Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hải Phòng (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.04 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG KHẮC THẮNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM CỜ BẠC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mãsố

: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Đình Nhã

Phản biện 1: PGS.TS. Phùng Thế Vắc
Phản biện 2: TS. Trần Ngọc Hương

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội

Vào hồi: 15 giờ 15 ngày 19 tháng 10 năm 2017



Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
chỉ rõ: “ Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
cải cách tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: Viện kiểm sát các cấp
thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được
thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng
nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội [12] . Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có
nội dung : “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công
tố...”. Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số
49 –NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác
định rõ: “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng
như hiện nay là thực hành quyền công tố (...), tăng cường trách nhiệm
của công tố trong hoạt động điều tra” [14]. Hiến pháp năm 2013 và
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân (sửa đổi bổ sung năm 2014) đảm bảo đổi mới tổ
chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân phù hợp và đồng bộ với
cải cách tư pháp.


1


Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ thực tiễn công tác
thực hành quyền công tố các tội phạm về cờ bạc trong thời gian qua
trên địa bàn thành phố Hải Phòng, học viên nhận thấy do nhận thức
khác nhau hoặc chưa thống nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật
nên đã dẫn đến việc áp dụng pháp luật hình sự giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng ở một chừng mực nào đó đã chưa phân biệt, tìm ra ranh
giới giữa tội “đánh bạc” và tội “tổ chức đánh bạc, gá bạc” để từ đó có
các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ phù hợp, chứng minh làm rõ
hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội, áp dụng pháp
luật chính xác, công minh. Trong điều tra các tội về cờ bạc còn bộc lộ
nhiều thiếu sót, tồn tại và cả vi phạm tố tụng dẫn đến nhiều vụ án bị
kéo dài thời hạn điều tra, đã khởi tố không đúng tội danh, bỏ lọt tội
phạm và người thực hiện hành vi tội phạm, việc trả hổ sơ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng chiếm tỉ lệ cao. Vì vậy, việc nghiên cứu để
hiểu sâu sắc, làm rõ thực trạng, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn thành phố Hải
Phòng trong thời gian tới là một yêu cầu có tính cấp bách cả về mặt
lý luận và thực tiễn.
Vì những lý do như trên, học viên đã chọn đề tài: “Thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc từ thực
tiễn thành phố Hải Phòng” làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng hiến
định của VKS, đã có nhiều tác giả nghiên cứu và nhiều công trình
khoa học về Quyền công tố, thực hành quyền công tố, kiểm sát điều

tra được công bố. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học
2


nghiên cứu chuyên biệt về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các tội phạm về cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hải Phòng.
Trong khi thực tiễn đòi hỏi cần có nghiên cứu về công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội về cờ bạc để từ đó
đánh giá rõ thực trạng, tìm ra nguyên nhân, đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra đối với các vụ án về cờ bạc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về cờ
bạc theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; đánh giá đúng thực
trạng công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
tội phạm về cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, từ đó tìm ra
nguyên nhân đưa ra giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội
phạm về cờ bạc trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải
Phòng từ năm 2012 đến năm 2016.
- Khảo sát thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra đối với tội cờ bạc của Viện kiểm sát hai cấp thành

phố Hải Phòng từ đó khái quát được những ưu điểm và hạn chế, tồn
3


tại, tìm ra nguyên nhân để đưa ra giải pháp, đề xuất kiến nghị nhằm
nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tương nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật, thực trạng thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát hai cấp thành phố Hải
Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội đánh bạc, tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc ở thành phố Hải Phòng từ năm 2012 đến
năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của Luận văn là học thuyết Mác-Lênin với
phép duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật nói chung và tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp thống kê, tổng

hợp, phân tích, so sánh, dự báo và điều tra xã hội học.
4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn sẽ góp phần bổ sung lý luận về thực hiện một loại
chức năng của VKSND-đó là chức năng thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra mà cụ thể là điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc
hoặc gá bạc theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; góp
phần bổ sung lý thuyết cho các bộ môn pháp luật hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu phục vụ cho Viện kiểm sát hai cấp thành
phố Hải Phòng vận dụng trong nghiên cứu, áp dụng trong công tác
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc tại thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc trong thời gian tới.

5


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM CỜ BẠC
1.1. Các tội phạm cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Tác giả luận văn đã đưa ra khái niệm về tội phạm theo quy
định tại Điều 8 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1999, đồng thời chỉ ra điểm mới về tội phạm quy định
tại Điều 8 BLHS năm 2015, đó là: BLHS năm 2015 đã mở rộng
phạm vi chủ thể tội phạm, bổ sung pháp nhân thương mại trong một
số trường hợp cũng là chủ thể của tội phạm.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra các khái niệm về tội đánh
bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc, tổ chức đánh
bạc hoặc gá bạc
Luận văn đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội phạm
gồm: các dấu hiệu về khách thể, khách quan, chủ quan, chủ thể của
tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Đặc biệt tác giả đã chỉ rõ
những quy định mới quy định trong BLHS năm 2015 về tội đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Các quy định mới của BLHS năm
2015, đó là:
Về tội đánh bạc: đã sửa đổi, bổ sung theo hướng nâng số
tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá từ hai triệu đồng lên năm triệu
đồng; bổ sung trường hợp người nào đánh bạc dưới năm triệu đồng
nhưng đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, tổ chức
đánh bạc, gá bạc thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;
6


bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c, Khoản 2, đó
là: “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc

phương tiện điện tử để phạm tội;”.
Về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc: đã sửa đổi, bổ sung
theo hướng quy định rõ việc tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong
trường hợp có 02 chiếu bạc trở lên phải diễn ra trong cùng một lúc và
kèm theo số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng
trở lên thì mới bị xử lý hình sự; bổ sung, chỉnh lý theo hướng tách
hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc, theo đó hành vi tổ chức
đánh bạc thì không quy định về địa điểm, còn hành vi gá bạc (điểm b
khoản 1) thì phải quy định địa điểm; bổ sung điểm c Khoản 2 Điều
322 như sau “c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn
thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;”.
Cũng theo quy định của BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự, không phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo
Khoản 2 Điều 322 BLHS năm 2015 (tội rất nghiêm trọng).
1.2. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra
Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự trong đó
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng hình
sự, người tham gia tố tụng hình sự, các cơ quan Nhà nước khác, tổ
chức xã hội và cá nhân tiến hành các hoạt động theo đúng trình tự do
pháp luật quy định, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và
7


không làm oan người vô tội [23, tr.8]. Các giai đoạn tố tụng hình sự
là những trình tự, thủ tục, các bước của quá trình giải quyết vụ án

hình sự do các chủ thể nhất định tiến hành nhằm thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể. Các giai đoạn này có tính kế tiếp nhau, làm cơ sở
pháp lý, tiền đề cho nhau. Điều tra là hoạt động phát hiện, thu thập
chứng cứ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định do
Cơ quan điều tra và một số cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra tiến
hành thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội [27, tr.11]. Giai đọan điều
tra là một giai đoạn trong Tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra
và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra áp dụng các biện
pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội.
Quyền công tố là quyền nhân danh, quyền lực công thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đây là
quyền lực Nhà nước, gắn liền với bản chất từng kiểu Nhà nước và chỉ
có trong lĩnh vực tố tụng hình sự [34, tr.54].
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử [34, tr.57].
Theo tác giả Luận văn: thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là
hoạt động nhân danh Nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
việc buộc tội đối với người phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc
gá bạc, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc có căn cứ và hợp pháp,
8


bảo đảm mọi hành vi phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc
được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật,

không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động
này được thực hiện từ khi tội phạm xảy ra và trong suốt quá trình
điều tra, kết thúc khi việc điều tra kết thúc hoặc đình chỉ vụ án.
Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp là hai
chức năng hiến định của VKSND.
Điểm giống nhau, đó là cùng một chủ thể thực hiện là VKS
và thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bắt đầu từ khi tội
phạm xảy ra và trong suốt quá trình điều tra, kết thúc khi việc điều tra
kết thúc hoặc đình chỉ vụ án.
Điểm khác biệt, đó là: đối tượng của thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra là tội phạm và người thực hiện tội phạm;
còn đối tượng của hoạt động kiểm sát điều tra là hoạt động tố tụng
của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, ĐTV, cán bộ điều tra khi
được phân công điều tra vụ án.
1.2.2. Chủ thể thực hiện quyền công tố và mối quan hệ
giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc
a) Chủ thể thực hiện quyền công tố
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014,
BLTTHS năm 2003, thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
nói chung và đối với các tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc
gá bạc nói riêng, chủ thể thực hiện đó là VKSND.
b) Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ
bạc
9


Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có mối quan hệ
khăng khít, biện chứng, hỗ trợ lẫn nhau. Mối quan hệ này song song

tồn tại từ khi khởi tố vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
đến khi kết thúc điều tra hoặc đình chỉ điều tra vụ án đánh bạc, tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc. Cả hai nhiệm vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra đều cùng chung mục đích bao quát đó là nhằm
đảm bảo cho hành vi phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Hoạt
động kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra có hiệu quả
là điều kiện để đảm bảo cho công tác thực hành quyền công tố chính
xác, khách quan; ngược lại, làm tốt hoạt động thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra cho phép đi sâu, làm rõ vi phạm pháp luật
trong hoạt động điều tra của cơ quan điều tra.
1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các tội phạm cờ bạc
- Thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
- Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự;
- Thực hành quyền công tố đối với việc khởi tố bị can;
- Thực hành quyền công tố trong việc phê chuẩn việc áp
dụng, thay thế, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền
công dân;
- Thực hành quyền công tố trong các hoạt động điều tra bao
gồm: đề ra yêu cầu điều tra; Thực hành quyền công tố đối với việc
khám nghiệm hiện trường; Thực hành quyền công tố trong việc khám
xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản; Thực hành quyền
10


công tố trong việc lấy lời khai của người làm chứng, người có quyền
lợi nghĩa vụ có liên quan; Thực hành quyền công tố đối với việc hỏi

cung bị can, việc đối chất, nhận dạng; Thực hành quyền công tố đối
với việc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, kết thúc điều tra,
phục hồi điều tra.

11


Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM CỜ BẠC
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG
2.1. Thực trạng tổ chức và cán bộ của Viện kiểm sát nhân
dân hai cấp thành phố Hải Phòng
Hải Phòng là thành phố cảng quan trọng, trung tâm công
nghiệp, cảng biển lớn nhất phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là
trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và
công nghệ của Vùng duyên hải Bắc Bộ. Đây là thành phố lớn thứ 3
cả nước, lớn thứ 2 miền Bắc sau Hà Nội. Hải Phòng còn là một trong
5 thành phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc
gia, cùng với Đà Nẵng và Cần Thơ. Với diện tích1.527 km², dân số
Hải Phòng là 2.190.788 người, là thành phố lớn thứ 3 ở Việt Nam sau
Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, gồm 7 quận (Ngô Quyền, Hồng Bàng,
Lê Chân, Dương Kinh, Đồ Sơn, Kiến An và Hải An), 6 huyện ngoại
thành (Thuỷ Nguyên, An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng,
Vĩnh Bảo) và 2 huyện đảo (Cát Hải, Bạch Long Vĩ) với 223 xã,
phường và thị trấn.
Trong những năm qua VKS hai cấp thành phố Hải Phòng đã
có nhiều biện pháp nhằm triển khai và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị
số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSND tối cao
về “Tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều

tra”. Đảm bảo giải quyết các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá
bạc nhanh chóng, kịp thời đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật
12


tự an toàn xã hội, góp phần có hiệu quả vào công tác đấu tranh,
phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên công tác
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội đánh
bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc cũng còn có những hạn chế nhất định,
như vẫn có trường hợp khởi tố sai tội danh, bỏ lọt tội phạm, phải trả
hồ sơ điều tra bổ sung, kéo dài thời hạn điều tra.
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các tội phạm cờ bạc tại thành phố Hải Phòng
- Trong việc tiếp nhận, giải quyết tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố:
Trong năm năm (2012- 2016) qua phân loại 625 tố giác, tin
báo về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc, CQĐT đã khởi tố
532vụ/2808 bị can về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Trong đó, năm
2012 đã khởi tố 106 vụ/615 bị can, giảm 5 vụ, 20 bị can so với cùng
kỳ năm 2011; gồm đánh bạc: 99 vụ/599 bị can, tổ chức đánh bạc 7
vụ/26 bị can. Năm 2013 đã khởi tố 96 vụ/479 bị can, giảm 10 vụ, 146
bị can so với cùng kỳ năm 2012, gồm: đánh bạc-khởi tố 80 vụ/477 bị
can, tổ chức đánh bạc-khởi tố 16 vụ/32 bị can. Năm 2014 đã khởi tố
114 vụ/532 bị can, tăng 18 vụ/53 bị can so với cùng kỳ năm 2013; tội
đánh bạc khởi tố 98 vụ/478 bị can, tổ chức đánh bạc khởi tố: 16
vụ/54 bị can. Năm 2015 đã khởi tố 114 vụ/615 bị can, không tăng,
không giảm về số vụ, tăng 83 bị can so với cùng kỳ, gồm: đánh bạckhởi tố 100 vụ/578 bị can, tổ chức đánh bạc- khởi tố 14 vụ/37 bị can.
Năm 2016 đã khởi tố 102 vụ/529 bị can, giảm 12 vụ, 46 bị can so với
cùng kỳ năm 2015, gồm: đánh bạc-khởi tố 84 vụ/529 bị can, tổ chức

đánh bạc-khởi tố 18 vụ/40 bị can. VKS đã phát hiện một số vụ có dấu

13


hiệu tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc nhưng CQĐT chưa khởi tố kịp
thời, VKS đã yêu cầu CQĐT khởi tố (Bảng 2.3).
-Trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Trong năm năm qua, VKS hai cấp thành phố Hải Phòng đã
thực hành quyền công tố đối với 532 vụ án hình sự về tội đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, phê chuẩn khởi tố bị can 2808 bị can
về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (đạt 100%). Thông qua
công tác thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can, VKS đã yêu cầu CQĐT bổ sung thêm tài liệu, chứng
cứ trước khi phê chuẩn khởi tố bị can là 55 vụ; yêu cầu thay đổi
quyết định khởi tố vụ án 03 vụ, yêu cầu thay đổi khởi tố bị can 08 bị
can từ tội đánh bạc sang tội tổ chức đánh bạc (xem bảng 2.4); yêu cầu
khởi tố bổ sung 01 vụ/02 bị can vì ngoài thực hiện hành vi đánh bạc,
còn có hành vi tổ chức đánh bạc (xem bảng 2.5).
-Trong việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn
VKS đã thực hành quyền công tố 2808 trường hợp bắt; trong
đó: Bắt quả tang 2.150 người, chiếm tỷ lệ 77% ; Bắt khẩn cấp 90
người, chiếm tỷ lệ 3% ; Bắt tạm giam 59 người, chiếm tỷ lệ 2,1%;
Bắt truy nã 71 người, chiếm tỷ lệ 3%; Đầu thú, tự thú 538 người,
chiếm tỷ lệ 19,1%.
Trong 5 năm VKS hai cấp thành phố Hải Phòng đã kiểm sát
tạm giữ 2370 người bị tạm giữ về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc;
nghiên cứu hồ sơ ra quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam 610 bị can;
kiểm sát việc thay thế hoặc quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn

1760 người; phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam 59 bị can về tội

14


đánh bạc, tổ chức đánh bạc đảm bảo có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật.
- Đề ra yêu cầu điều tra
KSV đã ban hành 532 yêu cầu điều tra (đạt tỷ lệ 100%). Điều
này đã khẳng định VKS luôn coi trọng và nâng cao công tác thực
hành quyền công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra. Các bản yêu
cầu điều tra của KSV đã yêu cầu ĐTV tập trung làm rõ những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, như làm rõ vai trò đồng
phạm trong việc tổ chức đánh bạc, đánh bạc, củng cố chứng cứ buộc
tội, thu thập chứng cứ gỡ tội, các chứng cứ làm rõ các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, nhân thân của các bị can trong vụ.
- Đối với việc khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ,
tạm giữ vật chứng
Qua nghiên cứu 532 vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc,
CQĐT đã tiến hành khám xét nơi ở, địa điểm 85 trường hợp, chiếm
tỷ lệ 16%, trong đó có 56/85 trường hợp khám xét khẩn cấp, chiếm tỷ
lệ 66%.
- Đối với việc hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, trưng cầu
giám định, giám định:
KSV đã chủ động bàn bạc với ĐTV thống nhất kế hoạch hỏi
cung và đề ra yêu cầu hỏi cung bị can ngay sau khi khởi tố bị can.
VKS đã yêu cầu đối chất 125/215 vụ, chiếm tỷ lệ 58%; KSV trực tiếp
tham gia cùng với ĐTV tiến hành hoạt động đối chất là 125 vụ,
chiếm tỷ lệ 100% các vụ VKS yêu cầu CQĐT đối chất.
KSV đã trực tiếp cùng với ĐTV tiến hành tổ chức nhận dạng

96/170 vụ, chiếm tỷ lệ 56%; số vụ còn lại 74 vụ, KSV gián tiếp kiểm

15


sát qua việc nghiên cứu bản ảnh, biên bản nhận dạng do ĐTV chuyển
đến.
- Đối với việc tạm đình chỉ điều tra, truy nã bị can:
VKS đã kiểm sát chặt chẽ việc tạm đình chỉ vụ án, tạm đình
chỉ điều tra đối với bị can của CQĐT, đảm bảo các quyết định tạm
đình chỉ điều tra của CQĐT có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
- Đối với việc đình chỉ điều tra vụ án:
VKS đã kiểm sát chặt chẽ việc đình chỉ điều tra của CQĐT,
đảm bảo việc đình chỉ điều tra có căn cứ, đúng quy định của pháp
luật.
- Đối với việc kết thúc điều tra vụ án
Từ năm 2012 đến năm 2016, VKS hai cấp thành phố Hải
Phòng đã kiểm sát kết thúc điều tra của CQĐT đề nghị truy tố 454 vụ
đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, chiếm tỷ lệ 85%; kết thúc
điều tra và ra quyết định đình chỉ điều tra 7 vụ đánh bạc, tổ chức
đánh bạc, chiếm tỷ lệ 0,13%; tạm đình chỉ điều tra 9 vụ, chiếm tỷ lệ
0,16%. KSV được phân công thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra đối với các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc đã kiểm
sát chặt chẽ hoạt động điều tra, thiết lập hồ sơ của ĐTV.
2.3. Nhận xét, đánh giá thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc tại Hải Phòng và nguyên
nhân
2.3.1. Những kết quả đạt được
Công tác thực hành quyền công tố đối với các tội phạm đánh
bạc, tổ chức đánh bạc được thực hiện từ khi có tin báo, tố giác tội

phạm và được kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên trong suốt quá trình
điều tra cho đến khi kết thúc điều tra vụ án. Chính vì vậy đã bảo đảm
16


cho mọi hoạt động điều tra của CQĐT được tiến hành kịp thời, nhanh
chóng, đầy đủ, toàn diện và tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật, kịp thời kết thúc điều tra bảo đảm có căn cứ để xử lý đúng pháp
luật.
Đạt được những kết quả trong công tác thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc,
gá bạc nêu trên là do các nguyên nhân cơ bản sau: Hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, điều tra hình sự ngày
càng được bổ sung và từng bước hoàn thiện. Bên cạnh đó Quy chế
nghiệp vụ của ngành Kiểm sát, các văn bản hướng dẫn dưới luật
được ban hành kịp thời; Quy chế phợp giữa VKS và CQĐT được ký
kết và thực hiện đầy đủ. Lãnh đạo VKS các cấp tăng cường công tác
lãnh đạo, chỉ đạo các KSV trong công tác thực hành quyền công tố,
tăng cường công tác kiểm tra, rút kinh nghiệm.
2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót
- Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội
đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, các biện pháp tác nghiệp của
KSV đưa ra còn chung chung, một số biện pháp đòi hỏi KSV phải
trực tiếp tiến hành nhưng KSV đã không thực hiện dẫn đến các quyết
định phê chuẩn của VKS còn có trường hợp không chính xác, thiếu
căn cứ.Trong một số vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc,
KSV không nắm chắc các chứng cứ từ giai đoạn tin báo. Việc đề ra
yêu cầu điều tra của KSV chưa được thực hiện nghiêm túc.
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
Về nguyên nhân khách quan:


17


- Nhiều quy định của BLHS, BLTTHS còn chung chung,
chưa cụ thể, còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn. Công tác tổ chức cán
bộ còn nhiều bất cập.
Về nguyên nhân chủ quan:
- Một số KSV chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ vị trí, nhiệm
vụ, tầm quan trọng của công tác thực hành quyền công tố. KSV chưa
phát huy hết trách nhiệm, quyền hạn của. Trình độ, năng lực của một
số KSV không đồng đều, hạn.

18


Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI
PHẠM CỜ BẠC TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Hoàn thiện pháp luật
3.1.1. Bổ sung và hướng dẫn áp dụng quy định về tội đánh
bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong Bộ luật hình sự năm 2015
BLHS số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là BLHS năm 2015)
có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018.
Qua thực tiễn công tác thực hành quyền công tố đối với tội
đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; qua nghiên cứu BLHS năm
2015 liên quan tới tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, tác giả
luận văn đã đưa ra một số giải pháp về bổ sung, hướng dẫn những
điểm sau:

Đề nghị nêu khái niệm tội tổ chức đánh bạc, gá bạc quy định
tại Khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015: 1. Người nào chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có
được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào hoặc
dùng địa điểm của mình chứa chấp việc đánh bạc có thu tiền trái
phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến
05 năm:
Hướng dẫn định tội danh theo hướng:
+ Nếu người có hành vi tổ chức ra việc đánh bạc để thỏa
mãn việc đánh bạc của chính mình, không thu tiền hồ và cùng tham
gia đánh bạc với những người mà mình tổ chức để đánh bạc thì
19


người tổ chức ra việc đánh bạc chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội đánh bạc nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc, mà không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Hướng dẫn cụ thể để xác định số tiền hay hiện vật dùng đánh
bạc quy định tại Điều 321 và 322 BLHS năm 2015. Hướng quy định
rõ: “Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một
trong các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
…d) Người tổ chức đánh bạc có tổ chức nơi cầm cố tài sản
cho người tham gia đánh bạc”.
3.1.2. Bổ sung, sửa đổi, hướng dẫn một số quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan tới công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc
Qua thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc

hoặc gá bạc và nghiên cứu BLTTHS năm 2015, tác giả luận văn đưa
ra quan điểm bổ sung, hướng dẫn BLTTHS 2015 như sau:
- Bổ sung hoàn thiện và hướng dẫn việc áp dụng, thay thế,
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và thực hành quyền công tố đối với
việc áp dụng thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Bổ sung thêm
một số nội dung tại Khoản 4 Điều 110 BLTTHS năm 2015 theo
hướng VKS phải phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp thì CQĐT mới được ra quyết định tạm giữ. Bổ sung một số
nội dung quy định tại Khoản 5 Điều 119 BLTTHS 2015 theo hướng
nếu tài liệu trong hồ sơ còn thiếu căn cứ để tạm giam, thì VKS có
quyền yêu cầu CQĐT bổ sung trước khi quyết định việc phê chuẩn.
Bổ sung Khoản 2 Điều 125 BLTTHS năm 2015 theo hướng những
20


biện pháp ngăn chặn do CQĐT thay thế hoặc hủy bỏ phải thông báo
ngay cho VKS. Bổ sung khoản 5 Điều 146 BLTTHS năm 2015 về
thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bổ
sung khoản 2 Điều 154 BLTTHS năm 2015 về quyết định khởi tố vụ
án hình sự. Bổ sung khoản 1 Điều 161 BLTTHS năm 2015 về nhiệm
vụ quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố khởi tố vụ án
hình sự. Bổ sung khoản 2 Điều 204 BLTTHS năm 2015 về thực
nghiệm điều tra theo hướng: Trước khi tiến hành thực nghiệm điều
tra 10 ngày, Điều tra viên phải chuyển kế hoạch, tài liệu có liên quan
đến việc thực nghiệm điều tra cho Viện kiểm sát. Bổ sung Khoản 3
Điều 229 BLTTHS năm 2015 về tạm đình chỉ và Khoản 2 Điều 230
BLTTHS năm 2015 về đình chỉ điều tra.
3.2. Các giải pháp khác
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả các biện pháp
nghiệp vụ

Tác giả đã đưa ra các giải pháp gồm: Nắm và kiểm sát chặt
chẽ việc thụ lý, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm đánh bạc,
tổ chức đánh bạc, gá bạc. Thực hiện tốt hoạt động kiểm sát khởi tố vụ
án hình sự, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can về tội phạm đánh
bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc.Thực hiện tốt việc áp dụng, thay thế,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Chủ động xây dựng kế hoạch thực hành
quyền công tố, đề ra yêu cầu điều tra để CQĐT thực hiện, nâng cao
năng lực áp dụng pháp luật của các KSV. Thực hiện tốt việc kiểm sát
kết thúc điều tra, tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra đối với các
vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc.

21


3.2.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ của ngành
Kiểm sát
Tác giả đã đưa ra các kiến nghị về công tác tuyển dụng cán
bộ vào công tác tại VKSND các cấp; công tác thi tuyển các chức
danh lãnh đạo, thi tuyển KSV các ngạch; công tác phân công, bố trí
cán bộ, KSV thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra; công
tác quy hoạch cán bộ nhằm bổ sung lực lượng KSV cho công tác
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
3.2.3. Giải pháp về công tác quản lý chỉ đạo điều hành,
công tác đào tạo, tổng kết rút kinh nghiệm nghiệp vụ
Tác giả luận văn đã đưa ra các kiến nghi cụ thể, đó là: bổ
sung, xây dựng Quy chế thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự; công tác thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp trong ngành Kiểm sát; công tác kiểm tra, thanh tra nghiệp vụ
của VKSND cấp trên đối với VKS cấp dưới; công tác đào tạo
chuyên; công tác tổng hợp rút kinh nghiệm.

Tác giả đã đưa ra nhóm các giải pháp, kiến nghị khác bao
gồm: kiến nghị tăng cường cơ sở vật chất, giải pháp về chế độ lương,
phụ cấp và các khoản đãi ngộ thỏa đáng cho đội ngũ KSV.

22


KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua, các cơ quan tiến hành tố tụng trên
địa bàn thành phố đã có nhiều cố gắng, đặc biệt là công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra của VKSND. Tuy vậy, xung
quanh vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc còn
có nhiều nhận thức, quan điểm khác nhau dẫn đến công tác thực hành
quyền công tố đối với tội phạm này của VKSND còn có nhiều hạn
chế, bất cập. Tác giả luận văn đã đi sâu phân tích về khái niệm, các
dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, khái
niệm, đặc điểm, thực trạng, quan điểm, giải pháp đảm bảo thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc
hoặc gá bạc của VKSND hai cấp thành phố Hải Phòng nhằm tìm
thêm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này trong thời
gian tới.
Luận văn đã phân tích, đánh giá diễn biến, tình hình tội phạm
đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; thực trạng công tác thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, tìm ra nguyên nhân của
kết quả đạt được, nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại, từ đó đưa
ra đề xuất các biện pháp bảo đảm, các giải pháp mang tính thực tiễn
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
của VKSND.


23


×