VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ HỮU PHƯƠNG
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH
VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số:
62 38 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Thư
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không có sự sao
chép ở bất cứ công trình nào khác, các số liệu sử dụng trong luận án là hoàn toàn trung
thực, chính xác.
Người cam đoan
ĐỖ HỮU PHƯƠNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... ..1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................ ..6
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ...................................................................... ..6
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ...................................................................... 10
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu ......................................................................... 14
1.4. Những vấn đề được tiếp tục nghiên cứu trong luận án ........................................ 16
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI
CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC .................... 18
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Hội Cựu chiến binh Việt Nam ..................... 18
2.2. Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong quản lý nhà nước .......... 29
2.3. Các bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong
quản lý nhà nước ......................................................................................................... 44
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH
VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 62
3.1. Quá trình hình thành và phát triển địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt
Nam trong quản lý nhà nước ....................................................................................... 62
3.2. Thực trạng quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh trong
quản lý nhà nước .......................................................................................................... 71
3.3. Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong thực tiễn quản lý nhà nước
ở Việt Nam hiện nay ..................................................................................................... 89
3.4. Đánh giá chung địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong quản lý
nhà nước ...................................................................................................................... 105
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY................................................................................................................... 113
4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong
quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay............................................................................ 113
4.2. Quan điểm hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong quản
lý nhà nước hiện nay..................................................................................................... 126
4.3. Giải pháp tăng cường địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam.............. 137
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CCB
Cựu chiến binh
CCBVN
Cựu chiến binh Việt Nam
CNH
Công nghiệp hóa
CP
Chính phủ
HCCB
Hội Cựu chiến binh
HCCBVN
Hội Cựu chiến binh Việt Nam
HĐH
Hiện đại hóa
MTTQ
Mặt trận Tổ quốc
MTTQVN
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
NĐ-CP
Nghị định của Chính phủ
QH
Quốc hội
TTLT-BTP-TWHCCBVN Thông tư Liên tịch - Bộ Tư pháp - Trung ương Hội
Cựu chiến binh Việt Nam
UBND
Ủy ban nhân dân
VA
U.S. of Veterans Affairs (Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ)
VECONAC
Veterans Confdration of ASEAN Countries (Liên đoàn
Cựu chiến binh ASEAN)
WVF
World Veterans Fedearion (Liên đoàn Cựu chiến binh
thế giới)
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
XHCNVN
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay, vai trò của các tổ chức chính trị - xã
hội có vị thế chính trị ngày càng cao, các tổ chức xã hội ngày càng được coi trọng.
Điều này thể hiện ở việc Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận MTTQVN, trong đó có
HCCBVN là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân [64, Điều 9]. Cũng theo tinh
thần ngày càng đề cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, Hiến pháp đã mở rộng
thêm thành phần của các tổ chức này. Điểm mới của Hiến pháp năm 2013 là đã xác
định rõ HCCBVN và các tổ chức chính trị - xã hội khác là thành viên của MTTQVN
trong hệ thống chính trị nước ta và đây cũng là bản Hiến pháp đầu tiên ghi nhận và
khẳng định vai trò của HCCBVN [64, khoản 2, Điều 9] trong văn bản pháp lý tối cao
của Nhà nước Việt Nam. Điều đó chỉ ra rằng các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội ngày càng đóng vai trò quan trọng trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
và vị thế của các tổ chức này ngày càng được khẳng định và coi trọng.
Thực tiễn đời sống chính trị xã hội Việt Nam hiện nay, vai trò của HCCBVN
thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân; trong đó có lĩnh vực rất quan trọng là
tham gia quản lý nhà nước.
Trong những năm qua, bằng thực tiễn hoạt động của mình, HCCBVN với tư cách
là một tổ chức chính trị - xã hội đã có những đóng góp quan trọng đối với công tác quản
lý nhà nước mà cụ thể là Hội đã tham gia quản lý nhà nước trên nhiều phương diện. Với
tư cách là một trong những tổ chức thuộc MTTQ, Hội giới thiệu nhân sự tham gia hiệp
thương khi tổ chức bầu cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước; tham gia giám sát việc
thực quyền lực nhà nước, quản lý nhà nước; tham gia phản biện xã hội, trực tiếp đưa kiến
nghị đối với các hoạt động quản lý nhà nước; trực tiếp tham gia các hoạt động quản lý nhà
nước ở cơ sở. Tuy vậy cho đến nay, địa vị pháp lý của HCCBVN cũng chưa thực sự được
làm rõ, nhất là địa vị pháp lý của Hội trong quản lý nhà nước. Điều đó dẫn đến việc tham
gia phối hợp trong quản lý nhà nước của HCCBVN với các cơ quan nhà nước vẫn còn
nhiều lúng túng, bất cập cả từ phía Hội lẫn từ phía các cơ quan nhà nước có liên quan.
Đáp ứng yêu cầu hiện nay của Đảng và Nhà nước ta về đẩy mạnh xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN thì dân chủ là vấn đề có tính căn bản và cấp
thiết. Do đó, Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện các cơ sở pháp lý trong việc củng
1
cố, nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nói chung và của
HCCBVN nói riêng nhằm phát huy tiềm năng, sức mạnh của các tổ chức xã hội và
HCCBVN, để Hội thực sự có nhiều đóng góp hơn nữa trong hoạt động quản lý nhà nước.
Từ những luận điểm nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của
HCCBVN trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ luật
học. Tác giả mong muốn kết quả thực hiện đề tài sẽ góp phần bổ sung luận cứ khoa
học về vai trò của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước, góp phần vào việc hoàn
thiện pháp luật cũng như thực hiện pháp luật liên quan đến địa vị pháp lý của
HCCBVN.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức lý luận về địa vị pháp lý của HCCBVN và thực trạng địa
vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước ở nước ta thời gian qua,
luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của HCCBVN trong lĩnh vực
quản lý nhà nước ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tham gia quản lý nhà
nước của HCCBVN như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, vị trí, các bảo đảm thực hiện
địa vị pháp lý của Hội trong quản lý nhà nước.
Thứ hai, phân tích, đánh giá quá trình hình thành, phát triển và thực trạng địa vị
pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở nhận thức lý luận và đánh giá thực trạng địa vị pháp lý của
HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước hiện nay, luận án đề xuất các giải pháp đổi
mới, hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của HCCBVN trong quá trình xây dựng bộ
máy Nhà nước Việt Nam theo hướng nhà nước pháp quyền XHCN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý của
HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước ở nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian, tác giả đã đặt nghiên cứu địa vị pháp lý của HCCBVN
trong tham gia quản lý nhà nước trong phạm vi cả nước, có so sánh kinh nghiệm với
2
HCCB một số nước có tổ chức hội tương tự.
Về thời gian, tác giả chủ yếu nghiên cứu từ khi Hội được thành lập ngày
6/12/1989 đến nay với các điểm nhấn là các văn kiện chính trị, pháp lý ghi nhận về địa
vị pháp lý của Hội. Ngoài ra, tác giả có đề cập đến những vấn đề có tính lịch sử tạo
nên địa vị pháp lý của Hội giai đoạn trước khi thành lập nhưng chỉ mang tính sơ lược
và liệt kê.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài là các quan điểm, phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối
của Đảng và Nhà nước ta về các tổ chức chính trị - xã hội; về HCCB, về xây dựng nhà
nước pháp quyền, về quản lý nhà nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường
lối của Đảng và Nhà nước ta về các tổ chức chính trị - xã hội là sự kế thừa những tư
tưởng, quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được áp dụng thành công trong
các điều kiện lịch sử Việt Nam. Do đó, đây là những tư tưởng, quan điểm phù hợp,
được xã hội thừa nhận. Việc sử dụng những tư tưởng, quan điểm này vừa đảm bảo tính
khách quan và phù hợp với thực tiễn điều kiện nước ta hiện nay, nó không làm chệch
hướng nghiên cứu của luận án.
Phương pháp nghiên cứu của luận án là những phương pháp có độ tin cậy cao,
phổ biến hiện nay như: phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, quy
nạp, thống kê, lịch sử và điều tra xã hội học… Đối với yêu cầu của từng chương, tác
giả sẽ có những ưu tiên trong việc sử dụng từng phương pháp để làm sáng tỏ vấn đề
cần nghiên cứu. Cụ thể:
- Trong Chương 1, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, quy nạp và
chứng minh. Trong đó, phương pháp phân tích giúp tác giả làm rõ những phạm vi liên
quan đến luận án đã được các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu trước đó để làm rõ
những phạm vi cần được tiếp tục tiến hành nghiên cứu trong luận án. Phương pháp
quy nạp được sử dụng để khái quát vấn đề nghiên cứu thành những khái niệm, phạm
vi, đặc điểm, từ đó sử dụng làm các căn cứ tiến hành nghiên cứu luận án. Phương pháp
chứng minh được sử dụng nhằm chỉ ra những phạm vi cần phải tiếp tục nghiên cứu
hoặc những vấn đề chưa có tác giả nào nghiên cứu mà luận án phải tập trung làm rõ.
- Ở Chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử, phân tích, chứng minh
để làm rõ những nội dung nghiên cứu. Phương pháp lịch sử được sử dụng trong việc
đánh giá các yếu tố tác động của lịch sử đã tạo nên các giá trị của chủ thể, các điều
3
kiện kinh tế - xã hội đã khẳng định vai trò của HCCBVN trong xã hội và trong quản lý
nhà nước. Phương pháp phân tích được sử dụng trong việc phân tích, đánh giá các Văn
kiện của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về vị trí, vai trò của Hội
trong tham gia quản lý nhà nước. Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng
minh vai trò của Hội trong tham gia quản lý nhà nước từ các phương diện chính trị,
lịch sử, pháp lý…
- Trong Chương 3, nhằm đánh giá thực trạng tham gia quản lý nhà nước của Hội,
các phương pháp phân tích, chứng minh, thống kê, điều tra xã hội học được tác giả sử
dụng là chủ yếu. Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ các phạm vi pháp lý của
Hội nói riêng và MTTQVN nói chung trong tham gia quản lý nhà nước; làm rõ kết quả và
hạn chế trong tham gia quản lý nhà nước của Hội. Phương pháp chứng minh nhằm khẳng
định việc tham gia quản lý nhà nước của Hội được xuất phát từ cơ sở khoa học khách
quan cũng như những giá trị lịch sử mà Hội đã đóng góp, được xã hội thừa nhận. Phương
pháp thống kê và điều tra xã hội học được sử dụng để minh họa các kết quả khảo sát xã
hội học mà tác giả đã thực hiện khi nghiên cứu luận án.
- Đối với Chương 4, do là chương đề xuất các quan điểm, giải pháp nên tác giả
sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp chứng minh để làm rõ những quan
điểm, giải pháp nhằm góp phần đổi mới cơ chế quản lý và hoàn thiện địa vị pháp lý
của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Những đóng góp mới của luận án thể hiện trên những nội dung sau:
Một là, luận án đã phân tích, làm rõ nhận thức lý luận về địa vị pháp lý của
HCCBVN trên các khía cạnh khác nhau (khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, các bảo
đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) là những vấn đề mới chưa được nghiên cứu;
Hai là, luận án tổng hợp, phân tích các dữ liệu, tài liệu về quy định của pháp
luật và thực tiễn hoạt động thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như các bảo đảm
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của HCCBVN, từ đó đưa ra bức tranh tổng
quát cũng như nhìn nhận mới về thực trạng địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham
gia quản lý nhà nước;
Ba là, từ nhận thức lý luận và làm sáng tỏ thực trạng địa vị pháp lý của
HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước, luận án đề xuất một số giải pháp góp phần
hoàn thiện địa vị pháp lý của HCCBVN trong mối liên hệ với việc thực hiện quyền lực
nhà nước trong quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu luận án góp phần khẳng định và thực hiện địa vị pháp lý
của HCCBVN nói riêng, của MTTQ và các thành viên MTTQVN nói chung trong
hoạt động quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho việc xây dựng, đổi mới quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp
lý cũng như các bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ đó của HCCBVN (các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác) trong việc tham gia quản lý nhà nước. Đồng
thời, luận án đưa lại nhận thức mới đối với các cơ quan quản lý nhà nước về tôn trọng
và bảo đảm sự tham gia của HCCBVN trong quản lý nhà nước.
Đối với HCCBVN, luận án là tài liệu tham khảo góp phần nâng cao nhận thức
và năng lực tham gia quản lý nhà nước của Hội, làm cho thành viên của Hội vững tin
và năng động, tích cực tham gia vào quản lý nhà nước. Luận án có thể được sử dụng
làm tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
liên quan đến các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội của công dân.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh
Việt Nam trong quản lý nhà nước.
Chương 3: Thực trạng địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong
quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến
binh Việt Nam trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Từ khi HCCBVN thành lập năm 1989 đến nay, những nghiên cứu về CCBVN
và HCCBVN đã được các cá nhân, tổ chức quan tâm. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
đây là một tổ chức đặc thù, có ý nghĩa tác động theo nhiều chiều đối với Nhà nước và
xã hội. Do là một hội mới được thành lập lại có tính đặc thù rất riêng biệt với các tổ
chức hội khác nên đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Dù vậy,
đã có một số các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến CCBVN, đến
HCCBVN và các công trình nghiên cứu liên quan khác, nhất là các công trình nghiên
cứu về HCCBVN với tư cách là một tổ chức xã hội công dân. Dưới đây, tác giả đề cập
đến các công trình đã nghiên cứu về HCCBVN đã được thực hiện trong thời gian qua.
1.1.1. Đề tài nghiên cứu khoa học
- Đề tài cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành và phát
triển của xã hội dân sự định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” trong
Chương trình khoa học trọng điểm cấp Nhà nước mã số KX.02/06-10 do GS. TS. Đỗ
Hoài Nam làm chủ nhiệm. Đề tài đã đề cập đến hoàn thiện pháp luật về hội ở Việt
Nam trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ cấp Bộ: ‘‘Cựu chiến binh trong công tác nghiên cứu và phục vụ
nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa học xã hội Việt Nam’’ năm 2006 do HCCB Viện
Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện. Trong nhiệm vụ này, nhóm tác giả đã làm rõ vị trí,
vai trò của CCB ở vị trí là nhà nghiên cứu khoa học xã hội và là cán bộ, nhân viên làm
công tác phục vụ nghiên cứu khoa học. Đề tài có đề cập đến những quy định về vị trí,
vai trò và quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của CCB và HCCB Viện Khoa học xã hội Việt
Nam trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở cơ quan khoa học xã hội và nhân văn.
- Chuyên đề nghiên cứu “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động
của HCCBVN trong hệ thống chính trị - Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, vấn đề và
giải pháp” năm 2014 do Trung ương HCCBVN thực hiện thuộc đề tài cấp Nhà nước
về “Tổng kết 30 năm đổi mới”. Tác giả Nguyễn Song Phi, Phó Chủ tịch HCCBVN và
nhóm nghiên cứu đã đề cập đến vị trí, vai trò của CCB và HCCBVN trong quá trình
đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; đề xuất một số kiến nghị, giải
6
pháp để củng cố và phát huy vị trí, vai trò của CCB và HCCBVN đối với Đảng, Nhà
nước trong thời gian tới.
Đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên ít nhiều có liên quan đến địa vị pháp lý
của CCBVN và HCCBVN. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu nói trên mới chỉ dừng
lại ở việc đánh giá thực trạng tình hình, kết quả hoạt động; kiến nghị các giải pháp để
giải quyết theo yêu cầu của đề tài, nhiệm vụ; chưa nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, sâu
sắc; nhất là thiếu lý luận khoa học cho việc khẳng định địa vị pháp lý của HCCBVN
trong tham gia quản lý nhà nước.
1.1.2. Các sách chuyên khảo, tham khảo
- Sách “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCNVN trong giai đoạn hiện nay.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” xuất bản năm 2009 do các tác giả Đào Trí Úc,
Phạm Hữu Nghị chủ biên. Cuốn sách là tổng quan rộng lớn về những vấn đề lý luận
của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó có nội
dung đề cập đến cơ chế bảo đảm quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam. Theo đó, quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của cá nhân công
dân được bảo đảm thực hiện thông qua MTTQVN và các thành viên của Mặt trận.
Song các tác giả cũng chỉ ra rằng, Đảng và Nhà nước cần phải tạo mọi điều kiện cần
thiết, đặc biệt là Nhà nước, phải tạo lập hành lang pháp lý phù hợp và đủ rộng cho các
tổ chức thành viên của MTTQ hoạt động có hiệu quả.
- Sách tham khảo “Một số văn bản cần thiết về công tác CCBVN” năm 2011 của
nhóm tác giả thuộc Trung ương HCCBVN, do tác giả Phạm Hữu Bồng chỉ đạo biên
tập đã tập hợp khá đầy đủ các văn bản của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo, quản lý, chỉ
đạo hoạt động của CCB và HCCBVN; các mối quan hệ phối hợp giữa HCCBVN với
các tổ chức hội và các cơ quan của Nhà nước cũng được đề cập dưới dạng văn bản,
quy chế, quy định, kế hoạch công tác của HCCBVN.
- Chuyên khảo “Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam”, NXB Chính trị - Hành
chính, năm 2009 của GS.TS. Dương Xuân Ngọc đề cập nhiều nội dung phong phú về
lược sử xã hội dân sự, cấu trúc của xã hội dân sự… trong đó có nội dung liên quan đến
vị trí, vai trò của các hội quần chúng đối với sự hình thành, phát triển của xã hội dân
sự ở Việt Nam.
- Chuyên khảo “Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội ở Việt Nam”, NXB
Chính trị quốc gia – Sự thật, năm 2012 do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh
Phương đồng chủ biên. Đây là những nghiên cứu công phu, tỉ mỉ về các tổ chức xã
7
hội, các hội nghề nghiệp; có những khuyến nghị xã hội về phát huy vai trò của các tổ
chức xã hội ở Việt Nam; là những nguồn tư liệu quý để luận án kế thừa và phát triển.
- Chuyên khảo “Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc”. NXB Tri Thức, năm
2007 của nhóm nghiên cứu do tác giả Vũ Duy Phú chủ biên đã đề cập sâu đến xã hội
dân sự từ nguồn gốc đến bối cảnh hiện tại trên thế giới và tại Việt Nam, đồng thời chỉ
ra mối quan hệ hợp tác giữa nhà nước với xã hội dân sự và đề cập đến tương lai phát
triển của xã hội dân sự thông thái tương xứng với nhà nước pháp quyền hiện đại của
Việt Nam trong thế kỷ XXI.
- Chuyên khảo “Pháp luật về quyền tự do lập hội, hội họp hoà bình trên thế
giới và của Việt Nam”. NXB Hồng Đức, năm 2016 do PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh
chủ biên đã phân tích sâu về quyền lập hội và quyền hội họp hòa bình trong pháp luật
nhân quyền quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và Việt Nam. Cuốn sách đã phân
tích sâu về nguồn gốc, về lịch sử phát triển quyền lập hội và quyền hội họp hòa bình
trên thế giới và tại Việt Nam; làm rõ nội hàm khuôn khổ pháp lý trong thực hiện quyền
lập hội và quyền hội họp hòa bình và những giá trị của quyền này trong xây dựng và
thực hiện nền dân chủ của các quốc gia; khẳng định quyền lập hội và quyền hội họp
hòa bình là nhu cầu tự nhiên và cơ bản của con người. Đây là nguồn tư liệu có giá trị
khoa học cao để tác giả kế thừa và phát triển luận án.
Các công trình chuyên khảo, tham khảo trên đây đã phân tích đi sâu vào nghiên
cứu về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền XHCN; nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN hiện nay và
những định hướng cho tương lai; nghiên cứu về xã hội công dân, về mối quan hệ giữa
nhà nước pháp quyền với xã hội công dân; về sự tác động qua lại giữa nhà nước với xã
hội công dân và đề xuất giải pháp xây dựng, củng cố, phát triển xã hội công dân của
Việt Nam gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCNVN, trong đó có đề cập đến
vị trí, vai trò, địa vị của các tổ chức hội, tổ chức xã hội trong quản lý nhà nước.
1.1.3. Các bài tạp chí, báo cáo khoa học, luận án
- “Mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự và vấn đề cải cách hành
chính” của tác giả Đào Trí Úc đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4, 2004.
Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến mối quan hệ tương tác qua lại giữa nhà nước
và xã hội công dân, chỉ ra quan niệm chung nhất về những yếu tố cơ bản của xã hội
công dân bao gồm rất nhiều các hội, các đoàn thể được hình thành trên cơ sở tự
nguyện của công dân.
8
- Tác giả Vũ Thư có bài “Vai trò của xã hội công dân đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9, 2003. Bài viết trình bày các
vấn đề về khái niệm, đặc điểm, vai trò, tác động của xã hội công dân đối với nhà nước
ở các nước tư bản và vấn đề xã hội công dân ở nước ta. Đồng thời, tác giả đề xuất một
số kiến nghị liên quan đến xã hội công dân nói chung, HCCB nói riêng.
- Tác giả Phạm Hữu Nghị: “Luật về hội trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp
quyền, xã hội dân sự và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6, 2006.
Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên những vấn đề đang đặt ra trong quá trình xây
dựng Dự thảo Luật về Hội và một số nội dung của Dự thảo Luật về Hội.
- Tác giả Hữu Thư với “Bước đầu tìm hiểu về xã hội dân sự”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 9, 2006. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến sự ra đời và phát triển
của xã hội công dân tại Việt Nam; phân tích những mặt tích cực, tiêu cực của xã hội
công dân và đề cập đến vị trí, vai trò tác động của các tổ chức hội đối với nhà nước và
xã hội.
- Tác giả Hoàng Ngọc Giao: "Bàn về xã hội dân sự", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 11, 2006. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến quyền thành lập hội, mối quan hệ giữa
nhà nước với xã hội dân sự, sự cần thiết và vai trò của xã hội dân sự đối với nhà nước.
- Tác giả Nguyễn Minh Đoan: “Xây dựng nhà nước pháp quyền gắn với củng
cố, phát triển xã hội dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số, 12, 2009. Trong bài
viết này, tác giả đề cập đến nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của xã hội phải gắn
với việc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng nhà nước
pháp quyền gắn với củng cố, phát triển xã hội dân sự phải đảm bảo sự ổn định chính trị
của đất nước; khẳng định sự trung thành của đất nước Việt Nam đối với chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản Việt
Nam với vai trò là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam.
- Trong bài viết “Xã hội dân sự - một vấn đề đặt ra từ công cuộc đổi mới của Việt
Nam”, tác giả Lưu Văn Sùng (Tạp chí Lý luận chính trị số 1, 2014) đã đề cập đến việc
chuyển đổi chức năng hoạt động của các đoàn thể chính trị sang thực hiện chức năng xã hội.
- Bài viết “Vai trò của các tổ chức xã hội trong phát triển kinh tế thị trường”
của Nguyễn Như Phát (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5, 2014) đã đề cập đến nhận
thức chính trị về xã hội dân sự; về thực trạng thể chế hóa, chính sách, pháp luật về vai
trò của các tổ chức xã hội dân sự ở nước ta hiện nay; về những vấn đề lý luận và thực
tiễn đặt ra trong bối cảnh mới và phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò của các tổ
9
chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Các bài báo đăng trên các báo Quân đội nhân dân, báo Hà Nội mới, báo Nhân
dân, báo CCB đa số chỉ đăng tin các hoạt động của CCB và HCCBVN trên phương
diện chuyên môn của Hội như: đăng tin về các hoạt động thăm lại chiến trường năm
xưa, về gương CCB là điển hình tiên tiến trong làm kinh tế giỏi, về hợp tác với các tổ
chức nước ngoài trong tìm kiếm hài cốt, tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến
tranh… Các bài báo đều chưa tập trung viết, nghiên cứu về mảng lý luận để làm rõ vị
trí, vai trò, địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước.
Khác với các nhiệm vụ nghiên cứu và các bài viết đăng tải trên các tạp chí, các
cuốn sách nêu trên tuy không đề cập trực tiếp đến vị trí, vai trò, địa vị pháp lý của
HCCBVN song đã nghiên cứu khá sâu về vị trí, vai trò, địa vị pháp lý của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong tham gia quản lý nhà nước. Tuy chưa đề cập cụ
thể về địa vị pháp lý của các tổ chức hội dưới góc độ được coi là thành tố của xã hội
công dân nhưng tựu chung lại, các tác giả đều khẳng định vị trí, vai trò, địa vị pháp lý
của các tổ chức hội không thể thiếu trong hệ thống chính thể của nhà nước pháp
quyền; đồng thời khẳng định tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền phải gắn với kiện toàn hệ thống pháp luật, gắn với xây dựng các tổ chức của xã
hội công dân ở Việt Nam; trong đó các tổ chức hội được khẳng định là thành tố quan
trọng của xã hội công dân trong nhà nước pháp quyền.
Về các luận án tiến sĩ, trước hết có thể kể đến Luận án “Hoàn thiện pháp luật về
hội ở Việt Nam hiện nay” năm 2011 của tác giả Phạm Thị Hồng đã nghiên cứu, bàn sâu
những vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về hội; đánh giá thực trạng hoàn thiện
pháp luật về hội ở Việt Nam; đề cập vị trí, vai trò của pháp luật về hội trong việc tạo
hành lang pháp lý để hội phát triển, đồng thời đề xuất giải pháp để hoàn thiện pháp
luật về hội ở Việt Nam.
Ngoài các công trình kể trên, còn có các tài liệu liên quan đến CCB và
HCCBVN như: các báo cáo sơ kết, tổng kết về quá trình hoạt động của HCCBVN, báo
cáo về các điển hình tiên tiến của CCBVN, các bài viết trên báo CCB và trên các báo:
Báo Nhân dân; Báo Quân đội nhân dân, Báo Hà Nội mới, Báo Tiền phong... phản ánh
hoạt động của CCB và HCCBVN và mối quan hệ giữa HCCBVN với các tổ chức
trong hệ thống đoàn thể chính trị - xã hội ở Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, cùng với mối quan tâm đến hai quyền lập hội, hội họp tương đối
10
sớm, đã có nhiều nghiên cứu về các chuẩn mực quốc tế, pháp luật và thực hành tại các
quốc gia liên quan đến hai quyền tự do quan trọng này. Có thể kể một số công trình
nghiên cứu như:
1.2.1. Các tài liệu, văn bản nghiên cứu về lập hội, hội họp
- “The International Covenant on Civil and Political Rights Cases, Materials,
and Commentary”, Third Edition, Oxford University Press, 2013. Tác giả là Sarah
Joseph and Melissa Castan. Cuốn sách này phân tích chi tiết các quyền trong Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; trong đó bao gồm quyền tự do
lập hội, hội họp, biểu tình. Sách được minh chứng bởi các án lệ, bình luận của các ủy
ban nhân quyền Liên hợp quốc và tòa án nhân quyền khu vực, vì vậy có giá trị tham
khảo cao.
- “U.N. Covenant on Civil and Political Rights: CCPR Commentaries”, Fourth
Edition, Oxford University Press, 2012. Tác giả là Manfred Nowak. Giống như cuốn
sách trên, cuốn sách này phân tích chi tiết các quyền trong Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị năm 1966, trong đó bao gồm quyền tự do hội họp, biểu tình.
Sách cũng được minh chứng bởi các án lệ, bình luận của các ủy ban nhân quyền Liên
hợp quốc và tòa án nhân quyền khu vực, vì vậy có giá trị tham khảo cao. Điểm khác
biệt giữa cuốn này và cuốn trên là cuốn này tập trung nhiều hơn vào các bình luận
chung của Ủy ban công ước, trong khi cuốn trên tập trung nhiều hơn vào các tình
huống xảy ra trong thực tế mà được các cơ quan tài phán nhân quyền khu vực xét xử.
- “Democracy and Association”, của Mark E. Warren, Princeton University
Press (2000) đề cao vai trò dân chủ của đời sống hiệp hội.
- “Freedom Of Assembly” của Stephen F. Rohde, Facts on File (2005). Công
trình này đã phân tích một số khía cạnh lý luận của quyền hội họp trong mối liên hệ
với các quyền con người về chính trị, dân sự khác. Tác giả sử dụng khá nhiều dữ liệu
thống kê và tình huống để chứng minh. Vì vậy các quan điểm và lập luận đưa ra khá
chặt chẽ, thuyết phục.
Mặc dù các nghiên cứu trên là tương đối đa dạng, phong phú nhưng các tài liệu
này không nghiên cứu sâu về quyền tự do lập hội, tự do hội họp và luận giải các vấn
đề liên quan đến địa vị pháp lý của hội trong quản lý nhà nước.
1.2.2. Các tài liệu, văn bản đề cập về tổ chức cựu chiến binh thế giới
Các tư liệu này phản ánh kết quả của việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động
của các tổ chức CCB trên thế giới. Trong bối cảnh các công trình nghiên cứu về CCB
11
còn ít thì đây là nguồn tư liệu rất quan trọng (thể hiện qua kết quả nghiên cứu) để tác
giả thực hiện luận án.
a) Liên đoàn CCB thế giới:
Liên đoàn CCB thế giới có tên tiếng Anh là World Veterans Fedearion, viết tắt
là (WVF) và tiếng Pháp là Federation des Militairs Anciens Combatlants, viết tắt là
(FMAC). Liên đoàn CCB thế giới ra đời cách đây 67 năm vào ngày 29 tháng 11 năm
1950 tại Paris, thủ đô nước Pháp, do các CCB, những chiến sĩ kháng chiến chống Phát
xít, nạn nhân của sự thương tật, tù đày, góa bụa và tù binh chiến tranh của 08 quốc gia
(Pháp, Bỉ, Luxembourg, Hoa Kỳ, Italia, Nam Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch) thành lập.
WVF là một tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức phi chính phủ quốc tế, phi chính trị và
không bè phái. Với tôn chỉ và mục đích phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại nên
ban đầu chỉ có 08 tổ chức của 08 quốc gia tham gia, đến nay WVF đã là một Liên đoàn
của 172 tổ chức CCB từ 121 quốc gia trên thế giới, đại diện cho khoảng 45 triệu CCB
trên toàn thế giới [122]. Có thể thấy WVF là một tổ chức quốc tế có diễn đàn đa
phương mà các thành viên là CCB, những người đã từng một thời cầm súng chống
nhau trên chiến trường, sau khi rời quân ngũ đã tập hợp lại với nhau, cùng chung tuyên
ngôn, điều lệ, mục đích, động cơ, với nguyên tắc tổ chức và những hoạt động cụ thể,
thiết thực để chống chiến tranh, xây dựng và bảo vệ hòa bình cho nhân loại. Như
Ralph Bunche - giải Nobel Hòa bình năm 1950 - đã khẳng định “Không ai có thể nói
hùng hồn hơn cho hòa bình so với những người đã từng chiến đấu trong chiến tranh.
Tiếng nói của các CCB là một sự khao khát hòa bình của người dân trên toàn thế giới,
những người trong vòng một thế hệ đã hai lần bị thảm họa không kể xiết của chiến
tranh thế giới. Nhân loại đã dành được quyền hòa bình. Nếu không có nó, sẽ không có
hy vọng cho tương lai”.
WVF đại hội định kỳ ba năm một lần. HCCBVN đã được Liên đoàn CCB thế
giới kết nạp tại Đại hội lần thứ 23 tổ chức tại Pari nước Pháp tháng 12 năm 2000.
Cùng kết nạp có HCCB của 06 quốc gia khác, trong đó có Cuba.
b) Liên đoàn CCB ASEAN:
- Liên đoàn CCB ASEAN có tên tiếng Anh là Veterans Confdration of ASEAN
Countries, viết tắt là VECONAC, Department được thành lập ngày 19/12/1980; ban
đầu có 05 nước thành viên. Việt Nam gia nhập năm 1997. Đến nay VECONAC có 10
nước thành viên của khối ASEAN tham gia. Liên đoàn CCB ASEAN là thành viên của
Ủy ban Thường trực CCB Châu Á - Thái Bình Dương thuộc Liên đoàn CCB thế giới.
12
- Trong nhiều nước ASEAN, tổ chức CCB là tự nguyện, độc lập hoàn toàn với
nhà nước (tự phí), không có tài trợ của nhà nước, trừ một số nước có mô hình tương tự
gần giống với HCCBVN, gồm có:
+ Thái Lan: HCCB do Tổng cục Hậu cần quân đội Hoàng gia Thái Lan phụ
trách, được Chính phủ tài trợ một phần kinh phí hoạt động.
+ Philippin: HCCB do Chính phủ thành lập, được dùng nguồn kinh phí bồi
thường chiến tranh để hoạt động, được cấp đất để làm trụ sở.
+ Lào: HCCB quốc gia Lào do Chính phủ thành lập, bao gồm cả cựu công an,
các cán bộ Hội là cán bộ đương chức công tác trong quân đội, công an được cử ra làm
công tác của HCCB.
+ Campuchia: HCCB do Bộ Những vấn đề xã hội và giáo dục lại thanh niên
chậm tiến, cải tạo phụ trách, trước đây Chính phủ cử 01 Phó Thủ tướng làm Chủ tịch
Hội. Hiện nay Thủ tướng Chính phủ Hunsen làm Chủ tịch Hội, 01 Phó Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Phó Chủ tịch Hội, Tổng thư ký Hội là Bộ trưởng
Bộ Những vấn đề xã hội và giáo dục lại thanh niên chậm tiến, cải tạo; các tỉnh do
Giám đốc Sở Những vấn đề xã hội và giáo dục lại thanh niên chậm tiến, cải tạo làm
Chủ tịch Hội; các huyện do Trưởng phòng Những vấn đề xã hội và giáo dục lại thanh
niên chậm tiến, cải tạo làm Chủ tịch Hội.
- Trung Quốc: Hiện nay Trung Quốc không có HCCB, chỉ thành lập các ban
liên lạc của các đơn vị quân đội trong các dịp nghỉ lễ, tổ chức tập hợp cựu quân nhân
đi du lịch, thăm lại chiến trường năm xưa, sau đó tự giải thể.
c) Tổ chức CCB ở Hoa Kỳ (Mỹ):
Tại Mỹ, các tổ chức CCB được thành lập không gọi là HCCB mà có nhiều tên
gọi khác nhau. Tên gọi chung được dùng là CCB gắn với các cuộc chiến tranh hoặc
các tổ chức nhân đạo như: CCB Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ II; CCB Mỹ trong
chiến tranh Hàn Quốc; CCB Mỹ trong chiến tranh Việt Nam; CCB vì hòa bình; Hỗ trợ
cho người tàn tật Việt Nam do hậu quả chiến tranh…
Trong quốc gia liên bang Hoa Kỳ có Bộ CCB, tên gọi là: Bộ CCB Hoa Kỳ, tên
tiếng Anh là U.S. of Veterans Affairs, viết tắt là (VA). Đứng đầu VA là Bộ trưởng
CCB, do Tổng thống bổ nhiệm với sự tư vấn và đồng ý của Thượng viện. Bộ này có ba
phân khu chính, được gọi là cơ quan hành chính bao gồm:
- CCB y tế (VHA), chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho CCB.
- CCB lợi ích quản lý (VBA), chịu trách nhiệm đăng ký CCB ban đầu, xác định
13
đủ điều kiện là CCB và đảm bảo điều kiện cần thiết (lợi ích và quyền lợi) cho CCB,
bao gồm cho vay bảo lãnh; bảo hiểm; dạy nghề phục hồi chức năng; việc làm; bồi
thường…
Trách nhiệm và lợi ích của VBA vô cùng lớn, được Chính phủ Liên bang cấp
ngân sách hàng năm lên đến hàng trăm tỷ USD (năm 2009 là 87 tỷ USD; năm 2012 là
132 tỷ USD; năm 2014 là 152 tỷ USD) [114].
- Cơ quan Quản lý Nghĩa trang Quốc gia (NCA), có trách nhiệm cung cấp phúc
lợi về chung sự và tưởng niệm cũng như bảo trì các nghĩa trang cựu chiến binh.
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu đã cho thấy, đến nay việc nghiên cứu về CCB và HCCB trên
thế giới và ở trong nước chưa nhiều, chỉ có các bài viết đề cập đến công tác tổ chức và
hoạt động của CCB và HCCB nhưng số lượng còn ít. Trong các công trình được liệt kê
ở trên, có nhiều công trình đã đầu tư phân tích khá chi tiết khái niệm, đặc điểm, tính
chất của hội cũng như vai trò, tác động của hội nói chung và HCCB đối với nhà nước.
Kết quả nghiên cứu có thể tóm tắt như sau:
Một là, làm rõ các khái niệm về hội nói chung; đặc điểm, vai trò, địa vị của hội,
trong đó có HCCB. Bước đầu làm rõ những điểm cơ bản về khái niệm, vị trí, vai trò của
HCCBVN. Tuy nhiên, các khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của HCCBVN chủ yếu được
các nghiên cứu trên tiếp cận theo các quy định của pháp luật thực định, chính trị, chứ chưa
được tiếp cận dưới góc độ khoa học. Cụ thể, các nghiên cứu trên chưa tiếp cận, đánh giá
các nội dung của khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của Hội với tư cách là đối tượng
nghiên cứu của khoa học. Mặt khác, các nghiên cứu cũng chỉ tiếp cận từ phương diện địa
vị pháp lý của HCCB nói chung chứ chưa có công trình nghiên cứu nào trực tiếp nghiên
cứu về địa vị pháp lý của Hội trong tham gia quản lý nhà nước.
Hai là, làm rõ các phương diện của HCCBVN về cơ cấu tổ chức; về số lượng,
chất lượng hội viên; về chất lượng và số lượng tổ chức Hội; một số vấn đề đặt ra hiện
nay liên quan đến quá trình phát triển của Hội. Các nghiên cứu đã có những đóng góp
hết sức to lớn và đã đưa ra được bức tranh tổng quát về cơ cấu tổ chức, số lượng, chất
lượng hội viên và tổ chức hội khá thực tế, sinh động. Nhiều vấn đề có tính thực tiễn về
HCCBVN được giải đáp bằng quá trình thực tiễn của sự vận động xã hội được thể hiện
một cách khách quan. Việc lý giải thực tế phát triển của Hội cũng là bức tranh về sự
phát triển của nền dân chủ trong Nhà nước ta. Tuy nhiên, các vấn đề này hầu như chưa
được xem xét dưới góc độ quản lý và pháp lý.
14
Ba là, đề cập những điểm cơ bản về đặc thù riêng của HCCBVN trong quan hệ
với hoạt động lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý của Nhà nước. Trên phương diện
này, cũng giống như phần thứ nhất, các tiếp cận chủ yếu nhận diện điểm cơ bản về đặc
thù riêng của HCCBVN trong quan hệ với hoạt động lãnh đạo của Đảng, hoạt động
quản lý của Nhà nước từ phương diện thực tiễn các quy định của pháp luật. Các nghiên
cứu chưa làm rõ những vấn đề về luận cứ khoa học trong các mối quan hệ trên nên
chưa có được những đánh giá xác đáng từ các khía cạnh quyền, yêu cầu dân chủ, yêu
cầu của nhà nước pháp quyền mà thiên về các phân tích, đánh giá, nhận định trên cơ
sở các yêu cầu của chính trị. Do vậy chưa làm bật tính khách quan trong mối quan hệ
đó nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, bảo đảm và phát huy dân chủ trong
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Bốn là, đánh giá thực trạng của các tổ chức hội nói chung và của HCCBVN trên
các phương diện hoạt động chuyên môn của Hội, những vấn đề liên quan đến quan hệ
của Hội với Nhà nước. Đối với các nghiên cứu đánh giá thực trạng, ngoài việc phản
ánh thực tế yêu cầu đối với các nghiên cứu luôn phải đánh giá được những mặt tích
cực, mặt hạn chế để từ đó rút ra những kinh nghiệm. Tuy nhiên, đối với các nghiên cứu
liên quan đến thực trạng tổ chức HCCBVN trên phương diện hoạt động chuyên môn
cũng như những vấn đề liên quan đến quan hệ của Hội với Nhà nước thì hầu hết các
nghiên cứu chưa trực diện đề cập đến vấn đề độc lập của Hội với Nhà nước, đặc biệt
trong mối quan hệ về tài chính. Chính điều này đã dẫn đến sự phụ thuộc của Hội vào
Nhà nước, làm mất đi vai trò phản biện độc lập của Hội, làm mất tính chất dân sự của
một tổ chức xã hội.
Năm là, đánh giá thực trạng của HCCBVN trên các phương diện hoạt động; sự
phối hợp của HCCBVN với các tổ chức chính trị - xã hội và với một số HCCB trên thế
giới, ở mức độ nhất định liên quan đến hoạt động của quản lý nhà nước. Cũng như
phần trên, thực trạng các hoạt động của tổ chức Hội vẫn mang tính chất phụ thuộc vào
nhà nước, thực hiện một số chức năng do Nhà nước giao. Vì vậy, trên phương diện
hoạt động này Hội chủ yếu hiện thân trong các hoạt động mang tính hình thức theo
quy định của một số văn kiện của Đảng [21, 22] và một số quy định hạn chế của Nhà
nước [71].
Sáu là, với tính chất là bảo đảm cho hoạt động của HCCBVN, các công trình đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị về củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức của Hội; hệ
thống văn bản quản lý và các chính sách, pháp luật liên quan đến CCBVN và
15
HCCBVN ít nhiều liên quan đến điều chỉnh pháp luật về tham gia quản lý của Hội. Tuy
nhiên, HCCBVN với tính chất của một tổ chức chính trị - xã hội, do Đảng Cộng sản Việt
Nam thành lập và lãnh đạo. Các nghiên cứu, đề xuất trước đây cũng chỉ thực hiện trong
phạm vi giới hạn mà chưa có những giải pháp, kiến nghị mang tính đột phá về tổ chức
nhằm hướng tới một thiết chế độc lập dựa trên những căn cứ khoa học thỏa đáng.
Có thể thấy rất rõ là đến nay, tình hình nghiên cứu về CCB và HCCB trên thế
giới và trong nước chưa nhiều, mới chỉ dừng lại ở những vấn đề trên thực tế gắn với
nhà nước, nhưng không trực diện gắn với phương diện đánh giá hoạt động thực tiễn
của Hội gắn với quản lý nhà nước. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ
bản vấn đề địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước ở nước ta.
Đây không chỉ là vấn đề mang tính lý luận, tính khoa học mà còn mang tính chất chính
trị, pháp lý và cấp bách khi HCCBVN đã phát triển lớn mạnh, là một đoàn thể chính trị
- xã hội, thành viên của MTTQVN trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCNVN.
1.4. Những vấn đề được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Trên cơ sở các nghiên cứu kể trên, với những thành tựu cũng như những vấn đề
còn đang được đặt ra, luận án đã nghiên cứu toàn diện các vấn đề sau đây:
- Làm sáng tỏ khái niệm, bản chất, đặc điểm, vị trí, vai trò của HCCBVN, các
bảo đảm cho HCCBVN hoạt động. Các mối quan hệ giữa HCCBVN với Nhà nước và
quản lý nhà nước. Đây là vấn đề trước đó chưa được nghiên cứu và thể hiện một cách
khoa học và rõ ràng.
- Làm rõ cơ sở hình thành, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của
HCCBVN trong mối liên hệ chặt chẽ với Nhà nước, với quản lý nhà nước.
- Làm rõ các khía cạnh lý luận liên quan đến địa vị pháp lý của HCCBVN bao
gồm: khái niệm, ý nghĩa địa vị pháp lý của Hội trong tham gia quản lý nhà nước.
- Chỉ ra thực trạng địa vị pháp lý của HCCBVN trong pháp luật và trong thực
tiễn quản lý nhà nước ở nước ta. Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật, đặc
biệt là việc thực hiện địa vị pháp lý của Hội trong thực tiễn, nguyên nhân của các ưu
điểm và hạn chế của việc thực hiện đó.
- Trên cơ sở xác định nhu cầu, quan điểm về bảo đảm thực hiện có hiệu quả các
quyền và nghĩa vụ của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước, luận án đề xuất các
giải pháp hoàn thiện và tăng cường hiệu quả thực hiện địa vị pháp lý của Hội tham gia
quản lý nhà nước trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCNVN.
16
Kết luận Chương 1
Qua việc tìm hiểu những công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết ở trong
và ngoài nước đã công bố, tác giả luận án nhận thấy địa vị pháp lý của các tổ chức xã
hội công dân nói chung và địa vị pháp lý của HCCBVN nói riêng trong quản lý nhà
nước là một vấn đề rất quan trọng. Tuy vậy, các phạm vi nghiên cứu về HCCBVN hiện
nay chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ là tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị.
Đối với địa vị pháp lý của HCCBVN, nhất là địa vị pháp lý của Hội trong tham gia
quản lý nhà nước là phạm vi hầu như chưa được các tác giả tập trung nghiên cứu.
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đã đề cập ở trên và những vấn đề
về thẩm quyền tham gia quản lý nhà nước của Hội, tác giả cho rằng cần phải tiến hành
nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống các quyền, nghĩa vụ và các bảo đảm thực hiện
quyền, nghĩa vụ của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước nhằm khẳng định vị
trí, vai trò, địa vị pháp lý của HCCBVN nói riêng và của các tổ chức chính trị - xã hội
nói chung trong tham gia quản lý nhà nước là yêu cầu của xã hội dân chủ cũng như
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Đây sẽ là hướng tiếp cận mới để làm sáng tỏ địa vị pháp lý của HCCBVN trong
tham gia quản lý nhà nước từ góc độ nghiên cứu liên ngành: quản lý hành chính nhà
nước; lý luận về nhà nước và pháp luật; Luật Hiến pháp; Luật Hành chính; thậm chí từ
góc độ các quyền con người, quyền công dân trong việc tham gia các tổ chức hội.
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu lý luận và từ thực tiễn về địa vị
pháp lý của HCCBVN, tác giả sẽ phát triển nghiên cứu địa vị pháp lý của Hội trong
quản lý nhà nước. Từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường địa vị
pháp lý của Hội trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước nhất định; đồng thời cũng chỉ
ra những hạn chế trong quản lý của các cơ quan nhà nước để khắc phục nhằm đảm bảo
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCNVN và nền dân chủ XHCN.
17
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI CỰU
CHIẾN BINH VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Trên thế giới, tổ chức “cựu chiến binh” được ra đời từ khá sớm, ban đầu nó được
xuất phát từ ý tưởng về kỷ niệm ngày đình chiến, là ngày lễ mỗi năm một lần tại Hoa Kỳ
nhằm tôn vinh các CCB. Đây là một ngày lễ toàn quốc, được tổ chức hàng năm vào ngày
11 tháng 11 và trùng với một số ngày lễ khác, lúc đầu nó được gọi với tên là Ngày đình
chiến hoặc Ngày tưởng niệm. Ngày lễ này cũng được tổ chức ở nhiều nước khác nhau
trên thế giới vì ngày này cũng là ngày đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ
nhất. Tổng thống Woodrow Wilson là người đầu tiên công bố ngày lễ đình chiến vào
ngày 11 tháng 11 năm 1919. Bảy năm sau đó, ngày 4 tháng 6 năm 1926, Quốc hội Hoa
Kỳ phê chuẩn kiến nghị của Tổng thống Woodrow Wilson lấy ngày 11 tháng 11 năm
1919 làm ngày đình chiến. Đến năm 1953, Alvin King có ý tưởng là mở rộng ngày
đình chiến để kỷ niệm không chỉ những người đã chết trong Thế chiến thứ nhất mà cho
tất cả những CCB từ trước tới nay. Đến ngày 1 tháng 6 năm 1954, Quốc hội Mỹ đã
thay đổi “Ngày đình chiến” thành “Ngày cựu chiến binh” và Tổng thống Dwight
Eisenhower ký dự luật thành luật chính thức vào ngày 26 tháng 5 năm 1954. Tuy gốc
của ngày 11 tháng 11 hàng năm là ngày lễ tưởng niệm nhưng kể từ năm 1971, theo quy
định của Luật Uniform Monday Holiday Act, ngày CCB được tính vào ngày thứ hai
của tuần thứ 4 trong tháng 10; đến năm 1978 được chuyển lại như cũ là ngày 11 tháng 11
hàng năm. Như vậy, tên gọi “cựu chiến binh” và khái niệm “cựu chiến binh” bắt đầu từ
năm 1953 của thế kỷ XX. Khái niệm “cựu chiến binh” theo nghĩa rộng là để chỉ các quân
nhân đã công tác trong quân đội và đã từng tham chiến; khái niệm “cựu chiến binh” theo
nghĩa hẹp được hiểu ngắn gọn là để tôn vinh các CCB. Với sự ra đời ban đầu của tổ chức
Cựu chiến binh Mỹ, các tổ chức cựu chiến binh ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng lần
lượt ra đời và phát triển.
Ở Việt Nam, trong lịch sử đấu tranh của cách mạng với những cuộc đấu tranh
để giành chính quyền và chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện” để đánh đuổi quân
xâm lược giải phóng và bảo vệ Tổ quốc đã tạo nên đội ngũ đông đảo CCBVN. Trong
giai đoạn đầu của cách mạng Việt Nam, khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập,
18
để tập hợp lực lượng, Đảng đã thành lập các đơn vị vũ trang “Vệ quốc quân, Việt
Minh,…” để đấu tranh với đế quốc, phong kiến. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân thành lập và dần phát triển thành Quân đội nhân dân Việt
Nam. Trong những năm đầu thành lập, lực lượng quân đội của chúng ta còn ít, để thực
hiện cuộc chiến tranh nhân dân, các lực lượng tự vệ, dân quân, du kích, thanh niên
xung phong, dân công hỏa tuyến được thành lập và cùng quân đội chiến đấu. Sau khi
hoàn thành nhiệm vụ, giải ngũ đều được thừa nhận là CCB. Do vậy “Cựu chiến binh
Việt Nam" có ngồn gốc rất đa dạng, nội hàm tên gọi CCBVN cũng rộng hơn rất nhiều
tên gọi “cựu chiến binh” các quốc gia khác trên thế giới. Ví dụ, ở Mỹ có (tên gọi CCB)
gắn với các cuộc chiến tranh hoặc các tổ chức nhân đạo như: CCB tham chiến ở Việt
Nam; CCB tham chiến ở Nam Tư…; ở Liên Xô trước đây và ở Liên bang Nga hiện
nay, người ta còn phân biệt hai tên gọi: CCB (những quân nhân từng tham gia chiến
tranh) và thường là gắn với cuộc chiến cụ thể. Chẳng hạn, CCB Chiến tranh thế giới
lần thứ hai, CCB chiến tranh Triều Tiên, CCB chiến tranh ở Afganistan…; bên cạnh đó
có tên gọi cựu quân nhân (những người từng phục vụ trong quân đội, chưa tham gia
cuộc chiến tranh nào, những người lính nghĩa vụ trong thời bình).
Để tập hợp các CCBVN, ngày 6 -12 -1989, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VI đã quyết định cho thành lập HCCBVN. Mục đích của Hội là tập
hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ CCBVN giữ gìn và phát huy bản chất,
truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của CCB, chăm lo giúp đỡ nhau
trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
2.1.2. Khái niệm Cựu chiến binh và Hội Cựu chiến binh Việt Nam
2.1.2.1. Khái niệm Cựu chiến binh Việt Nam
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, khái niệm “cựu chiến binh”
được hiểu là:“Cựu chiến binh là người đã từng tham gia quân đội, lực lượng vũ trang
trong một cuộc chiến tranh”.
Theo Điều 2, Pháp lệnh Cựu chiến binh quy định: “Cựu chiến binh là công dân
nước Cộng hoà XHCNVN, đã tham gia đơn vị vũ trang chiến đấu chống ngoại xâm
giải phóng dân tộc, làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã nghỉ hưu,
chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ, bao gồm:
- Cán bộ, chiến sĩ đã tham gia các đơn vị vũ trang do Đảng Cộng sản Việt Nam
19
tổ chức trước Cách mạng tháng Tám năm 1945;
- Cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam là bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, bộ đội biên phòng, biệt động đã tham gia kháng chiến chống ngoại xâm bảo
vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế;
- Cán bộ, chiến sĩ, dân quân, tự vệ, du kích, đội viên đội công tác vũ trang trong
vùng địch tạm chiếm đã tham gia chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc;
- Công nhân viên quốc phòng đã tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu chống
ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc;
- Cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam, dân quân, tự vệ đã tham gia
chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã hoàn
thành nhiệm vụ trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [58, Điều 2].
Ở đây đã có sự khác biệt khá lớn giữa cách hiểu trong từ điển và cách quy định
của pháp luật về CCB ở Việt Nam. Điều này được lý giải từ điều kiện lịch sử cũng như
từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.
2.1.2.2. Khái niệm Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Từ khái niệm và quy định của pháp luật thực định về CCBVN như trên, có thể
hiểu HCCBVN là tập hợp tự nguyện của các CCBVN thành một tổ chức gọi chung là
HCCBVN. Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung về một tổ chức hội tự nguyện, đối
với hệ thống chính trị Việt Nam còn có những đặc thù riêng, do đó HCCBVN có
những đặc điểm riêng như sau:
Khi nghiên cứu về các HCCB trên thế giới cho thấy, các hội đó đều có điểm
chung là tập hợp của những người đã từng tham gia quân đội và tham gia chiến tranh
tự nguyện tập hợp lại. Hội được thành lập trên cơ sở những tư tưởng về quyền tự do
lập hội, xem đó là một đặc tính tự nhiên của con người. Những người theo quan điểm
pháp luật tự nhiên cũng coi tự do lập hội là quyền tự nhiên của con người, có trước bất
kỳ sự chấp thuận nào của nhà nước. Quyền tự do lập hội từng bước được pháp luật các
quốc gia và luật nhân quyền quốc tế ghi nhận và bảo vệ [59]. Như vậy, theo trường
phái luật tự nhiên cũng như từ góc độ pháp lý các hội nói chung, HCCB nói riêng ở
các nước trên thế giới đều có chung một đặc điểm là hội được tự nguyện tập hợp lại
một cách tự do, không cần đến sự chấp thuận của nhà nước hay chính đảng nào.
Đối với nước ta, HCCBVN là tổ chức do những CCBVN tự nguyện tập hợp lại.
Tuy nhiên, khác với các quốc gia trên thế giới, do lịch sử cách mạng Việt Nam đã tạo nên
nguồn gốc, bản chất, đặc điểm riêng của CCBVN và quá trình thành lập HCCBVN, nên
20
HCCBVN được Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam và Nhân dân Việt Nam
dành sự quan tâm đặc biệt đối với Hội và cách thức tổ chức, thành lập, địa vị pháp lý…,
của Hội cũng có những điểm khác biệt so với các HCCB của nhiều nước trên thế giới.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về HCCBVN như sau:
HCCBVN là tổ chức tự nguyện của những cán bộ, chiến sĩ đã tham gia các đơn vị vũ
trang cách mạng, các sỹ quan, chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam, dân quân, tự vệ,
du kích, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, công nhân viên quốc phòng,
quân nhân chuyên nghiệp hiện đã nghỉ hưu, phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành được
công nhận là CCBVN.
2.1.3. Các đặc điểm của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Thứ nhất, HCCBVN là hội của những người xuất thân từ các tầng lớp nhân dân,
được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã trải qua các cuộc đấu tranh cách mạng
giành chính quyền và các cuộc chiến tranh chính nghĩa để giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc; làm nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân các nước cùng chiến đấu giải phóng và bảo
vệ đất nước thoát khỏi thảm họa nô lệ và diệt chủng.
Thứ hai, HCCBVN là tập hợp của các CCBVN đang sống trên khắp các địa bàn
của Tổ quốc và tham gia vào hoạt động trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều
CCB được Đảng, chính quyền và nhân dân tín nhiệm bầu, cử vào giữ các cương vị
lãnh đạo trong các cơ quan của Đảng, chính quyền và các đoàn thể. Uy tín, ảnh hưởng
của họ có tác động mạnh đến quản lý nhà nước.
Thứ ba, HCCBVN là tập hợp của các CCBVN - những công dân yêu nước đã
từng sẵn sàng hy sinh, đã chịu gian khổ và có nhiều công lao cống hiến, đóng góp đặc
biệt (đóng góp xương máu và tuổi xuân) cho cách mạng, cho Đảng, cho đất nước. Họ
trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc, là nguồn lực tinh thần cao quý của dân tộc
(nguồn lực mềm), tạo nên giá trị sức mạnh tinh thần to lớn trong lòng nhân dân Việt
Nam. Những chiến thắng họ làm nên, những hy sinh, cống hiến của họ cho cách mạng,
cho đất nước đã trở thành di sản cao quý được Đảng, Nhà nước, nhân dân trân trọng,
giữ gìn cho hiện tại và tương lai. Tiếng nói và hoạt động của họ có ảnh hưởng quan
trọng đến đời sống chính trị và quản lý nhà nước ở Việt Nam.
Thứ tư, HCCBVN từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, có di sản tinh
thần cao quý là bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” được nhân dân phong tặng. Họ là
lực lượng tiên phong, gương mẫu trong xã hội, sẵn sàng đấu tranh với bất công, với các
thế lực chống phá để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân. Họ là chỗ
21