Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.18 KB, 14 trang )

Mục lục

PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
1. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời,
đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa trước đây nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu
mới về bản chất, khác hẳn với các kiểu nhà nước từng có trong lịch sử. Bản chất bao trùm
chi phối mọi lĩnh vực tổ chức và hoạt động của đời sống nhà nước là tính nhân dân của nhà
nước. Điều 2 Hiếu pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện bằng những đặc trưng sau:
a. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng, trải qua
bao hy sinh gian khổ làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhân dân tự mình lập nên
nhà nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay là sự tiếp nối sự nghiệp
của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là nhà nước do Nhân dân mà nòng cốt là liên
minh công - nông - trí thức, tự mình định đoạt quyền lực nhà nước.
Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực
nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là Nhân dân thông qua bầu
cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.


b. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên


lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có truyền thống lâu dài, là nguồn gốc sức
mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng cường và nâng cao nhờ khả năng
kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm
2013 khẳng định: “ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia
là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính
sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát
triển với đất nước”.
c. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân
Trước đây, trong các kiểu nhà nước cũ, quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan
hệ lệ thuộc, người dân bị lệ thuộc vào nhà nước, các quyền tự do dân chủ bị hạn chế.
Ngày nay, khi quyền lực thuộc về nhân dân thì quan hệ giữa nhà nước và công dân đã
thay đổi, công dân có quyền tự do dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng
thời làm tròn nghĩa vụ trước nhà nước. Pháp luật bảo đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều
giữa nhà nước và công dân; quyền của công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước,
nghĩa vụ của công dân là quyền của nhà nước.
2. Chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, thể
hiện bản chất, mục đích của nó, được quy định bởi thực tế khách quan của tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội trong nước và tình hình quốc tế từng giai đoạn phát triển.
Căn cứ vào phạm trù tác động của các phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, có
thể chia các chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại.
a. Chức năng đối nội
- Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội. Muốn tiến hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải bảo đảm an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà nước phải có đủ sức mạnh và kịp thời
đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, đảm bảo điều kiện ổn định cho
Nhân dân sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, Nhà nước phải quan tâm xây dựng các lực lượng
an ninh, các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời phải “phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị, tính tích cực cách mạng của khối đại đoàn kết toàn dân, phối hợp lực lượng
quốc phòng và an ninh trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự” (Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.ST, H1991, tr.87).


- Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân. Đây là một trong những chức
năng quan trọng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa; bởi vì, việc thực hiện chức năng
này thể hiện trực tiếp bản chất của nhà nước kiểu mới, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Đồng thời, việc thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước
trong việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn tại, phát
triển của bản thân Nhà nước và chế độ. Đảng ta nhấn mạnh “Nhà nước có mối liên hệ
thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan
liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân
dân”(Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).
- Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là
chức năng quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của
Nhà nước. Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả
tất cả các chức năng của mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa là hoạt động thường xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao hiệu lực
quản lý của Nhà nước. Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội bằng pháp luật.
- Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùng là chức năng hàng đầu và là cơ

bản nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng mọi xã hội dựa trên cơ sở
vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta là người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao động, là người
chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; là người nắm trong tay các công cụ, phương
tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, pháp luật, tài chính, ngân hàng…) và quản lý việc sử
dụng tài sản quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh, phát triển kinh tế trong nước cũng như hợp tác quốc tế.
- Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao động làm chủ; có
nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và công nghệ tiên tiến; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột, bất
công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Muốn xây
dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, phát
triển khoa học và công nghệ. Đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, phát
huy vai trò then chốt của khoa học và công nghệ. Đó là những động lực trực tiếp của sự phát
triển, tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm
tổ chức quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã
hội. Trước mắt, cần chuẩn bị cho đất nước bước vào những giai đoạn phát triển tiếp theo
trong tương lai, hòa nhập với sự phát triển của nền văn minh thế giới.


b. Chức năng đối ngoại
Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp
đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng
thế giới. Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào
sự nghiệp đấu tranh chung của nhân loại thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).

- Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực hiện tốt khi Tổ
quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là chức năng cực kỳ quan trọng nhằm
giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân, tạo điều
kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi,
cùng tồn tại hòa bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở kiên trì đường
lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là
giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực
vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb.ST, H1991, tr.88).
- Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực
dân cũ và mới. Chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến và chạy
đua vũ trang, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều vào cộng
đồng thế giới. Vì vậy, bất cứ nhà nước tiến bộ nào cũng đều có nghĩa vụ ủng hộ phong trào
cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam không tách rời sự ủng
hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân thế giới. Ngày nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang mở rộng hợp tác với tất cả các nước trên thế giới cùng phấn đấu vì một thế
giới hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
3. Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, bộ máy nhà nước cần được tổ chức chặt chẽ,
khoa học. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa
phương, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng

bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.


Thông thường trong bộ máy nhà nước nói chung bao gồm ba loại cơ quan: cơ quan lập
pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
- Cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương).
- Cơ quan hành chính nhà nước, tức là cơ quan hành pháp (đứng đầu hệ thống này là
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, huyện, xã, các sở, phòng, ban…).
- Cơ quan tư pháp:
+ Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa
án quân sự…).
+ Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương, Viện kiểm sát quân sự). Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước tùy thuộc vào
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà nước.
Nhìn tổng quát, bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức
thành các phân hệ sau:
a. Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được
quy định tại Điều 70 Hiến pháp 2013.
b. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 86); nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 88
Hiến pháp 2013.
c. Chính phủ

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ
có nhiệm vụ thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã hội trên cơ sở Hiến pháp và luật.
d. Các cơ quan xét xử:
Các cơ quan xét xử gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân địa phương.


- Tòa án quân sự.
- Các tòa án do luật định.
Nhiệm vụ là xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia
đình… để bảo vệ trật tự pháp luật. Nguyên tắc hoạt động của tòa án là độc lập xét xử, chỉ
tuân theo pháp luật.
đ. Các cơ quan kiểm sát
Các cơ quan kiểm sát gồm:
- Viện kiển sát nhân dân tối cao.
- Viện kiểm sát nhân dân địa phương.
- Viện kiểm sát quân sự.
Nhiệm vụ là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hiện quyền công tố nhà nước
trong phạm vi thẩm quyền do luật định, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
e. Chính quyền địa phương
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết
định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều 113).
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là
cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu

trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân
dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết
của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao (Điều
114).
4. Phương thức hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, Nhà nước áp dụng nhiều hình thức
hoạt động khác nhau. Những hình thức ấy bắt nguồn và trực tiếp thể hiện bản chất cũng như
mục tiêu hoạt động của Nhà nước. Hoạt động của Nhà nước là hoạt động quản lý gắn với
quyền lực, pháp luật. Nó thường diễn ra dưới các hình thức cơ bản là:
- Ban hành pháp luật;
- Thực hiện pháp luật;
- Bảo vệ pháp luật.
Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, chẳng hạn, quan hệ
giữa các giai cấp trong xã hội; quan hệ giữa Nhà nước với các cộng đồng dân tộc trong một


quốc gia; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; quan hệ giữa Nhà nước với các cộng đồng tôn
giáo… Các quan hệ đó lại diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của đời sống. Nhiệm vụ của Nhà nước ta là sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát triển theo hướng lành mạnh và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình quản lý, Nhà nước phải kết hợp pháp luật với đạo đức, coi trọng giáo dục nâng cao đạo
đức xã hội chủ nghĩa, hơn nữa, do bản chất của Nhà nước ta quy định nên dù Nhà nước hoạt
động dưới hình thức nào cũng phải thu hút được đông đảo nhân dân lao động tham gia vào
xây dựng nhà nước và quản lý nhà nước.
II. Quá trình xây dựng nhà nước XHCN ở VN
Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Đảng ta chính thức đưa vào văn
kiện Đại hội VII của Đảng, trong đó nêu rõ: “Quốc hội cần hướng vào việc thực hiện hai yêu
cầu cơ bản: Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước có năng lực định ra một hệ
thống luật pháp đồng bộ đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản
lý mọi mặt xã hội văn minh, tiến bộ; hệ thống pháp luật đó là cơ sở bảo đảm cho đường lối,

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực thi có hiệu quả, là một nhân tố
trọng yếu làm cho các quan hệ xã hội của chúng ta trở nên lành mạnh hơn. Hai là, bảo đảm
quyền lực và hiệu lực trên thực tế của Quốc hội, do Hiến pháp quy định”.
Từ Đại hội VII đến Đại hội VIII, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước
pháp quyền đã có bước phát triển. Nếu như ở Đại hội VII, Đảng ta mới chỉ xác định yêu cầu
phải xây dựng nhà nước pháp quyền và mới chỉ định hình được rằng, đó là nhà nước có năng
lực định ra một hệ thống luật pháp đồng bộ để quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thì đến Đại
hội VIII, Đảng ta lại xác định thêm tính “xã hội chủ nghĩa” cho nhà nước pháp quyền, tức là
chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng ta thấy bước phát
triển tư duy lý luận của Đảng về nhà nước pháp quyền là ở chỗ đã đề cao tính pháp chế, coi
đó là đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng coi trọng khía cạnh đạo đức
như một thuộc tính của xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và xác định bản chất của nhà nước, đó là của dân, do dân và vì dân. Đồng thời với chủ
trương tăng cường pháp chế, các Nghị quyết của Đại hội IX cũng chủ trương mở rộng dân
chủ - là cơ sở chính trị - xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Còn về cơ sở
kinh tế - chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta dựa trên bản chất
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Chủ trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng
ta khẳng định lại ở Đại hội X: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả
thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”.
Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là đặc trưng cơ bản của


nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành
của nhà nước, bởi vì ở các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến là “tam
quyền phân lập”. Việc Đảng ta xây dựng cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực nhà nước là thống
nhất, chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước và pháp luật.
Chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
những đặc trưng đã nêu ở trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng, trong
đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước
theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”.
Qua quá trình đổi mới và phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, có thể thấy:
Một là, Đảng đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và coi đó là yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Hai là, nhận diện được hình hài của nhà nước pháp quyền: là phương thức tổ chức dân chủ
quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện quyền lực cũng như
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội.
Ba là, nhất quán chỉ rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân.
Bốn là, nhận rõ đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là tính pháp chế, khẳng định vai
trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, tính tối cao của Hiến pháp trong
đời sống xã hội.
Năm là, xác định được cơ chế vận hành của các cơ quan quyền lực nhà nước: quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sáu là, thấy rõ yêu cầu mở rộng dân chủ đồng thời với việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
giáo dục đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bảy là, khẳng định nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều
đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, mà còn là kết luận chắc chắn được rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi
Đảng ra đời đến nay. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo đảm cho nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân,
thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều
kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn


thành mọi nhiệm vụ của mình và giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp
quyền.
Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về mặt lý luận, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới đã bộc lộ không ít những vấn
đề cần phải giải quyết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Về phương diện lý luận, cần giải quyết một số vấn đề sau:
Một là, cần xác định rõ những đặc trưng xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền mà
chúng ta đang xây dựng. Một số ý kiến cho rằng, nếu chỉ dựa trên cơ sở tính pháp chế và dân
chủ thì bất cứ nhà nước pháp quyền nào cũng như vậy. Còn nói đến cơ sở kinh tế của nhà
nước pháp quyền của chúng ta là ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường thì vẫn chưa rõ và có phần khiên cưỡng, thiếu sức thuyết phục. Trong khi chính tính
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường cũng chưa được được làm rõ về mặt
lý luận, thì có nên chăng lấy điều đó để lý giải cho một vấn đề chưa rõ khác? Hơn nữa, khi
nền kinh tế - tức cơ sở hạ tầng mới chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa, thì nhà nước - tức
kiến trúc thượng tầng có thể gọi là xã hội chủ nghĩa được không hay cũng chỉ mang tính định
hướng xã hội chủ nghĩa? Đó là vấn đề đặt ra cần được lý giải một cách khoa học. Chính vì
trong lịch sử chưa từng có một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đích thực, cho nên
trong lý luận về nhà nước pháp quyền vẫn còn một mảng trống mà chúng ta cần bổ sung và
phát triển.
Hai là, cần làm rõ cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cần làm sáng tỏ “tính độc lập
tương đối” của mỗi quyền, sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực, bảo đảm quyền

lực không bị tha hóa và bị lạm dụng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tránh chồng chéo cũng
như tránh lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ba là, làm sáng tỏ hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Vấn đề đặt ra là chỉ ra
được phạm vi tác động của Đảng cầm quyền đối với các cơ quan quyền lực nhà nước, chỉ rõ
sự tối cao của pháp luật, tránh sự can thiệp tùy tiện của Đảng đối với hoạt động của các cơ
quan quyền lực nhà nước, tránh sự bao biện, ôm đồm, không tôn trọng luật pháp.
Bốn là, làm rõ cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân, của Mặt trận, của
các đoàn thể chính trị - xã hội đối với hoạt động của Nhà nước. Sở dĩ vấn đề này được đặt ra
là vì, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể
trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của hội đồng nhân dân
và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan
nhà nước và công chức nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín
nhiệm hay bất tín nhiệm của mình đối với các đại biểu mà mình bầu ra, tạo điều kiện để các
đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trách nhiệm của người đại diện nhân dân.


Năm là, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước
ta. Mặc dầu trong gần 30 năm đổi mới toàn diện của đất nước, chúng ta đã có nhiều đổi mới
trong lĩnh vực lập pháp, song hệ thống luật pháp của chúng ta cho đến nay vẫn tỏ ra chưa
theo kịp thực tiễn và còn nhiều bất cập. Do vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, yêu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra một cách cấp thiết hơn, nhằm xây dựng
hệ thống luật pháp của Việt Nam một cách hoàn chỉnh và ổn định hơn, làm cơ sở cho Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đổi mới tư duy pháp lý cần hướng đến giải quyết những nhiệm vụ như xác định mô hình luật
pháp của nước ta; nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây
dựng và thực thi các thể chế pháp lý, để tiếp thu có chọn lọc các giá trị và kinh nghiệm trong
lĩnh vực này; đổi mới công tác kế hoạch lập pháp; thay đổi quan niệm về quy mô các đạo
luật, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh hẹp. Một đạo
luật với ít các điều khoản sẽ được nhanh chóng xây dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều
chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích với các không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của

một đạo luật ít điều khoản không chỉ được thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng,
mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và
dễ áp dụng trên thực tế.
Về phương diện thực tiễn, cần giải quyết một số vấn đề như:
Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nghĩa là xây dựng và phát triển kinh tế bền vững.
Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như xóa đói, giảm nghèo, xóa dần khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền
xuôi và miền ngược, vấn đề tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, khám chữa bệnh
cho người nghèo…
Tăng cường kỷ cương phép nước, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi
phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ
của công dân; làm hàng giả, trốn, gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân
dân. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính, về cơ chế chính sách, về
quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, về công tác cán bộ,…
Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật. Bên cạnh việc xây dựng pháp luật, việc thực hiện
pháp luật cũng có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, hệ thống
pháp luật có thể rất đầy đủ, hoàn thiện nhưng việc thực hiện không nghiêm thì cũng không
thể nói đến sự hiện diện của nhà nước pháp quyền.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật. Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật
chưa tốt là do kiến thức về luật pháp chưa tốt, nhiều người dân chưa am hiểu về luật pháp,
chưa ý thức được sự cần thiết phải chấp hành luật, hoặc do không nắm được luật nên vi
phạm mà không biết. Chính vì vậy, để tăng cường việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng


sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng, của các đoàn thể chính trị - xã hội cũng
như bộ máy chính quyền các cấp và cuối cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, để
mệnh lệnh hành chính luôn được chấp hành một cách nghiêm túc và thông suốt từ trung

ương đến cơ sở.
Tăng cường hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ quan và từng
đại biểu hội đồng nhân dân, nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp
lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền cấp trên; kiểm tra, đánh
giá và kết luận, xử lý đối với việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân.
Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề được đặt ra hết sức bức
thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách nhiễu, quan liêu, tham
nhũng,… trong các cơ quan nhà nước. Thực tiễn cho thấy, dù hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy chế, quy tắc ứng xử của cơ quan quản lý nhà
nước có đạt đến độ hoàn mỹ thì cũng khó có thể đem lại hiệu quả như mong muốn nếu như
trong quá trình thực thi công vụ, cán bộ, công chức không thực hiện nghiêm pháp luật, chấp
hành không đúng quy chế, quy tắc ứng xử đã được thể chế hóa.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đây không phải là một vấn đề mới vì nó được đặt ra một cách
thường xuyên, liên tục, theo yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, trước thực trạng yếu kém và
bất cập của các tổ chức Đảng, sự thoái hóa, tụt hậu và biến chất của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên như hiện nay, thì vấn đề đổi mới và chỉnh đốn Đảng lại được đặt ra một
cách bức thiết hơn bao giờ hết. Đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng gồm nhiều nội dung như: Đổi
mới công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; đổi mới công tác tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị; công tác cán
bộ, công tác kiểm tra, giám sát; công tác quần chúng,… Chỉ có tiến hành đồng bộ những nội
dung đó mới làm cho Đảng ngày càng vững mạnh hơn, đủ năng lực lãnh đạo công cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan đối với Việt
Nam. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, đây là sự nghiệp dài lâu của toàn Đảng, toàn dân,
bởi vì trong việc này còn ngổn ngang nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải giải quyết cả về
phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Những vấn đề đó không phải dễ gì một sớm một chiều mà
giải quyết được. Để đạt tới một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của
nó cần có sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, sự đầu tư về trí tuệ, sức người, sức của,
của toàn xã hội.
III. Quan niệm của nhóm về việc thực hiện vai trò và chức năng của nhà nước pháp

quyền XHCNVN
1. Nhà nước ta đã thực hiện được như sau:

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đẩy mạnh, đạt được kết quả tích cực, tổ
chức bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức hoạt động của Nhà
nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước, giảm bớt các mệnh lệnh hành


chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được
nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác xây dựng pháp luật được tăng
cường. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự toán, quyết toán
ngân sách Nhà nước, các công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn.
Hoạt động giám sát tình hình và kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách của Ðảng
và Nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, những vấn đề bức thiết, quan
trọng của đất nước được đẩy mạnh, chất lượng được nâng lên. Cơ cấu tổ chức, bộ máy
của Chính phủ từng bước được sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tinh gọn; các bộ quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực được thành lập với những chức năng, nhiệm vụ được điều chỉnh,
đổi mới, tập trung vào lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý vĩ mô, giải quyết những vấn đề
lớn, quan trọng, tách khỏi quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Cải
cách hành chính được chú trọng, nhất là ở những lĩnh vực có quan hệ tới đời sống của
nhân dân và hoạt động của doanh nghiệp, bước đầu đạt được một số kết quả. Cải cách tư
pháp được đẩy mạnh. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp được đổi mới.v..v...
2. Khó khăn của nhà nước ta:

Công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo đánh giá chung của
Chính phủ còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và quản lý đất nước. Năng
lực xây dựng thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ,

thống nhất. Công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt còn yếu. Tổ
chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa hợp lý, chức năng, nhiệm vụ của một
số cơ quan chưa rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu
cầu đề ra, còn nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập. Cải cách tư pháp còn chậm,
chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa
chính xác, tình trạng án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn
còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã gây ra những khó khăn, cản trở, làm
hạn chế sự phát triển và thành tựu của đất nước, trong một số lĩnh vực còn tạo nên bức
xúc xã hội.
3. Biện pháp:

- Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý
Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
- Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước để nâng cao năng lực quản lý
của Nhà nước .
- Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội. Tiếp tục cải cách nền hành
chính nhà nước. Cải cách tư pháp. Hoàn thiện hệ thống luật pháp.


- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ năng lực quản lý, có phẩm chất chính trị
vững vàng và đạo đức trong sạch.
- Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy
nhà nước.

ĐÁNH GIÁ
Thành viên nhóm


Đóng góp

Đánh giá

Lê Anh Thuận

Phần I, II

10

Đinh Trần Anh Trúc

Phần II, III

10

Tài liệu tham khảo:
/> /> />


×