Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ PHƯƠNG TÚ

KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ PHƯƠNG TÚ

KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Trần Quang Huy



HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

Vũ Thị Phương Tú


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN NAY ....................................................................................................... 6
1.1 Khái niệm thi hành án dân sự...................................................................... 6
1.2 Khái niệm kê biên và kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự 8
1.3 Khái quát chung lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về kê biên
quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự ở nước ta. .................................. 18
Chương 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ KÊ
BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................. 28
2.1 Thực trạng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong Thi hành án dân
sự ..................................................................................................................... 28
2.2 Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về kê viên quyền sử dụng đất trong
thi hành án dân sự tại quận Đống Đa, Hà Nội. ............................................... 41

Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ................................................................................................................. 66
3.1 Những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về áp
dụng biện pháp cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự. ... 66
3.2 Những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự trên địa bàn quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội ............................................................................................ 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THADS

Thi hành án dân sự

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TAND

Tòa án nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp kết quả thi hành án dân sự của Chi cục THADS quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 (Về
việc) ................................................................................................................. 43
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp kết quả thi hành án dân sự của Chi cục THADS quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 (Về
tiền) .................................................................................................................. 44
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp việc ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi
hành án của Chi cục THADS quận Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012
– 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 .................................................................... 44
Bảng 2.4: Bảng tổng hợp việc ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi
hành án của Chi cục THADS quận Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012
– 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 .................................................................... 45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 2008 tốc độ tăng
trưởng kinh tế toàn thế giới có chiều hướng giảm xuống điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Suy thoái kinh tế thế giới chính phủ ra
chính sách thắt lưng buộc bụng nền sản xuất không phát triển, toàn nền kinh
tế rơi vào tình trạng đình trệ thiếu vốn dẫn đến hàng loạt doanh nghiệp, cá
nhân lâm vào tình trạng phá sản hoặc tiếp tục cầm chừng không đẩy mạnh
đầu tư. Do đó việc khơi thông dòng vốn, xử lý nợ xấu đã trở thành một vấn đề
bức thiết hơn bao giờ hết. Chính vì lẽ đó số lượng các vụ việc tranh chấp dân
sự phải khởi kiện ra tòa án các cấp tăng lên một cách nhanh chóng kéo theo
sự tăng lên của các việc Thi hành án dân sự. Để thi hành dứt điểm bản án đã
có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án phải áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án, trong các biện pháp đó có biện pháp cưỡng chế kê biên quyền

sử dụng đất nhằm giải quyết dứt điểm bản án có hiệu lực của Tòa án.
Kê biên quyền sử dụng đất là biện pháp nghiêm khắc nhất mà Chấp
hành viên áp dụng khi tổ chức thi hành án dân sự đòi hỏi rất cao về mặt
chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức
Chấp hành viên. Vì việc tổ chức kê biên quyền sử dụng đất có thuận lợi hay
không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất
hay không tùy thuộc vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế
của Chấp hành viên. Mặt khác, việc kê biên quyền sử dụng đất sự phối hợp của
các ban ngành các cấp là điều không thể thiếu nếu thiếu một thành phần theo
quy định thì việc cưỡng chế kê biên không thể diễn ra đúng luật dẫn đến phải
dừng, hoãn buổi kê biên, gây tổn hại rất lớn về kinh tế, tài sản của các bên.

1


Hơn nữa trong thực tế diễn ra khi cơ quan thi hành án dân sự tiến hành
các biện pháp cưỡng chế thi hành án đặc biệt là cưỡng chế kê biên quyền sử
dụng đất thì các quy định pháp luật về việc này còn thiếu, nhiều vướng mắc
gây khó khăn khi tiến hành trong thực tế.
Vì vậy việc nghiên cứu biện pháp kê biên quyền sử dụng đất trong thi
hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng, nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án dân sự. Từ những lý do đó tác giả lựa chọn đề tài “Kê biên quyền sử
dụng đất trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực
tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” là đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với xu hướng phát triển không ngừng của xã hội và nhu cầu khách
quan của công tác thi hành án, trong những năm vừa qua đã có nhiều công
trình nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án nói chung trong đó có liên quan đến
vấn đề kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự nói riêng. Nó được

thể hiện trong các công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau
như Đề tài: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án
VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số công trình nghiên
cứu khác như Luận văn thạc sĩ luật học: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành
án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu năm 2011, Luận văn thạc sĩ luật học
“Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy;
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về “Xã hội hóa thi hành
án dân sự ở Việt Nam”.
Bên cạnh đó là một số bài viết đăng trên các tạp chí như: “Cưỡng chế
kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Lê Anh Tuấn
trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề THADS năm 2010; Bài viết
“Vì sao cưỡng chế thi hành án khó khăn” của tác giả Trần Đại Sỹ trên tạp chí
Dân chủ và Pháp luật Số 7/2008; Bài viết “Cưỡng chế thi hành án kê biên, kê
biên khẩn cấp tạm thời, giải toả kê biên” của tác giả Đỗ Văn Thịnh trên tạp
2


chí Dân chủ và Pháp luật Số 12/2010; “Vấn đề cưỡng chế đối với người thứ
ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại đất sau
cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về
THADS của Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012; “Những điểm
mới về cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật THADS tháng 5 năm 2015.
Mỗi công trình nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác
nhau. Tuy nhiên tất cả đều có một điểm chung là hướng đến hoàn thiện pháp
luật thi hành án nói chung nhằm nâng cao hiệu quả chung trong công tác thi
hành án dân sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên những ý tưởng
gợi mở từ các công trình nêu trên, luận văn được xem như là một công trình
nghiên cứu độc lập và có tính hệ thống về kê biên quyền sử dụng đất trong thi

hành án án dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về
kê biên quyền sử dụng đất; các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
kê biên quyền sử dụng đất và thực tế việc thực hiện biện pháp cưỡng chế này
trên địa bàn quận Đống Đa. Qua việc nghiên cứu nêu ra những hạn chế, bất
cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên quyền sử
dụng đất và thực tế việc thực hiện kê biên quyền sử dụng đất trên địa bàn
quận Đống Đa từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần
nâng cao hiệu quả công tác kê biên quyền sử dụng đất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về kê biên quyền
sử dụng đất, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên quyền
sử dụng đất. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật
về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng kê
3


biên. Từ đó rút ra những giải pháp thiết thực để hoàn thiện pháp luật về kê biên
quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả chung
trong công tác thi hành án dân sự trong điều kiện mới của nước ta ngày nay.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động kê biên quyền
sử dụng đất trong thi hành án dân sự cũng như áp dụng pháp luật trong
khoảng thời gian từ năm 2014 đến nay.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động và áp dụng pháp luật
về kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành án dân sự
trên phạm vi quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, tuy nhiên do giới hạn của luận văn
thạc sỹ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản
về kê biên quyền sử dụng đất như khái niệm, đặc điểm kê biên quyền sử dụng

đất, ý nghĩa kê biên quyền sử dụng đất; các quy định của Luật THADS về kê
biên quyền sử dụng đất và thực tiễn thực hiện biện pháp này trong những năm
gần đây trên địa bàn quận Đống Đa.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ
biến để làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài như:
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học và phương pháp phân tích hệ
thống: việc nghiên cứu hoạt động kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án
dân sự được thực hiện một cách đồng bộ, gắn với từng giai đoạn, từng hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của đất nước về điều kiện phát triển kinh tế.
Phương pháp thống kê, thu thập thông tin định lượng: luận văn đã sử
dụng các số liệu tài liệu thống kê thích hợp để phục vụ cho việc phân tích,

4


đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất
trong thi hành án dân sự trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong
3 năm vừa qua.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có một số đóng góp mới như sau:
- Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật thi hành án dân
sự Việt Nam hiện hành về kê biên quyền sử dụng đất.
- Góp phần đánh giá đầy đủ, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu
quả áp dụng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật THADS Việt

Nam hiện hành về kê biên quyền sử dụng đất và thực tiễn thực hiện trên địa
bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy
định của pháp luật THADS Việt Nam về kê biên quyền sử dụng đất.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành
án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về kê biên quyền sử
dụng đất trong thi hành án dân sự trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kê biên quyền sử dụng
đất trong thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả thi hành án tại quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái niệm thi hành án dân sự
Theo đại từ điên tiếng Việt, thi hành là “Thực hiện điều đã chính thức
quyết định”[14]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án quyết định của Tòa án được hiểu là
văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải
quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu quả, một mặt đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện
sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân

danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục
các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại.
Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi những lý do sau:
Thi hành án là giai đoạn diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử và các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt
động thi hành án. Song không thể nói đây là cơ sở pháp lý duy nhất, mà mới
chỉ là điều kiện cần. Để tiến hành hoạt động thi hành án có hiệu quả, phải có
các điều kiện đủ là có cơ quan thi hành án, các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi
hành án được quy định cụ thể trong pháp luật thi hành án. Cho nên, hoạt động
thi hành án không chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều
chỉnh của pháp luật thi hành án.
Thi hành án không mang tính chất hành chính, bởi hành chính là hoạt
động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính được đưa ra trên cơ sở
mệnh lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới. Hoạt động
của cơ quan hành chính chủ yếu xoay quanh người đứng đầu là Thủ trưởng cơ

6


quan hành chính, trong khi đó thi hành án là hoạt động tư pháp có những
điểm khác cơ bản.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau: Thi
hành án là hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến
hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định
của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực
hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thi hành án dân sự là giai đoạn kết thúc của tố tụng dân sự mà trong đó
cơ quan thi hành án đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi
hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bản chất của thi

hành án dân sự là thi hành các quyết định của Tòa án tuyên trong bản án,
quyết định mà không giải quyết lại nội dung vụ án và là giai đoạn bảo vệ
quyền lợi cho các đương sự về mặt thực tế. Thi hành án dân sự có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đó là bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thực
tế trong cuộc sống, bảo đảm quyền lợi của đương sự bên cạnh đó thông qua
việc thi hành án, Cơ quan thi hành án phát hiện sai sót của Tòa án trong việc
áp dụng pháp luật từ đó kiến nghị Tòa án có thẩm quyền kịp thời chỉ đạo công
tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc lập pháp.
Dưới góc độ lý luận, xung quanh khái niệm "dân sự" trong thi hành án
dân sự hiện nay được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Phạm vi của
thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: bản án, quyết
định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí); quyết
định về tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài
được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Điều này cũng

7


hoàn toàn phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới: việc tổ chức
thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (Luật dân
sự, kinh doanh, thương mại, lao động), được thực hiện theo một thủ tục chung
mà không có sự tách bạch căn bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh tế, thương mại hay lao động.
Các bản án, quyết định được thi hành án không chỉ là các bản án, quyết
định được ban hành bởi tòa án, của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và của
trọng tài thương mại trong nước mà còn là những phán quyết được ban hành
bởi Tòa án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài nhưng được

tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Việt Nam. Tóm lại,
thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành những bản án, quyết định về phần
dân sự của các cơ quan có thẩm quyền được thực hiện bởi cơ quan thi hành
án dân sự theo trình tự thủ tục chặt chẽ theo qui định của pháp luật về thi
hành án dân sự, nhằm đảm bảo quyền và lơi ích hợp pháp theo các quyết định
trong các bản án, quyết định đã tuyên.
1.2 Khái niệm kê biên và kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành
án dân sự
1.2.1 Khái niệm kê biên
Cưỡng chế là một tính chất cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế
làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo Lênin thì pháp luật sẽ
không còn là gì nữa "nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức người ta
tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như
không". Các quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân thủ, chủ yếu
nhờ vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và lên án của xã hội; còn quy
phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi hành, nếu ai không chấp hành thì
Nhà nước cưỡng chế thi hành.
Sự cưỡng chế của pháp luật không phải đơn thuần nhằm mục đích
trừng trị mà trước hết là răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật,

8


giáo dục người vi phạm. Sự cưỡng chế ở đây được thực hiện trên cơ sở pháp
luật, trong khuôn khổ pháp luật, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến
hành. Nhà nước XHCN không thừa nhận các hành vi bạo lực trái với pháp
luật trong việc xử lý các vi phạm pháp luật.
Tính chất cưỡng chế của pháp luật không chỉ là răng đe, ngăn chặn, trừng
trị, mà còn là sự giáo dục sâu sắc đối với các chủ thể pháp luật. Bản thân quy
phạm pháp luật là chuẩn mực để con người rèn luyện ý thức công dân, hình

thành ý thức pháp luật, tạo ra cho mỗi công dân một khả năng tư duy pháp lý,
tránh được những ngẫu nhiên, tùy tiện, coi thường pháp luật Nhà nước.
Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của
mình buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa
vụ nhất định, theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộc mọi
người phải tuân theo luật, lệ ... đã đặt ra.
Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong
những phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà
nước Pháp quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà
nước, duy trì trật tự xã hội [9,tr.194]. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông
qua nhiều biện pháp cưỡng chế, những biện pháp cưỡng chế này được Nhà
nước trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện như: cưỡng
chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ
quan tòa án và cưỡng chế thi hành án.
Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính,
cưỡng chế hành chính được UBND và các cơ quan hành chính thực hiện như:
cưỡng chế hành chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản
để giải phóng mặt bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan,
tổ chức vi phạm hành chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các
biện pháp cưỡng chế được quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm
hành chính như kê biên tài sản, khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức ...[19].
9


Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan điều tra được trao quyền cho thủ
trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định tại Khoản 2 Điều 34 Bộ luật
tố tụng hình sự như: quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, kê biên tài
sản ...[15]. Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được Nhà nước trao
quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 102 Bộ
luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê biên tài sản

tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác ...[17].
Ngoài ra cơ quan THADS cũng được Nhà nước trao quyền được áp dụng các
biện pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS
trong đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản …. [18]
Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp
viết cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan
THADS, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người
phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo
bản án, quyết định. Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành
án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi
tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án.[9, tr.215]
Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế: Để áp dụng được biện pháp
cưỡng chế thi hành án, cần phải hội đủ các điều kiện sau đây: Người phải thi
hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực hiện hành vi theo
bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài, quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; Người phải thi hành
án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án. Cho thấy,
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi
hành án có nghĩa vụ và hành vi phải thực hiện theo quyết định của cơ quan có
thẩm quyền, nhất là có thái độ và hành vi không tự nguyện thi hành án khi
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Theo khoản 6, Điều 3 Luật
10


THADS năm 2008, có điều kiện thi hành án là trường hợp người phải thi
hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc
thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở
nước ta hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và

THADS. Thi hành án hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý,
công tác THADS được Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng
chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án hình sự và THADS được thể hiện
ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án. Nếu như căn cứ cưỡng chế
thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong quyết định của bản án
hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình phạt tử hình. Thì
căn cứ cưỡng chế trong thi hành án dân sự lại là: Theo Điều 70 Luật THADS
năm 2008, căn cứ tổ chức cưỡng chế gồm có: bản án quyết định, quyết định
thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản, quyết định
đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Về tính chất cưỡng chế
hình sự có hiệu lực thi hành án ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp
luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự đối với người
phải thi hành án, họ không có thời gian tự nguyện thi hành án. Ngay sau có
quyết định thi hành án, người phải thi hành án hình sự phải chấp hành ngay
tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng chế bằng việc bắt hoặc
dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành án. Nhưng đối
với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu thi hành
án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên thực
hiện, Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người
phải thi hành án sau khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án ( theo khoản 1
điều 45 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 là 10 ngày)
11


trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy
hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài ra, cơ quan thi hành
án dân sự không không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng
trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống

đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án.
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam, “Kê” nghĩa là tính toán, còn “biên”
có nghĩa là ghi chép lại theo một trật tự nhất định[12]. Vậy kê biên có nghĩa
là tính toán và ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Thuật ngữ kê biên tài
sản được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý của nước ta như Pháp lệnh thi
hành án dân sự 1993, 2004, Luật thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi bổ
sung năm 2014… Do đó, có thể thấy rằng đây là một thuật ngữ pháp lý được
sử dụng nhiều trong pháp luật tố tụng dân sự. Trong từ điển pháp lý thông
dụng có định nghĩa kê biên tài sản như sau: “Kê biên tài sản là việc ghi lại
từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử và thi
hành án”[13]. Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính
toán và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể.
1.2.2 Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
Quyền sử dụng đất: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là
một loại tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng đối với con người. Ở Việt Nam,
khi nói đến quyền sở hữu đất đai, chúng ta thấy với tư cách chủ sở hữu, nhà
nước có đầy đủ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai. Trong các
quyền năng đó, quyền sử dụng là quyền có ý nghĩa thực tế lớn nhất, trực tiếp
đem lại lợi ích cho chủ sở hữu. Nhưng Nhà nước không trực tiếp sử dụng mà
giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng để khai thác
lợi ích từ đất dưới các hình thức giao đất, cho thuê và bảo hộ việc nhận
chuyển quyền sử dụng đất giữa người sử dụng với nhau.
Như vậy, quyền sử dụng đất trước hiết được hiểu là một quyền tự
nhiên, khi con người chiếm hữu đất đai thì họ sẽ thực hiện hành vi sử dụng
12


đất mà cụ thể là khai thác tính năng sử dụng đất mà không quan tâm đến hình
thức sở hữu của nó. Thông qua hành vi sử dụng đất mà con người có thể thỏa
mãn những nhu cầu của minh trong cuộc sống cũng như tạo ra của cải cho xã

hội. Ngoài ra, quyền sử dụng đất được xem như một quyền năng pháp lý tức
quyền năng này được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền sử dụng đất là một
loại quyền đặc trưng của người sử dụng đất, nó được phái sinh từ quyền sở
hữu toàn dân về đất đai. Đây là loại quyền phát sinh trên cơ sở kết hợp một
cách đặc thù quyền tài sản của chủ sở hữu với yếu tố quyền lực nhà nước.
Yếu tố quyền lực nhà nước được thể hiện ở chỗ Nhà nước ban hành các quy
định pháp luật một cách chặt chẽ về hình thưc, thủ tục, điều kiện, quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ sử dụng đất đai.
Quyền sử dụng đất là một trong loại tài sản có thể bị cưỡng chế kê biên
đảm bảo thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Kê biên
quyền sử dụng dất để thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng chế với người phải
thi hành án sau khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án, do chấp hành viên
tiến hành tính toán và ghi chép lại những quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất của người phải thi hành án theo một trật tự nhất định theo quy định pháp
luật nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Kê biên quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự là một trong những
biện pháp khó khăn và phức tạp nhất trong các biện pháp cưỡng chế hiện nay,
đặc biệt là thực hiện kê biên đối với người phải thi hành án là cá nhân. Bởi vì
như chúng ta đã biết đất đai là những tài sản lớn và vô cùng quan trọng của
mỗi người, đó là nơi sinh hoạt, sản xuất của mỗi gia đình hay là nơi thiêng
liêng, nơi có mộ phần ông bà, cha mẹ của người phải thi hành và cũng là nơi
mà nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ họ đã sống nơi đó. Nên việc cưỡng chế, tước
đi quyền năng của họ đối với tài sản này, buộc họ phải rời bỏ mảnh đất đó thì
có sự chây ỳ không muốn thưc hiện, thậm chí là kháng cự, chống đối là điều
không tránh khỏi.
13


Chính vì vậy, khi áp dụng biên pháp này phải đáp ứng đủ các điều kiện
như: Theo bản án, quyết định của tòa án, người phải thi hành án phải có nghĩa

vụ trả tiền cho người phải thi hành án; người phải thi hành án phải có tài sản
để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án. Tài sản bị kê biên có
thể là tài sản thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng của người phải thi hành án, tài
sản này có thể do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba quản lý, sử
dụng; đã hết thời gian tự nguyện do Chấp hành viên ấn định nhưng người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự
nguyện, nhưng cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản [30, tr.211].
Ngoài ra kê biên QSDĐ cần phải lưu ý một số điểm được quy định tại Mục 8
Luật THADS[25] như:
- Trước khi kê biên QSDĐ phải thông báo với Phòng đăng ký QSDĐ
biết. Đồng thời Chấp hành viên yêu cầu Phòng đăng ký QSDĐ cung cấp
thông tin về QSDĐ bị kê biên để làm cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật.
- Chấp hành viên chỉ được kê biên QSDĐ của người phải thi hành án thuộc
trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp về đất đai.
- Khi kê biên QSDĐ, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án,
người đang quản lý giấy tờ về QSDĐ phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan
THADS.
- Trường hợp kê biên QSDĐ có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở
hữu của người phải thi hành án thì Chấp hành viên kê biên cả QSDĐ và tài
sản gắn liền với đất. Trường hợp tài sản gắn liền với đất không thuộc quyền
sở hữu của người phải thi hành án thì Chấp hành viên chỉ kê biên QSDĐ và
thông báo cho người có tài sản gắn liền với đất biết để tháo dỡ, di rời.
Kê biên QSDĐ là một trong nhiều biện pháp kê biên tài sản của người
phải thi hành án trong THADS như: kê biên hoa lợi, kê biên phương tiện giao
thông, kê biên vốn góp, kê biên tài sản là đồ vật đang bị khóa hay đóng gói
...Tuy nhiên kê biên QSDĐ hiện nay là một trong những biện pháp kê biên
14


thực hiện phổ biến, nhưng khó khăn và phức tạp nhất trong các biện pháp kê

biên, cưỡng chế THADS.
Tóm lại: Kê biên QSDĐ là một biện pháp cưỡng chế THADS, do Chấp
hành viên thực hiện quyền lực Nhà nước để kê biên QSDĐ của người phải thi
hành án buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tiền theo
bản án, quyết định của tòa án, trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án.

1.2.3 Đặc điểm và ý nghĩa của kê biên QSDĐ trong Thi hành án dân sự
Đặc điểm của kê biên QSDĐ trong Thi hành án dân sự:
Mang tính quyền lực của Nhà nước, người áp dụng biện pháp kê biên là
người được Nhà nước trao quyền thực hiện quyền lực của Nhà nước nhằm
đảm bảo các bản án, quyết định của tòa án và các quyết định khác theo quy
định của pháp luật đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế. Quyền
lực Nhà nước còn thể hiện ở khía cạnh chỉ có cơ quan thi hành án mới có
quyền cưỡng chế kê biên và xử lý QSDĐ. Nhà nước không trao quyền này
cho bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào kể cả các văn phòng thừa phát lại cũng
không được ra quyết định cưỡng chế kê biên QSDĐ, quyền này thuộc về Cục
trưởng Cục THADS tỉnh xem xét phê duyệt kế hoạch và ra quyết định cưỡng
chế thi hành án trên cơ sở đề nghị của Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn
[5]. Tóm lại kê biên cưỡng chế QSDĐ mang tính quyền lực Nhà nước rõ rệt.
Nhà nước giao quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm thi
hành bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật trao cho Chấp hành
viên thực hiện.
Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự là một trong những
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự có tính nghiêm khắc nhất trong các
biện pháp cưỡng chế. Theo đó, khi bị kê biên, QSDĐ của người sử dụng đất
bị đặt vào tình trạng bị hạn chế giao dịch. Khi Chấp hành viên ban hành quyết
định cưỡng chế kê biên QSDĐ, thì kể từ thời điểm này người phải thi hành án
15



không được tự mình chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng
cho, góp vốn và thừa kế QSDĐ, nếu người phải thi hành muốn thực hiện các
quyền trên phải thông qua Chấp hành viên phụ trách vụ việc và phải được sự
cho phép của Chấp hành viên, đồng thời phải làm theo những điều kiện theo
quy định của pháp luật THADS. Việc hạn chế một số quyền này chấm dứt khi
người phải thi hành án hoàn thành nghĩa vụ tài sản của mình đối với người
được thi hành án, bằng quyết định giải tỏa kê biên QSDĐ của Chấp hành
viên, đến thời điểm này QSDĐ của người phải thi hành án mới không bị hạn
chế giao dịch.
Đối tượng kê biên là một loại tài sản đặc biệt
Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự là một quá trình
gồm nhiều thủ tục pháp lý liên quan chặt chẽ với nhau. Các trình tự thủ tục
thực hiện đòi hỏi Chấp hành viên phải thực hiện các thủ tục chặt chẽ từ khi
nhận hồ sơ thi hành án, lập hồ sơ thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án,
thông báo thi hành án, ra quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất,
định giá quyền sử dụng đất, bán đấu giá quyền sử dụng đất, giao quyền sử
dụng đất đến thanh toán tiền bán đấu giá đều phải theo một trình tự chặt chẽ
do Luật THADS và các văn bản dưới luật điều chỉnh. Ngoài ra Chấp hành
viên còn phải tuân thủ theo các văn bản pháp luật liên quan đến thi hành án đó
là Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật đất đai, Luật hôn nhân gia đình
... Như vậy Chấp hành viên kê biên quyền sử dụng đất phải thực hiện theo
trình tự chặt chẽ do pháp luật quy định.
Kê biên quyền sử dụng đất là một hoạt động rất nhạy cảm, ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của người phải thi hành án. Nếu thủ tục ban đầu không
được thực hiện một cách đầy đủ và đúng pháp luật, thì khi có khiếu nại phát
sinh, cơ quan thi hành án không có cơ sở bác khiếu nại của đương sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả

16



một quá trình thi hành án sẽ bị ngưng trệ, thậm chí phải làm lại từ đầu, gây
tốn kém về thời gian và tiền bạc của Nhà nước.
Ý nghĩa của kê biên quyền sử dụng đất trong Thi hành án dân sự
Thứ nhất, kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự góp phần
củng cố và thi hành triệt để kết quả của công tác xét xử trước đó.
Quyền sử dụng đất là tài sản có giá trị lớn, vì vậy khi Chấp hành viên
thực hiện biện pháp cưỡng chế này phần lớn thi hành triệt để bản án, quyết
định của tòa án có nghĩa vụ tài sản có giá trị lớn mà các biện pháp cưỡng chế
khác không mang lại hiệu quả như biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án, kê biên tài sản có giá trị không lớn, Thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án … Mặt khác đối với người phải
thi hành án, phải thi hành nhiều bản án, quyết định của tòa án, do đó họ phải
thực hiện nhiều nghĩa vụ về trả tiền thì việc xử lý QSDĐ sẽ bảo đảm thi hành
triệt để không những một bản án, quyết định mà còn thi hành triệt để nhiều
bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ hai, kê biên quyền sử dụng đất còn có tác dụng lớn trong việc răn
đe, giáo dục ý thức pháp luật cho mọi công dân.
Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự không chỉ là hoạt
động nghiệp vụ của riêng cơ quan thi hành án dân sự mà đó là sự kết hợp với
vai trò và trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương là sự
phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức hữu quan và mỗi thành viên trong
cộng đồng xã hội. Vì vậy thông qua buổi cưỡng chế kê biên quyền sử dụng
đất nhằm răn đe những đối tượng trây ỳ, chống đối không thực hiện nghĩa vụ
của mình. Mặt khác thông qua buổi cưỡng chế nhằm giáo dục ý thức pháp
luật cho mỗi công dân hiểu biết thêm pháp luật về THADS để họ tự điều
chỉnh hành vi của mình trong những trường hợp tương tự.

17



1.3 Khái quát chung lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự ở nước ta.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của đất nước, hệ
thống pháp luật Việt Nam từng bước được củng cố và hoàn thiện, góp phần
ổn định kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN, tạo được niềm tin sâu rộng
trong quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Trong đó, vai trò của
hệ thống pháp luật về Thi hành án dân sự nói chung, các qui định về kê biên
quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự nói riêng cũng đóng góp một phần
quan trọng trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nước nhà. Quá trình
hình thành và phát triển pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất để thi hành án
dân sự nước qua đã trải qua các giai đoạn như sau:
1.3.1 Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1989
Năm 1946. Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà về Cách tổ chức các toà án và các ngạch
thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được ban hành, theo đó
Ban tư pháp xã, phường có quyền “hoà giải tất cả các việc dân sự và thương
sự…, phạt các việc vi cảnh…, thi hành các mệnh lệnh của thẩm phán cấp
trên”[7]. Ở miền Nam, hoạt động thi hành án nói chung đều do Thừa phát lại
đảm nhiệm. Thừa phát lại do Tổng trưởng Bộ Tư pháp của chế độ Việt Nam
cộng hoà bổ nhiệm, thực hiện nhiệm vụ thi hành án trong phạm vi quản hạt
của Toà sơ thẩm mà Thừa phát lại có trụ sở. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên
cho công tác tổ chức thi hành án dân sự ở nước ta.Đến 1949. Thông tư số 24BK ngày 26/4/1949 cũng được ban hành, thông tư đã xác định trách nhiệm thi
hành án của Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã và nhấn mạnh vai trò của Uỷ ban
nhân dân xã và các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án. Rõ
ràng Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
trong giao lưu dân sự, thương mại và tố tụng mà còn đảm bảo quyền tự định

18



đoạt của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng sự
cưỡng chế của Nhà nước.
Năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày
22/5/1950 quy định “thẩm phán huyện dưới sự kiểm sát của biện lý có nhiệm
vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án
hộ, mà chính toà án huyện hay toà án trên đã tuyên” [8]. Như vậy, theo quy
định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực
hiện trước đây đã được chuyển giao cho thẩm phán huyện, dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Chánh án. Đó là sự thay đổi trong cơ chế thi hành án, từ cơ chế
theo yêu cầu của bên được thi hành án sang cơ chế toà án chủ động thi hành
án. Nhà Nước thực thi trách nhiệm thi hành án thông qua việc Toà án chủ
động thi hành án dân sự mà không cần chờ đến yêu cầu của các đương sự.
Năm 1960 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 được ban hành.
Trong đó quy định: “tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp
hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định về dân sự, những
khoản về bồi thường tài sản trong các bản án và quyết định về hình sự”[22].
Ngày 13 tháng 10 năm 1972 Chánh án Toà án nhân dân tối cao ban hành
Quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên
tại các Toà án nhân dân khu phố, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và cùng với đó Thông tư số 187 -TC ngày
13/10/1972 của Tòa án nhân dân tối cao ban hành hướng dẫn thực hiện Quyết
định số 186/TC ngày 13/10/1972 về tổ chức nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp
hành viên các TAND địa phương. Trong thời gian này Cơ quan thi hành án
không được tổ chức riêng mà giao cho Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành
các bản án, quyết định của Toà án; giúp Chánh án kiểm tra, đôn đốc công tác
thi hành án tại các Tòa án cấp dưới.
Đến năm 1981 Luật tổ chức tòa án 1981 và tại Nghị định 143/HĐBT
ngày 22 tháng 11 năm 1981 của Hội đồng bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ,

19


×