăng 11.32% so với cùng kỳ năm 2006 ,
tuy vậy tổng giá trị vẫn thấp hơn 0.9%so với năm trước .Xuất khẩu chè tháng
8/2007 của Việt Nam đạt 11 nghìn tấn , giảm 1000 tấn so với tháng 7 năm 2007
.Nhưng do giá chè xuất khẩu tăng theo xu hướng chung trên thị trường thế giới nên
giá trị xuất khẩu tháng 8 đạt 13 triệu USD , tăng gần 1 triệu USD so với tháng 7 .
Với kết quả trên , đã đưa khối lượng chè xuất khẩu 8 tháng / 2007 lên mức 70
nghìn tấn , tăng 8,3 % so với cùng kỳ năm 2006 Giá trị chè xuất khẩu 8 tháng /2007
cũng tăng 7.5% lên mức 72 triệu USD .Tốc độ tăng về giá trị xuất khẩu thấp hơn
tốc độ tăng về khối lượng là do giá xuất khẩu về trung bình của chè 8 tháng/07 thấp
hơn 1% so với cùng kỳ năm 2006. Dự kiến, năm 2007, Việt Nam xuất khẩu 110
nghìn tấn chè, đạt 140 triệu USD, với đơn giá xuất trung bình 1.200 USD/tấn. Do
nhu cầu chè trên thế giới vẫn đang ở mức cao, mặc dù nguồn cung thế giới tương
đối nhiều nhưng theo các chuyên gia dự báo, giá chè xuất khẩu của Việt Nam sẽ
tăng trong thời gian tới. Năm 2007, sản lượng chè của Ấn Độ cao hơn năm 2006,
do đó sản lượng xuất khẩu sang các nước như Ai Cập, Pakistan, Irắc và Nga sẽ
tăng. Ấn Độ hy vọng đạt 6-10 triệu kg chè xuất khẩu sang Ai Cập so với 2.7 triệu

kg của năm 2006. Nhờ giao thông thuận lợi, giảm thuế và cước vận chuyển đã làm
tăng lượng chè xuất khẩu sang Pakistan đạt 20 triệu kg chè, cao hơn 5 triệu kg của
năm 2006. Xuẩt khẩu chè của Bănglađét có thể đạt 7 triệu kg trong năm 2007, cao
hơn 2 lần so với 3 triệu kg năm 2006 nhờ thời tiết thuận lợi. Chè Việt Nam đã được
xuất sang 107 thị trường trên thế giới, trong đó có 68 thị trường thuộc các quốc gia
Lê thị Hồng Hạnh -9 - Lớp Công nghiêp 47B

×