VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
________________________________
NGUYỄN THỊ ANH TẤN
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Văn Thuận
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Đề tài, tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ rất nhiệt tình và có hiệu quả của Khoa Triết học, Học viện
Khoa học xã hội, của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
huyện Phù Ninh, Đảng ủy và Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn của
huyện Phù Ninh. Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy, cô giáo
trong khoa Chính trị học, Học viện khoa học xã hội; đặc biệt là cảm
ơn TS. Nguyễn Văn Thuận, Nguyên chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật
Quốc Hội khóa XII, người đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong
việc hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, các phòng, ban, ngành, đoàn thể huyện Phù Ninh; xin cản
ơn các Đảng ủy, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn và bà con nhân dân
đã giúp đỡ, cộng tác cùng tôi để Đề tài được thực hiện kịp tiến độ theo
kế hoạch.
Phú Thọ, ngày 25 tháng 8 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Anh Tấn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ luận văn của một học vị
nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ dẫn rõ ràng
về nguồn gốc, xuất xứ.
Phú Thọ, ngày 25 tháng 8 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Anh Tấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VÀ PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ...................... 11
1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta .............. 11
1.2. Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam ................ 19
1.3. Các yếu tố tác động đến hiệu quả giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận tổ quốc Việt Nam.................................................................................. 33
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN
XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ
THỌ ................................................................................................................ 38
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của huyện Phù Ninh và tổ
chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc huyện Phù Ninh .................................. 38
2.2. Thực trạng việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam huyện Phù Ninh từ năm 2010 đến nay .................. 44
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN
TỔ QUỐC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ ... 60
3.1. Quan điểm tăng cường hoạt động giám sát và phản biện của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam ....................................................................................... 60
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc ............................................................................. 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 87
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ban TTND
:
Ban Thanh tra nhân dân
Ban GSĐTCCĐ
:
Ban giám sát đầu tư của cộng đồng
HĐND
:
Hội đồng nhân dân
MTTQ
:
Mặt trận Tổ quốc
PBXH
:
Phản biện xã hội
UBND
:
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
MTTQ Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị nước Việt Nam.
Sự qui định này do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, xuất phát từ thể chế
chính trị nước ta là một nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam là vấn đề không mới, đã được quy
định trong Hiến pháp năm 1992, Luật MTTQ Việt Nam năm 1999 và trong nhiều văn
bản pháp luật khác. Về chức năng phản biện xã hội “...trước Hiến pháp năm 2013,
không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về hoạt động phản biện xã hội của
MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội mà chỉ dừng ở mức độ quy định về
hoạt động góp ý kiến...” (23, tr, 75). Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn cho thấy
vai trò giám sát và phản biện của MTTQ đã được khẳng định qua các lần Đại hội Đảng
toàn quốc, cụ thể: Trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX nêu "MTTQ Việt Nam và các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện
vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân… tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực
hiện giám sát của nhân dân… [12]; Văn kiện Đại hội lần thứ X đã đề cập thêm nội
dung Phản biện xã hội: "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân thực hiện tốt vai trò giám sát và PBXH…" [13]; Văn kiện Đại hội lần thứ XI của
Đảng chỉ rõ: “Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và PBXH” [14].
Văn kiện Đại hội XII tiếp tục nêu: “tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân, MTTQ đóng vai
trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội, giám sát và PBXH tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động
đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc" [15, tr.166].
1
Về cơ sở pháp lý, vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQ đã được
khẳng định trong Luật MTTQ Việt Nam và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Tại mục 5 Điều 3, Luật MTTQ Việt Nam năm 2015 quy định
quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam “Thực hiện giám sát và phản
biện xã hội” [8, tr.1]; Hiến pháp năm 2013 quy định: “...MTTQ Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [33, tr.11].
Chức năng giám sát và phản biện xã hội được đề cập lần đầu tiên trong Hiến
pháp một cách có hệ thống và được cụ thể hóa bằng Quy chế.
Nâng cao vai trò, vị trí của MTTQ Việt Nam trong hệ thống chính trị và đời
sống xã hội là một yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã ban hành
Quyết định số 217-QĐ/TW, về việc ban hành Quy chế Giám sát và PBXH của
MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW, ban
hành Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Hòa chung quá trình lịch sử phát triển của đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Phù Ninh đã từng bước chuyển mình. Với diện tích tự
nhiên là 15.637,32 ha, dân số 106.789 người, có 19 đơn vị hành chính (18 xã và
01 thị trấn). Nằm ở vị trí Đông bắc tỉnh Phú Thọ, phía Bắc giáp huyện Đoan
Hùng, phía nam giáp thành phố Việt Trì và huyện Lâm Thao, phía Tây giáp thị xã
Phú Thọ và huyện Thanh Ba, phía đông có tuyến sông Lô bao bọc là ranh giới với
huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Trên địa bàn huyện có nhiều doanh nghiệp của
Trung ương, của tỉnh như Tổng công ty Giấy Việt Nam, các cụm công nghiệp
2
Đồng Lạng, Tử Đà, Phú Gia…; Huyện có hệ thống giao thông thuận lợi chạy qua
như tuyến đường Quốc lộ 2, Cao tốc Nội bài - Lào Cai, đường thủy, đường bộ đa
dạng. Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới,
góp phần quan trọng xây dựng khối đoàn kết toàn dân, nâng cao năng lực, vai trò
lãnh đạo của cấp ủy đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đổi
mới [4, tr,10,11,12].
Bên cạnh những thuận lợi, sự phát triển của huyện Phù Ninh cũng gặp không ít
những khó khăn, thách thức. Trong đó vai trò của MTTQ có lúc, có nơi hoạt động
chưa hiệu quả, MTTQ chủ yếu vẫn là tập hợp ý kiến phản ánh, kiến nghị của cán
bộ, nhân dân về chế độ, chính sách.. chứ chưa có nhiều ý kiến thực sự khoa học nêu
ra để xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh. Vai trò của MTTQ mới
chỉ dừng lại ở chức năng giám sát mà chưa có phản biện mặc dù được quy định rõ
trong Luật MTTQ nhưng thực tế cho thấy, cách thức, đối tượng, cơ chế ràng buộc
của giám sát, phản biện xã hội vẫn chưa thực sự cụ thể. Có một thực tế cho thấy khi
xã hội phát triển, trình độ dân trí được nâng cao thì người dân có xu hướng quan
tâm đến những vấn đề chính trị, đến những quyết sách của Đảng và Nhà nước và
chủ động tích cực lên tiếng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình
nhiều hơn. Chính vì vậy là một cán bộ đang làm việc tại cơ quan Ủy ban MTTQ
huyện Phù Ninh, bản thân tác giả luận văn luôn suy nghĩ, trăn trở và đặt câu hỏi:
làm thế nào để hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ nói chung và của huyện
Phù Ninh nói riêng hoạt động có hiệu quả, góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI, XII) “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Xuất phát từ điều đó, tác giả lựa chọn đề tài:
“Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ
thực tiễn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm luận văn thạc sĩ Chính trị
học và hy vọng qua đó sẽ góp phần vào việc tăng cường hoạt động giám sát và
PBXH của MTTQ huyện Phù Ninh hiện nay và trong những năm tiếp theo.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động của MTTQ Việt Nam trong những năm gần đây nhận được
sự quan tâm của nhiều các nhà khoa học. Đã có nhiều công trình, đề tài
nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực này. Trong tổng quan nghiên cứu đề tài, tác
giả có liệt kê, tham khảo một số công trình có liên quan. Đây là những tài liệu
tham khảo khá quan trọng, giúp ích rất nhiều cho tác giả trong quá trình
nghiên cứu, xây dựng đề tài này.
Đây là một công trình nghiên cứu khá hệ thống về việc đánh giá thực hiện
chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam trên địa bàn huyện Phù Ninh.
Các công trình nghiên cứu về hoạt động giám sát của MTTQ:
2.1. Sách
- Nguyễn Thọ Ánh (2012), Thực hiện chức năng giám sát và PBXH của
MTTQ Việt Nam hiện nay. Tác giả khẳng định giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta; tác giả trình bày về vị trí, vai trò của
MTTQ Việt Nam trong hệ thống chính trị, hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của MTTQ Việt Nam; thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng
cao chất lượng giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam.
- Phạm Hồng Chương - Doãn Thị Chín (đồng chủ biên), (tháng 32016), Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, Nội dung cuốn sách này khái quát
nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh;
phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh…
- Vũ Trọng Kim (2016), Tập bài giảng về công tác Mặt trận, Đây là một công
trình nghiên cứu và tập hợp các bài viết của tác giả làm sáng tỏ một số vấn đề trong
hoạt động của MTTQ góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy
vai trò của MTTQ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế.
4
2.2. Các bài viết trên báo, tạp chí viết về giám sát
- Nguyễn Xuân Huy (2013), Về chức năng giám sát của MTTQ Việt Nam,
Tạp chí cộng sản, số ra ngày 26/6/2013. Tác giả khẳng định giám sát sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, là nhiệm vụ rất quang trọng của MTTQ, chỉ ra những
hạn chế trong cơ chế giám sát và đề xuất cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam.
- Lê Khả Phiêu (2014), Phải làm gì để nhân dân, Mặt trận giám sát được
hoạt động của Đảng và Nhà nước, Tạp chí Mặt trận, (số 131); Tác giả khẳng
định trong toàn bộ công tác vận động cách mạng của Đảng, khi nào Đảng coi
trọng công tác Mặt trận, có khẩu hiệu chiến lược và sách lược đúng, có phương
thức và biện pháp tập hợp rộng rãi lực lượng đại đoàn kết dân tộc thì các mục
tiêu cách mạng hoàn thành thắng lợi. Đảng dựa vào thực tiễn là dựa vào nhân
dân, là do nhân dân, từ nhân dân, là dân phải làm chủ. Muốn dân chủ thì phải có
giám sát. Không có giám sát thì không có dân chủ, thì khó tránh được khuyết
điểm sai lầm, khó phát hiện và sửa chữa khuyết điểm và sai lầm. Tác giả cho
rằng: Đảng, Nhà nước rất cần thiết sự giám sát của nhân dân, của Mặt trận.
- Đỗ Phương (2014), Lại bàn về giám sát và PBXH, Tạp chí Mặt trận,
(số 133); Tác giả của bài viết đề cập đến vị trí, vai trò giám sát trong xã hội
hiện nay còn nhiều hạn chế, để phát huy vai trò giám sát và phản biện cần
những thay đổi cơ chế và tổ chức quản lý nếu không giám sát và PBXH chỉ là
cụm từ sử dụng trong tổ chức MTTQ Việt Nam mà thôi.
- Bùi Thị Nguyệt Thu (2015),”Hoạt động giám sát của MTTQ Việt
Nam thực tiễn và một số kiến nghị”, tạp chí Dân Chủ và Pháp luật. Tác giả đã
nhấn mạnh một số kết quả trong quá trình thực hiện chức năng giám sát của
MTTQ Việt Nam và chỉ ra một số tồn tại, hạn chế dẫn đến hiệu quả, hiệu lực
giám sát của MTTQ Việt Nam còn thấp. Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra nguyên
nhân và một số kiến nghị để công tác giám sát của MTTQ Việt Nam đi vào
thực chất và hiệu quả.
5
- Ngô Sách Thực (2017), “Những vấn đề đặt ra trong công tác giám sát
và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận, (số 166 + 167).
Bài viết nêu ra những kết quả đã đạt được trong công tác giám sát và phản
biện xã hội của MTTQ Việt Nam hiện nay, chỉ ra những hạn chế, nguyên
nhân; đề ra các nội dung để tiếp tục làm tốt hơn công tác giám sát và phản
biện xã hội của MTTQ Việt Nam trong thời gian tiếp theo.
2.3. Các bài viết trên báo, tạp chí viết về phản biện
- Hoàng Chí Bảo (2013), “Nâng cao năng lực giám sát - phản biện:
Đòi hỏi từ thực tiễn - Biết nghe phản biện từ dân là thực thi ủy quyền của
dân”, Báo Đại đoàn kết, (số 269). Tác giả cho rằng: Biết nghe phản biện từ
dân là thực thi ủy quyền của dân và nếu tập hợp đầy đủ, phân tích khoa học,
đánh giá một cách khách quan và trung thực thì đây sẽ là nguồn thông tin
chân thật, sống động và giúp ích thiết thực nhất đối với lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước cũng như hoạt động xã hội, làm công tác dân vận của
Mặt trận, của các đoàn thể nhân dân.
- Nguyễn Trọng Bình (2010), “PBXH của MTTQ Việt Nam – Thực
trạng và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Mặt trận, (số 7). Tác giả đã nhấn
mạnh một số kết quả trong quá trình thực hiện chức năng PBXH của MTTQ
Việt Nam và nhận định một số tồn tại, hạn chế dẫn đến hiệu quả, hiệu lực
phản biện của MTTQ Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu; PBXH
hiện nay chủ yếu mới chỉ dừng lại ở hình thức góp ý. Trên cơ sở đó tác giả chỉ
ra nguyên nhân và một số vấn đề cần giải quyết để PBXH của MTTQ Việt
Nam đi vào thực chất và hiệu quả.
- Trần Đức Châm (2014), PBXH bản chất là thực hành dân chủ, Tạp chí
Mặt trận, (số 132). Bài viết đề cập đến việc thực hiện Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” ở cơ sở. Tác giả cho rằng với kinh nghiệm phong phú vận động
quần chúng trong nhiều thập niên qua, MTTQ hoàn toàn có thể phát huy vai trò
6
tốt hơn trong việc khơi dậy tiềm năng sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân; phát
huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và mỗi người dân
trong việc quản lý và tổ chức đời sống cộng đồng theo quy định của pháp luật
cũng như tham gia các hoạt động PBXH. Từ đó cũng đề nghị Nhà nước tiếp tục
hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến PBXH và giám sát công việc của
Đảng, nhà nước.
- Nguyễn Văn Pha (2016), Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam tham
gia giám sát và PBXH, Tạp chí tuyên giáo, (số 4). Tác giả đã nhấn mạnh một
số kết quả trong quá trình thực hiện chức năng giám sát của MTTQ Việt Nam
và nhận định một số tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra nguyên nhân
và một số vấn đề cần giải quyết công tác giám sát của MTTQ Việt Nam đi
vào thực chất và hiệu quả.
- Nguyễn Văn Quang (2012), “PBXH nhằm tạo sự đồng thuận”, Tạp chí
Mặt trận, (số 107). Bài viết đã nêu ra vai trò của PBXH với đồng thuận xã hội, từ
đó rút ra rào cản trong quá trình thực hiện PBXH. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra
một số giải pháp cơ bản để công tác phản biện có hiệu quả. Tác giả nhấn mạnh
vai trò của PBXH đối với sự đồng thuận xã hội là rất lớn. Xã hội muốn phát triển
cần phải coi trọng công tác PBXH. Đặc biệt là phản biện trong quá trình xây
dựng chính sách, pháp luật nhằm tạo ra sự đồng thuận trong việc thực hiện.
2.4. Các Luận án Tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
- Phạm Thế Dân (2015), ”thực hiện PBXH của MTTQ tỉnh Ninh Bình",
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Đại học KHXH và nhân văn, Hà Nội. Trên
cơ sở làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, chức năng của
MTTQ Việt Nam, tầm quan trọng của PBXH đối với quá trình thực thi quyền
lực chính trị và quyền lực nhà nước ở nước ta, khảo sát thực trạng PBXH,
luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện chức
năng PBXH của MTTQ Việt Nam.
7
- Trần Thị Hồng Loan (2017), “Nâng cao vai trò giám sát và phản biện của
MTTQ tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện KHXH,
Hà Nội. Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ
Việt Nam; thực trạng hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ tại Thành phố Hồ
Chí Minh và nêu quan điểm, giải pháp tăng cường hoạt động giám sát, PBXH của
MTTQ Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Vũ Thị Như Hoa (2013), Nâng cao chất lượng PBXH của MTTQ Việt
Nam ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về PBXHvà vai trò của
MTTQ Việt Nam trong PBXH, khẳng định PBXH là xu thế tất yếu của sự phát
triển, là nhu cầu của cuộc sống và đưa ra hệ thống các tiêu chí đánh giá chất
lượng PBXH; đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng PBXH của MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã có nhiều hướng tiếp cận và
nghiên cứu tương đối sâu sắc về hoạt động giám sát, phản biện xã hội của
MTTQ Việt Nam, cũng như đề cập tới các biện pháp phối hợp thực hiện để
hoạt động giám sát, PBXH ngày càng hiệu quả hơn. Đây là những gợi ý quan
trọng để tác giả kế thừa và tìm hiểu thêm về hoạt động giám sát và PBXH của
MTTQ ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ với mong muốn có cái nhìn khái
quát, toàn diện hơn về thực trạng cũng như góp phần đề xuất một số giải pháp
nhằm tăng cường công tác giám sát, PBXH của MTTQ Việt Nam nói chung
và của MTTQ huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động giám sát và PBXH
của MTTQ huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất một số quan điểm và
giải pháp nhằm tăng cường hoạt động này trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
8
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ Việt
Nam đối với cấp huyện.
- Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ huyện
Phù Ninh giai đoạn từ năm 2010 đến nay, chỉ rõ những nguyên nhân, rút ra
bài học kinh nghiệm và làm rõ những vấn đề đang đặt ra.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam huyện Phù Ninh,
tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ
Việt Nam huyện Phù Ninh trong thời gian từ năm 2010 đến nay. Đây là
khoảng thời gian gắn với nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ huyện, nhiệm kỳ
Hội đồng nhân dân huyện, trong đó MTTQ và các tổ chức chính trị - xã
hội phát huy vai trò tập hợp vận động các tầng lớp nhân dân tham gia
xây dựng Đảng, chính quyền, giám sát, PBXH đạt được một số kết quả
đáng khích lệ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ, về kiểm soát quyền lực, quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về thực thi quyền lực nhân dân, về vai trò của nhân dân, của
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát hoạt động của bộ
9
máy Đảng và Nhà nước, thực hiện PBXH trong quá trình hình thành đường
lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước. Đồng thời tham
khảo những tài liệu của các công trình nghiên cứu khoa học, các văn kiện, số
liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, để thực
hiện được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp
như: Phương pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp tra cứu tài liệu, phương pháp so sánh, phương pháp thu thập và
xử lý thông tin...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn cung cấp cơ sở lý luận về giám sát và PBXH của MTTQ
Việt Nam. Những luận chứng, luận cứ để thực hiện tốt hơn hoạt động giám
sát và PBXH của MTTQ Việt Nam trên địa bàn huyện Phù Ninh.
- Chỉ ra những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và làm rõ những vấn
đề đang đặt ra trong hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam
huyện Phù Ninh giai đoạn từ năm 2010 đến nay.
- Xác định quan điểm và đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm
tăng cường hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam trên địa bàn
huyện Phù Ninh đến năm 2020.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
bảng chữ viết tắt, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN
XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta
1.1.1. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo. Trải qua các thời kỳ cách mạng với
những hình thức tên gọi khác nhau, Mặt trận không ngừng lớn mạnh và đóng
góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và cùng với Đảng, Nhà nước hợp
thành những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính trị nước ta.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/2/1930) trong nội dung
chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng chỉ ra sự cần thiết xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm
đoàn kết các tầng lớp trong xã hội, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã
hội, tổ chức xã hội, các cá nhân ... phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu chung, xây dựng một xã
hội hòa bình, tự do và hạnh phúc.
Ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chỉ thị thành lập Hội Phản để Đồng minh, đây là hình thức đầu tiên của Mặt
trận dân tộc thống nhất, một hình thức liên minh chính trị của giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các lực lượng yêu nước khác. Và từ đó đến nay, trong
lịch sử cách mạng Việt Nam chưa bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận. Khi
Đảng chưa giành được chính quyền, Mặt trận đã tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, vận động, giác ngộ, tập hợp nhân dân , đồng thời thực hiện
một số chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở vùng giải phóng. Sau khi Đảng
giành được chính quyền, Mặt trận trở thành thành viên của hệ thống chính trị.
Mặt trận cùng với Đảng, Nhà nước là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm
11
chủ của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà
nước, Mặt trận đã vận động các tầng lớp nhân dân đoàn kết chiến đấu bảo vệ đất
nước. Hiện nay trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, vị trí của Mặt trận ngày
càng được xác định rõ hơn thông qua việc đề ra các chủ trương, đường lối của
Đảng, thể hiện rõ trong Hiến pháp, trong các văn bản luật đặc biệt là Luật Mặt
trận tổ quốc Việt Nam và sự thừa nhận của các tầng lớp nhân dân.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng ngày càng tiếp tục khẳng địh
vị trí quan trọng của Mặt trận trong hệ thống chính trị. Cụ thể như Chỉ thị 17
ngày 18/4/1983 của Ban Bí thư (khóa V); Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII; Đại hội lần thứ X
Như vậy, vị trí của MTTQ Việt Nam do chính nhân dân, chính lịch sử
xác định và thừa nhận. Pháp luật khẳng định MTTQ Việt Nam "là một bộ
phận của hệ thống chính trị của nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
MTTQ Việt Nam với tư cách là thành viên của hệ thống chính trị có chức
năng, nhiệm vụ riêng và tồn tại, hoạt động trong mối liên hệ với các thành
viên khác của hệ thống chính trị. Địa vị này còn do yêu cầu khách quan của
sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải xây dựng khối đại đoàn kết các lực lượng
tiến bộ của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam để xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Địa vị pháp lý của MTTQ Việt Nam còn do đặc điểm, cấu trúc của hệ
thống chính trị Việt Nam quy định, hệ thống đó không tổ chức vận hành theo
hình thức đa nguyên, đa đảng mà Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo.
Vì vậy, cả về góc độ pháp lý, cả về góc độ lịch sử và hoạt động thực
tiễn đều khẳng định MTTQ Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được
của hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vai trò của MTTQ không chỉ tự Mặt trận khẳng định mà còn do chính
nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận tổ
12
quốc Việt Nam giữ vai trò rất quan trọng việc củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta xác định "MTTQ Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân
tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [14, tr.86-87].
Luật MTTQ Việt Nam 2015 quy định: “Kế thừa vai trò lịch sử của Mặt
trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp
xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài" [8, tr.1].
Là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn, Mặt
trận tổ quốc Việt Nam có vai trò củng cố và tăng cường và củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân, góp phần tạo nên sự đồng thuận xã hội trong toàn
dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, động
viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, hăng hái tham gia các phong trào
thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng, thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặt trận Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Vai trò của
MTTQ Việt Nam được Đảng, nhà nước quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật nên MTTQ Việt Nam có vai trò vị trí như tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước; thực hiện giám sát và PBXH; Hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cùng cấp và tham gia công tác bầu
cử theo quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND;
ra lời kêu gọi nhân dân hưởng ứng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, MTTQ Việt Nam đối với những sự kiện quan trọng khi cần thiết…
13
Hiện nay trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển đòi hỏi phải tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do
vậy vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội càng quan trọng. Nâng
cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội
là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Về quyền và trách nhiệm của MTTQ Việt Nam ghi trong Luật MTTQ:
1. Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ,
tăng cường đồng thuận xã hội; 2. Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; 3. Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân; 4. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; 5. Thực hiện giám sát
và PBXH; 6. Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để
phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước; 7. Thực hiện hoạt động đối ngoại
nhân dân [8, tr.1-2].
Hiến pháp năm 2013 xác định:
1. MTTQ Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. MTTQ Việt Nam là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, PBXH; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. 2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội LHPNViệt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là
các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và
14
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức
mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất
hành động trong MTTQ Việt Nam. 3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam, các tổ
chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động [33, tr.11].
Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều quy định mới liên quan đến quyền và
trách nhiệm cũng như chức năng, nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam. Hiến pháp đã
hiến định chức năng giám sát, PBXH của MTTQ Việt Nam; hiến định được
chức năng Mặt trận đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
các tầng lớp nhân dân; về các tổ chức thành viên của MTTQ Việt Nam đã ghi rõ
5 tổ chức chính trị xã hội (Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội LHPN Việt Nam, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam) và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận có trách nhiệm thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình, đồng thời phối hợp và thống nhất
hành động trong MTTQ Việt Nam. Điều này khẳng định MTTQ Việt Nam là
một thể thống nhất, bao gồm Uỷ ban MTTQ và các tổ chức thành viên. Theo đó
chức năng của MTTQ Việt Nam là tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân
dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường đồng thuận trong xã hội;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia
xây dựng Đảng, Nhà nước; Giám sát, PBXH. Tương ứng với những chức năng
cơ bản trên, MTTQ Việt Nam có những nhóm nhiệm vụ cơ bản như: tuyên
truyền, vận động nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thực hiện dân chủ,
tăng cường đồng thuận xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giám sát và
PBXH; tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị
với Đảng và Nhà nước; thực hiện và mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân.
15
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
huyện
Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện do Đại hội đại biểu MTTQ huyện
hiệp thương dân chủ cử, là cơ quan chấp hành giữa hai nhiệm kỳ đại hội, có
trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam, tổ chức và hoạt
động theo Điều lệ của MTTQ Việt Nam phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Tổ
chức, hoạt động của Uỷ ban MTTQ Việt Nam huyện được thực hiện theo
nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động
Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện có nhiệm vụ họp thường kỳ 6 tháng một lần
hoặc họp bất thường, họp chuyên đề theo đề nghị của Ban thường trực cùng cấp.
Uỷ ban MTTQ Việt Nam cấp huyện là một cơ quan trong hệ thống
chính trị của huyện do Huyện uỷ lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành
động của các thành viên.
Cơ quan Uỷ ban MTTQ Việt Nam huyện có chức năng nhiệm vụ là
tham mưu, giúp việc cho Ban Thường trực, Uỷ ban MTTQ Việt Nam
huyện về công tác Mặt trận ở địa phương, có nhiệm vụ thảo luận, đánh giá về
kết quả thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành động thời gian
qua; quyết định chương trình phối hợp và thống nhất hành động của Uỷ ban
MTTQ Việt Nam thời gian tiếp theo.
Quyết định kế hoạch chuẩn bị Đại hội MTTQ Việt Nam huyện nhiệm
kỳ tiếp theo, theo hướng dẫn của Uỷ ban MTTQ Việt Nam cấp trên; Hiệp
thương dân chủ cử Ban Thường trực; cử, cử bổ sung, thay thế, cho thôi các
chức danh Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, các Uỷ viên Thường trực, Uỷ viên Uỷ
16
ban MTTQ Việt Nam huyện; Xét, quyết định kết nạp làm thành viên của
MTTQ Việt Nam cấp huyện.
Ra lời kêu gọi, vận động nhân dân trong huyện hưởng ứng thực hiện
các chủ trương của Đảng, Nhà nước và MTTQ Việt Nam. Triển khai thực
hiện các phong trào thi đua yêu nước; chủ trì phối hợp triển khai cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, Cuộc vận
động “Ngày vì người nghèo”,...
- Uỷ viên Uỷ ban có nhiệm vụ tập hợp, phản ánh ý kiến, kiến nghị của
nhân dân và thông báo kết quả thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất
hành động với Uỷ ban MTTQ Việt Nam cùng cấp; tuyên truyền, vận động hội
viên, đoàn viên, nhân dân thi hành Hiến pháp, pháp luật và thực hiện tốt
chương trình hành động của MTTQ Việt Nam; vận động các thành viên của
MTTQ Việt Nam thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc và
tham gia công tác Mặt trận ở nơi cư trú.
Uỷ viên Uỷ ban được mời họp Uỷ ban, tham gia các Ban tư vấn của Uỷ
ban MTTQ Việt Nam huyện; được thảo luận, chất vấn phê bình kiến nghị về
tổ chức và hoạt động của Uỷ ban; được cung cấp các điều kiện cần thiết cho
hoạt động.
- Về mối quan hệ công tác, quan hệ công tác giữa Uỷ ban MTTQ Việt
Nam huyện với Thường trực HĐND và UBND huyện là quan hệ phối hợp để
thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật;
Quan hệ phối hợp công tác giữa Uỷ ban MTTQ Việt Nam huyện với Thường
trực HĐND, UBND huyện được thực hiện theo Quy chế phối hợp.
- Quan hệ công tác giữa Uỷ ban MTTQ huyện với các tổ chức thành
viên cùng cấp. Uỷ ban MTTQ huyện chủ trì việc hiệp thương dân chủ giữa
các thành viên để bàn bạc thực hiện nhiệm vụ chung của địa phương, cùng
xây dựng chương trình phối hợp và thống nhất hành động, cùng nhau thực
17
hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành động đã đề ra. Cấp ủy Đảng
vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo MTTQ Việt Nam huyện.
- Quan hệ công tác giữa Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ huyện với
Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã là quan hệ hướng dẫn, kiểm tra thực
hiện theo quy định của Điều lệ MTTQ Việt Nam. Quan hệ giữa Ban Thường
trực Uỷ ban MTTQ huyện với cấp uỷ, chính quyền cấp xã được thực hiện
theo các quy định của Đảng và Nhà nước.
- Trong quan hệ với nhân dân, Uỷ ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức
thành viên của MTTQ Việt Nam các cấp mở rộng và đa dạng hoá các hình
thức tập hợp nhân dân, phát huy vai trò người tiêu biểu, xây dựng cộng đồng
dân cư tự quản hoạt động trên cơ sở hương ước, quy ước; động viên nhân dân
phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước; thường
xuyên tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ảnh, kiến nghị với Đảng
và Nhà nước; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong các văn
bản pháp luật, công tác giám sát của MTTQ huyện đã tập trung vào các nội
dung hoạt động và với những phương thức sau đây: Tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền; Giám sát hoạt động của đại biểu dân cử; Giám
sát việc thực thi chính sách pháp luật trên cơ sở đó, MTTQ đề nghị với Nhà
nước xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chính sách, pháp luật cho phù
hợp với thực tiễn của đời sống xã hội; Giám sát việc giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân; Giám sát đối với cán bộ, công chức và đảng
viên ở khu dân cư; Giám sát hoạt động tư pháp…
Từ nhiệm vụ chung của MTTQ nêu trên, Ủy ban MTTQ căn cứ vào yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ và tình hình cụ thể của mỗi địa phương để đề
18
ra nhiệm vụ cụ thể cho Mặt trận cấp mình trong mỗi kỳ Đại hội, hay chương trình
phối hợp thống nhất hành động từng năm một cách phù hợp và có tính khả thi.
Thực tiễn cho thấy, ở nơi nào Mặt trận chủ động đề xuất chương trình
phối hợp và thống nhất hành động hàng năm một cách cụ thể, biết tập trung
thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của Mặt trận gắn với nhiệm vụ trọng tâm của
chính quyền, tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc trong nhân dân thì hoạt
động của Mặt trận đạt hiệu quả thiết thực, vai trò, vị trí của Mặt trận được
Đảng, chính quyền, nhân dân thừa nhận.
1.2. Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
1.2.1.Giám sát, hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm giám sát
Khái niệm “giám sát” hiện nay được dùng khá phổ biến trong các khoa
học như chính trị, luật học, hành chính học… và trong nhiều văn bản Nghị
quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cũng như trong hành xử
của đời sống chính trị thực tiễn. Tuy khái niệm giám sát và nội hàm của nó
được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau.
Theo Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh chủ biên thì "giám sát là xem
xét và đàn hạch"; Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên hiểu
"Giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ"; cuốn tìm hiểu một số
thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra,
phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người đối với cá nhân, tổ
chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội,
trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ
chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với
cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái” [23, tr.70].
19
Quy chế giám sát, PBXH của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị
- xã hội cho rằng: “Giám sát” là theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến
nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu
dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước [2, tr.2]
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ giám sát có khác nhau
nhưng chúng đều có một đặc điểm là giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất
định, tức là phải trả lời câu hỏi; ai (hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc
theo dõi, xem xét, kiểm tra và đưa ra nhận định về một việc làm nào đó đã
thực hiện đúng hoặc sai những điều quy định. Đồng thời giám sát luôn gắn
với một đối tượng cụ thể , tức là phải trả lời được câu hỏi: Giám sát ai?, giám
sát việc gì?để có những tác động nhằm điều chỉnh đối tượng thực hiện đúng
yêu cầu, quy định của chủ thể quyền lực.
Với những quan niệm trên giám sát có những đặc trưng sau”
Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định. Tức là phải trả lời được
câu hỏi cá nhân hoặc tổ chức nào có quyền theo dõi, xem xét, đánh giá một
việc đã được thực hiện là đúng hay sai những điều đã quy định.
Giám sát luôn gắn với một đối tượng nhất định. Tức là phải trả lời được
câu hỏi giám sát ai và giám sát việc gì.
Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào hoạt
động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và nghĩa
vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát.
Giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định.
Bởi đó chính là cơ sở, chuẩn mực để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát
đưa ra những nhận định chính xác về hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát.
Giám sát là hoạt động có mục đích, mục đích của giám sát là đưa ra
những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động của đối
20