VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG KHẮC THẮNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM CỜ BẠC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
TÊN TÁC GIẢ
Đặng Khắc Thắng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM CỜ BẠC ..................... 7
1.1. Các tội phạm cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam ................................................ 7
1.2. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
tội phạm cờ bạc ............................................................................................................. 14
1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc. 21
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC TỘI PHẠM CỜ BẠC TẠI THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG ........................................................................................................................ 32
2.1. Thực trạng tổ chức và cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Hải
Phòng............................................................................................................................. 32
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ
bạc tại thành phố Hải Phòng ......................................................................................... 34
2.3. Nhận xét, đánh giá thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội
phạm cờ bạc tại Hải Phòng và nguyên nhân ................................................................. 53
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM CỜ
BẠC TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................................................... 60
3.1. Hoàn thiện pháp luật .............................................................................................. 60
3.2. Các giải pháp khác ................................................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 77
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:
Đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp VKSND thành phố Hải Phòng.
Bảng 2.2:
VKSND yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án về tội đánh bạc, tổ chức đánh
bạc hoặc gá bạc.
Bảng 2.3:
VKSND yêu cầu CQĐT thay đổi khởi tố vụ án, bị can từ tội đánh bạc
sang tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Bảng 2.4:
VKSND yêu cầu CQĐT khởi tố bổ sung về tội tổ chức đánh bạc hoặc
gá bạc.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. BLHS
:Bộ luật hình sự
2. BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
3. CQĐT
:Cơ quan điều tra
4. ĐTV
:Điều tra viên
5. KSV
:Kiểm sát viên
6. KSVTTPL
:Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
7. QCT
:Quyền công tố
8. THQCT
:Thực hành quyền công tố
9. VKSND
:Viện kiểm sát nhân dân
10. VKS
:Viện kiểm sát
11. VKSNDTC
:Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hải Phòng là thành phố cảng, thành phố công nghiệp nằm trong vùng duyên
hải Bắc Bộ, là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương đô thị loại 1 cấp
quốc gia, với dân số gần 2 triệu người, trong đó dân cư thành thị chiếm 46,1%; dân
cư nông thôn chiếm 53,9%. Hải Phòng có vị trí quan trọng cả về kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước
về cải cách tư pháp, ngành Kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hải Phòng nói riêng đã thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Nghị quyết của
Đảng về cải cách tư pháp, phấn đấu hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát
nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: Viện kiểm sát các cấp
thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật
trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố
vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội [12]. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có nội dung:
“Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo
hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố...”. Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị
tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49–NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã xác định rõ: “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức
năng như hiện nay là thực hành quyền công tố (...), tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra” [14]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận: Xây dựng hệ thống cơ quan
1
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con
người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải
cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm;
thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra… [15]. Những định hướng của
Đảng nêu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi bổ sung
năm 2014) đảm bảo đổi mới tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân phù hợp
và đồng bộ với cải cách tư pháp. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội,
người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật; đã góp phần
quan trọng bảo vệ Đảng, Nhà nước, góp phần làm tốt công tác đấu tranh, phòng
chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ thực tiễn công tác thực hành quyền
công tố các tội phạm về cờ bạc trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hải
Phòng, chúng tôi nhận thấy do nhận thức khác nhau hoặc chưa thống nhất trong
cách hiểu và áp dụng pháp luật nên đã dẫn đến việc áp dụng pháp luật hình sự giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng ở một chừng mực nào đó đã chưa phân biệt, tìm ra
ranh giới giữa tội “đánh bạc” và tội “tổ chức đánh bạc, gá bạc” để từ đó có các biện
pháp điều tra thu thập chứng cứ phù hợp, chứng minh làm rõ hành vi phạm tội và
người thực hiện hành vi phạm tội, áp dụng pháp luật chính xác, công minh. Trong
điều tra các tội về cờ bạc còn bộc lộ nhiều thiếu sót, tồn tại và cả vi phạm tố tụng
dẫn đến nhiều vụ án bị kéo dài thời hạn điều tra, đã khởi tố không đúng tội danh, bỏ
lọt tội phạm và người thực hiện hành vi tội phạm, việc trả hổ sơ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng chiếm tỉ lệ cao. Vì vậy, việc nghiên cứu để hiểu sâu sắc, làm rõ thực
trạng, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn thành phố
2
Hải Phòng trong thời gian tới là một yêu cầu có tính cấp bách cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
Vì những lý do như trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hải
Phòng” làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc từ
thực tiễn thành phố Hải Phòng là một đề tài mang tính chuyên sâu bao quát một giai
đoạn tố tụng về một nhóm tội danh. Dạng đề tài này đã có nhiều tác giả nghiên cứu
và các công trình khoa học liên quan đã được công bố, như: Luận án tiến sĩ Luật
học “Quyền công tố ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa (năm 2002); Luận
văn Thạc sĩ Luật học “Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố
Hồ Chí Minh” của tác giả Vũ Thị Xuân Nhị (năm 1998); Luận văn thạc sĩ của tác
giả Cao Thị Oanh-Đại học Luật Hà Nội: “Đấu tranh phòng chống tội cờ bạc trên
địa bàn thành phố Hà Nội”; Luận văn Thạc sĩ Luật học“Tội đánh bạc, tổ chức đánh
bạc trên địa bàn thành phố Hải Phòng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng
ngừa” của tác giả Phạm Duy Hiển (năm 2014); Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra tội giết người theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn Quốc Hân
( năm 2015). Bên cạnh đó còn có nhiều tác giả đã công bố những bài viết về thực
hành quyền công tố đối với các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trên các
Tạp chí Tòa án và Tạp chí Kiểm sát...
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu chuyên
biệt về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc từ thực
tiễn thành phố Hải Phòng. Trong khi thực tiễn đòi hỏi cần có nghiên cứu về công
tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội về cờ bạc để từ đó
đánh giá rõ thực trạng, tìm ra nguyên nhân, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra đối với các vụ
3
án về cờ bạc. Vì vậy đề tài luận văn của tôi không trùng lặp với bất kỳ một công
trình nào đã có trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp
luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về cờ bạc theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; đánh giá đúng thực trạng công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về cờ bạc từ thực tiễn thành phố
Hải Phòng, từ đó tìm ra nguyên nhân đưa ra giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về cờ
bạc trong thời gian tới của Viện kiểm sát hai cấp thành phố Hải Phòng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng từ năm 2012 đến năm 2016.
- Khảo sát thực tiễn việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối
với các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, hoạt động khởi tố, điều tra của Viện kiểm sát hai cấp thành phố Hải Phòng
từ đó khái quát được những ưu điểm và hạn chế, tồn tại, tìm ra nguyên nhân để đưa
ra giải pháp, đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tương nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật, thực trạng thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo
4
pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát hai cấp
thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ cho phép, luận văn nghiên cứu lý luận
và thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các
tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc ở thành phố Hải Phòng thể hiện trong
giới hạn về không gian, thời gian và giai đoạn tố tụng.
Giới hạn về không gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn công tác
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh
bạc hoặc gá bạc ở địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2012 đến năm 2016.
Giới hạn về giai đoạn tố tụng: Luận văn nghiên cứu công tác thực hành quyền
công tố đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong giai đoạn điều tra
(từ khi có tin báo, tố giác về tội phạm; khởi tố vụ án hình sự đến khi CQĐT kết luận
điều tra đề nghị VKS truy tố hoặc vụ án được đình chỉ).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của Luận văn là học thuyết Mác-Lênin với phép duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật nói chung và tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, dự
báo và điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần bổ sung lý luận về thực hiện
một loại chức năng của VKSND-đó là chức năng thực hành quyền công tố trong
5
giai đoạn điều tra mà cụ thể là điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Luận văn góp phần bổ sung lý thuyết cho các bộ môn pháp luật như: Luật tố
tụng hình sự, Luật hình sự, về thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự trong chương trình giảng dạy của các trường đào tạo cử nhân luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu phục vụ cho Viện kiểm sát hai cấp thành phố Hải Phòng
vận dụng trong nghiên cứu, áp dụng trong công tác thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, góp phần bảo
vệ trật tự trị an xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các tội phạm cờ bạc.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
tội phạm cờ bạc tại thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc trong thời gian tới.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM CỜ BẠC
1.1. Các tội phạm cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, tại
Khoản 1 Điều 8 định nghĩa về tội phạm như sau: “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.”
Đáng chú ý là: So với quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999, BLHS năm 2015
đã mở rộng phạm vi chủ thể tội phạm, bổ sung pháp nhân thương mại trong một số
trường hợp cũng là chủ thể của tội phạm.
Các tội phạm về cờ bạc quy định trong BLHS năm 1999 gồm các tội đánh
bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, quy định tại Điều 248, 249 BLHS, đây là những
tội phạm cụ thể, do vậy ngoài những dấu hiệu chung của tội phạm thì tội đánh bạc, tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc còn có những dấu hiệu khác được quy định cụ thể trong
BLHS.
Về tội đánh bạc, tại Điều 248 BLHS năm 1999 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định như sau:
“1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay
hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai
triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
7
năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm:
a, Có tính chất chuyên nghiệp;
b, Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;
c, Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 248 BLHS, tội đánh bạc được hiểu là hành
vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có
giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm [57, tr.483]. Đánh bạc trái phép là hành vi
đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng
tiền hay hiện vật mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với
quy định trong giấy phép được cấp [29, tr.435].
BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
12/2017/QH14 (sau đây gọi là BLHS năm 2015), tại Điều 321 quy định về tội đánh
bạc về cơ bản vẫn giữ nguyên cấu thành như quy định tại Điều 248 BLHS năm
1999. Tuy nhiên đã sửa đổi, bổ sung theo hướng nâng số tiền, hiện vật dùng đánh
bạc trị giá từ hai triệu đồng lên năm triệu đồng; bổ sung trường hợp người nào đánh
bạc dưới năm triệu đồng nhưng đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc,
tổ chức đánh bạc, gá bạc thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc; bổ sung
thêm tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c, Khoản 2, đó là: “Sử dụng mạng
internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;”.
Về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, tại Điều 249 BLHS năm 1999 của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định như sau:
8
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật
này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ
một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai ba
năm đến mười năm:
a, Có tính chất chuyên nghiệp;
b, Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c, Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm
triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Như vậy, hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc được quy định trong
cùng một Điều luật, đó là Điều 249 BLHS. Theo quy định tại Điều 249 BLHS, tội
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được hiểu là hành vi tổ chức việc đánh bạc hoặc gá
bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại
Điều này và Điều 248 BLHS hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm. [57, tr.485]. Tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu,
chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền
hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Gá bạc là chứa việc đánh bạc để thu tiền
(tiền hồ) [29, tr448].
BLHS 2015, tại Điều 322 quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, về
cơ bản vẫn giữ nguyên cấu thành như quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999. Tuy
nhiên đã sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ việc tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
trong trường hợp có 02 chiếu bạc trở lên phải diễn ra trong cùng một lúc và kèm
theo số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên thì mới bị xử
lý hình sự; bổ sung, chỉnh lý theo hướng tách hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi
gá bạc, theo đó hành vi tổ chức đánh bạc thì không quy định về địa điểm, còn hành
vi gá bạc (điểm b khoản 1) thì phải quy định địa điểm; bổ sung điểm c Khoản 2
9
Điều 322 như sau “c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương tiện điện tử để phạm tội;”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc có các dấu hiệu pháp lý như sau:
Khách thể của tội phạm
Tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc xâm phạm đến khách thể, đó là
trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội [57, tr.485]. Mọi hành vi đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép đều là hành vi vi phạm và những hành vi vi
phạm pháp luật nghiêm trọng đều là tội phạm. Pháp luật nước ta nghiêm cấm hoạt
động đánh bạc, tổ chức đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào và coi đây là
hành vi xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc là một tệ nạn xã hội, đây là nguyên nhân dẫn đến nhiều hành vi vi phạm và tội
phạm khác trong xã hội gây mất trật tự trị an trong xã hội, ảnh hưởng rất nhiều tới
đời sống của nhân dân.
Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là những
biểu hiện của nó ra bên ngoài thế giới khách quan, song do đặc điểm cấu thành tội
phạm của loại tội này nên nhà làm luật quy định hai dấu hiệu trong mặt khách quan
của nó là: Hành vi khách quan (Đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc) và điều kiện
(yếu tố cấu thành tội danh) để xử lý hình sự đối với người thực hiện hành vi đánh
bạc, tổ chức đánh bạc.
Về tội đánh bạc: Đánh bạc là nhiều người (ít nhất là từ hai người trở lên)
cùng tham gia thực hiện hành vi đánh bạc, dưới các hình thức như: xóc đĩa, tổ tôm,
tú lơ khơ, tam cúc, ba cây, bốn súc sắc, đỏ đen, cờ thế, chọi gà, đánh bạc bằng máy,
trò chơi điện tử, bóng tay, bi a hoặc các hình thức khác; tham gia cá cược trong các
môn thể thao giải trí như đua ngựa, bóng đá và mọi hình thức cá cược ăn tiền khác,
mua bảng đề, ô số đề [57, tr.484] với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “ Đánh bạc trái phép” là hành vi
10
đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng
tiền hay hiện vật mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với
quy định trong giấy phép được cấp.
Người thực hiện hành vi đánh bạc chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
đánh bạc khi có một trong các điều kiện sau:
- Không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong
giấy phép được cấp (trái phép);
- Được thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng trở lên; BLHS
năm 2015 quy định số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm triệu đồng
trở lên;
- Đã bị kết án về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm. BLHS năm 2015 bổ sung: đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm.
Về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, hành vi tổ chức đánh bạc: đó là hành vi
rủ rê, lôi kéo, tập hợp những người tham gia đánh bạc, bố trí địa điểm cho người
khác cùng đánh bạc, người tổ chức cũng có thể cùng tham gia đánh bạc; hành vi gá
bạc là hành vi dùng nơi ở của mình hoặc tạo ra nơi đánh bạc để đưa những người
đến đánh bạc nhằm mục đích thu tiền (tiền hồ).
Người thực hiện hành vi tổ chức việc đánh bạc, gá bạc chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc khi có một trong các điều kiện sau:
- Tổ chức việc đánh bạc, gá bạc không được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cho phép hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực
hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp (trái phép);
- Tổ chức đánh bạc với quy mô lớn;
- Hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249
BLHS;
11
- Hoặc đã bị kết án về tội quy định tại Điều 248 và Điều 249 BLHS, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm;
Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và 249
của Bộ luật hình sự thì “quy mô lớn” là một trong các trường hợp sau đây:
- Tổ chức đánh bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên
hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền dùng đánh bạc có giá trị từ hai triệu
đồng đến dưới 50 triệu đồng.
- Có nơi tổ chức cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang
thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác,
người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe
máy, xe đạp, điện thoại… để trợ giúp cho việc đánh bạc;
- Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị từ
20 triệu đồng trở lên.
Người tổ chức đánh bạc thuộc trường hợp chưa đến mức “quy mô lớn” như
hướng dẫn trên đây, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2 triệu
đồng đến dưới 50 triệu đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ
chức đánh bạc nhưng họ phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc.
BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể như sau:
Tại điểm a khoản 1 Điều 322 quy định: “Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở
lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000
đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền,
hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;”.
Điểm b khoản 1 Điều 322 quy định: “Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu
hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà
tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02
chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá
5.000.000 đồng trở lên;”.
12
Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, có mối liên hệ
biện chứng với mặt bên ngoài, tức mặt khách quan của nó. Mặt chủ quan của tội
phạm bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Mặt chủ quan của tội đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc đó là dấu hiệu lỗi. Lỗi là trạng thái tâm lý của một
người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả của nó dưới
hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc
hoặc gá bạc được thực hiện do lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi
đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc của mình là hành vi trái pháp luật, bị pháp
luật cấm nhưng vẫn thực hiện nhằm động cơ, mục đích cá nhân [57, tr. 486].
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định [57, tr. 486], không phải là chủ thể đặc
biệt. Như vậy người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc; tổ chức đánh bạc, gá bạc theo Điều 248, 249
BLHS 1999 (Điều 321, 322 BLHS 2015); người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa
đủ 16 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc theo Khoản 2 Điều 249 BLHS 1999 (tội rất nghiêm
trọng). Tại Khoản 2, Điều 12 BLHS 2015 quy định: “2. Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287,
289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”. Như vậy, theo quy định của BLHS
năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự,
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc, gá bạc theo Khoản 2
Điều 322 BLHS năm 2015 (tội rất nghiêm trọng).
Tóm lại, nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội phạm đánh bạc, tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nhận thức sâu sắc
về cấu thành cơ bản, các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc
13
gá bạc, giúp cho công tác thực hành quyền công tố, xử lý tội phạm đánh bạc, tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc được chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
1.2. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các tội phạm cờ bạc
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra
Khi có hành vi phạm tội xảy ra, việc giải quyết vụ án do các cơ quan tiến
hành tố tụng (CQĐT, VKS và các cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra)
thực hiện nhằm chứng minh có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội, tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Các bước, thủ tục trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự đó được gọi là thủ tục tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự trong đó các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng
hình sự, các cơ quan Nhà nước khác, tổ chức xã hội và cá nhân tiến hành các hoạt
động theo đúng trình tự do pháp luật quy định, nhằm phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội [23, tr.8].
Hoạt động chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, giải
quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục gồm nhiều thủ tục, hoạt động có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Dựa vào tính chất, trình tự, thủ tục cũng như chủ thể của hoạt
động, mà quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn khác
nhau. Các giai đoạn tố tụng hình sự là những trình tự, thủ tục, các bước của quá
trình giải quyết vụ án hình sự do các chủ thể nhất định tiến hành nhằm thực hiện
những nhiệm vụ cụ thể. Các giai đoạn này có tính kế tiếp nhau, làm cơ sở pháp lý,
tiền đề cho nhau.
BLTTHS năm 2003 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chia quá
trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự; Giai đoạn điều tra vụ án hình sự; Giai đoạn truy tố; Giai đoạn xét xử vụ án hình
14
sự và giai đoạn thi hành án hình sự [56, tr.8-10]. Hoạt động Tòa án cấp trên xét lại
bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị (xét xử phúc thẩm hình sự); hoạt động xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm vụ án
hình sự không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự. Các hoạt động này là thủ tục
đặc biệt để xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì bị phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án; vì có những tình tiết
mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định.
Đáng lưu ý là: BLTTHS năm 2015 dường như đã bổ sung thêm, coi quá trình giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như là một giai đoạn tiền đề
của tố tụng hình sự.
Về hoạt động điều tra: hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm này. Có quan điểm cho rằng: Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được
tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ [40]. Quan điểm khác cho rằng: Điều tra là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định
để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát
hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án
[6]. Theo chúng tôi, khái niệm hoạt động điều tra cần được hiểu như sau: Điều tra là
hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình
sự quy định do Cơ quan điều tra và một số cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra tiến
hành thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội [27, tr.11]. Giai đọan điều tra là một giai đoạn trong Tố
tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
điều tra áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội.
Trong khuôn khổ của Luận văn, tác giả không có điều kiện phân tích, xem
xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng hình sự, mà tập trung vào nghiên cứu công tác
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về đánh bạc, tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc.
15
1.2.1.1 Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với
các tội phạm cờ bạc
Trong các tài liệu pháp lý hiện nay của nước ta còn có nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm thực hành quyền công tố, cũng như phạm vi, nội hàm của thực
hành quyền công tố, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Có quan điểm cho rằng thực hành
quyền công tố gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của Công tố viên, được thực hiện
trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự [24, tr.100]. Quan điểm khác lại cho rằng: lập cáo trạng và luận tội trước
phiên tòa sơ thẩm hình sự là nhiệm vụ chủ yếu của Công tố viên và coi đó là
THQCT, thậm chí có ý kiến cho rằng thực hành quyền công tố chỉ là sự buộc tội
trước phiên tòa sơ thẩm [28, tr.28-38].
Chúng tôi cho rằng QCT là quyền nhân danh, quyền lực công thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đây là quyền lực Nhà nước, gắn
liền với bản chất từng kiểu Nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự [34,
tr.54].
Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp [30, tr. 63 HP 2013]. Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 2
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Viện kiểm sát nhân dân là
cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [31, tr. 1 LTCVKS 2014].
Thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội,
đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó [17, tr.48]. Tiến
sĩ Lê Hữu Thể đã đưa ra khái niệm về THQCT như sau: Thực hành quyền công tố
là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử [34, tr.57]. Tác giả đồng tình với khái niệm này, vì
16
khái niệm đã bao hàm nội dung các Điều 13 và Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm
2002; Điều 112 BLTTHS năm 2003 và Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm
2014 theo đó đã quy định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự”. Đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội, nên thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là hoạt động nhân danh Nhà nước thực
hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội
được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt
người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và trong suốt quá trình điều tra kết thúc
khi việc điều tra kết thúc hoặc đình chỉ vụ án [27, tr.13]. Từ những phân tích,
nghiên cứu nêu trên tác giả Luận văn mạnh dạn đưa ra khái niệm về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội phạm cờ bạc, đó là: thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội phạm cờ bạc là hoạt động
nhân danh Nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc buộc tội đối với
người phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, bảo đảm việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc có
căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá
bạc được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để
lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động này được thực hiện từ khi
tội phạm xảy ra và trong suốt quá trình điều tra, kết thúc khi việc điều tra kết thúc
hoặc đình chỉ vụ án.
1.2.1.2 Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với
các tội phạm cờ bạc
Như vậy, chúng ta thấy rằng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra đối với các tội phạm cờ bạc có những đặc điểm như sau:
17
Thứ nhất, thực hành quyền công tố là chức năng hiến định của VKSND trong
việc thực thi quyền lực Nhà nước [27, tr.14]. Thực hiện quyền lực này VKSND truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Thứ hai, VKSND là chủ thể duy nhất được giao nhiệm vụ truy tố đối với
người phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nên VKS phải được trao
đầy đủ quyền năng và thực hiện triệt để quyền năng của mình để bảo đảm không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội.
Thứ ba, đối tượng của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là tội
phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; phạm vi của thực hành quyền công
tố trong giai đoạn này bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và trong suốt quá trình điều
tra, kết thúc khi việc điều tra kết thúc hoặc đình chỉ vụ án.
Thứ tư, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với
tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc mang tính công khai và thực hiện theo
trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Đặc điểm này nhằm bảo đảm cho
hoạt động của VKS được thực hiện một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
không có bất cứ sự can thiệp nào vào hoạt động thực hành quyền công tố của VKS,
nhưng đồng thời hoạt động thực hành quyền công tố của VKS cũng được giám sát
bởi nhiều chủ thể khác trong và ngoài cơ quan tố tụng hình sự.
Thứ năm, thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của VKS chịu sự
lãnh đạo tập trung của Viện trưởng VKS mỗi cấp và chịu sự chỉ đạo thống nhất của
Viện trưởng VKSND tối cao [27, tr.15]
1.2.1.3. Phân biệt thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát điều tra
Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp là hai chức năng hiến
định của VKSND. Kiểm sát điều tra là một nội dung của kiểm sát hoạt động tư
pháp. Để phân biệt thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và hoạt động
kiểm sát điều tra, chúng ta dựa vào các quy định tại Điều 165 và Điều 166 của
BLTTHS năm 2015. Có thể nói tuy cùng một chủ thể thực hiện, nhưng thực hành
quyền công tố với hoạt động kiểm sát điều tra có những đặc điểm:
18
Thứ nhất, Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và hoạt động kiểm
sát điều tra đều có điểm giống nhau, đó là cùng một chủ thể thực hiện là VKS và thực
hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và trong
suốt quá trình điều tra, kết thúc khi việc điều tra kết thúc hoặc đình chỉ vụ án.
Thứ hai, Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và hoạt động
kiểm sát điều tra có điểm khác biệt, đó là: đối tượng của thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra là tội phạm và người thực hiện tội phạm; VKS trực tiếp ra
các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt việc buộc tội. Khi thực hành
quyền công tố, VKS có quyền và trách nhiệm trong việc ra các quyết định tố tụng
(bằng cách phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định của CQĐT hoặc tự
mình ban hành các quyết định). Các quyết định của VKS khi thực hành quyền công
tố có ý nghĩa quyết định đến vụ án và người phạm tội [27, tr.15]. Còn đối tượng của
hoạt động kiểm sát điều tra là hoạt động tố tụng của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng
CQĐT, ĐTV, cán bộ điều tra khi được phân công điều tra vụ án. Hoạt động kiểm
sát điều tra hướng tới sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra, nhằm cho các
hoạt động điều tra tuân thủ đúng các quy định của BLTTHS, bảo đảm việc điều tra
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, nếu phát hiện có hành vi vi phạm, VKS
có quyền kiến nghị yêu cầu các chủ thể vi phạm chấm dứt vi phạm, khôi phục lại
trật tự pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình sự.
1.2.2. Chủ thể thực hiện quyền công tố và mối quan hệ giữa thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các
tội phạm cờ bạc
a) Chủ thể thực hiện quyền công tố
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm
2003, thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói chung và đối với các tội
phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nói riêng, chủ thể thực hiện đó là
VKSND. VKS thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nhằm bảo đảm mọi
hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan
19
người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; Không để người nào bị khởi
tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật
[31, k2Đ3 LTCVKS 2014]
b) Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc
Trong giai đoạn điều tra vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, VKS
có hai nhiệm vụ, đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong quá trình điều tra (kiểm sát điều tra).
Đến BLTTHS năm 2015, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra
được quy định cụ thể, rõ ràng và có phân biệt bằng hai điều luật là Điều 165 và Điều 166.
Như vậy, mục đích của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là
nhằm chứng minh tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc và người phạm tội,
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Mục đích của kiểm sát điều tra là phát hiện vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm, bảo đảm việc
điều tra tuân thủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo luật định. Giữa thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có mối quan hệ khăng khít, biện chứng, hỗ trợ
lẫn nhau. Mối quan hệ này song song tồn tại từ khi khởi tố vụ án đánh bạc, tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc đến khi kết thúc điều tra hoặc đình chỉ điều tra vụ án đánh bạc, tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc. Cả hai nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra đều cùng chung mục đích bao quát đó là nhằm đảm bảo cho hành vi phạm tội đánh
bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Hoạt
động kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra có hiệu quả là điều kiện để
đảm bảo cho công tác thực hành quyền công tố chính xác, khách quan; ngược lại, làm
tốt hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra cho phép đi sâu, làm rõ
vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan điều tra.
20