Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

TAI LIEU ON THI TOT NGHIEP LOP K19-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.48 KB, 68 trang )

ÔN THI TỐT NGHIỆP LỚP TRUNG CẤP CT-HC K19
Khối thi kiến thức 1
PHẦN I.1 – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN - CÔ HIẾU
Bài 1: Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
a. Định nghĩa vật chất, ý thức:
- “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18, NXB
Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.151).
Trước hết, Lê nin trong định nghĩa vật chất đã dùng định nghĩa đặc biệt khác
với thông thường. Nghĩa là đem đối lập giữa vật chất với ý thức để định nghĩa .
Nghĩa là tất cả những gì bên ngoài độc lập với ý thức con người đều là vật chất.
Về nội dung vật chất: có 2 nội dung chính:
Thứ nhất: vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan và con
người biết được qua cảm giác.
Thứ 2 là: Cảm giác chụp lại, nhắc lại và phản ảnh những tồn tại không phụ
thuộc cảm giác. Nghĩa là vật chất là cái mà con người có thể nhận biết được, chỉ có
cái chưa biết nhưng rồi con người sẽ biết thông qua nhận thức.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan
b. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm
sau:
- Vật chất có trước ý thức, vật chất quyết định ý thức
+ Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao, tổ chức
đặc biệt: bộ óc người. Không có bộ óc người thì không có ý thức
+ Ý thức phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản
ánh thế giới khách quan.
+ Vật chất còn là cơ sở, nguồn gốc của những nội dung mà ý thức phản ánh,


nghĩa là vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức
- Ý thức tác động trở lại đối với vật chất theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực

1


+ Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan thì nó thúc đẩy hoạt động
thực tiễn của con người.
+ Nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan thì ở một mức độ nhất
định nó sẽ kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người.
2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Quán triệt quan điểm khách quan trong nhận thức và cải tạo thế giới.
+ Phải nhận thức sự vật vốn như nó có, không “tô hồng, bôi đen”.
+ Phải xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh thực tế; tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan; phải luôn xuất phát từ chính bản thân sự vật, chống chủ nghĩa
chủ quan/
- Trong hoạt động thực tiễn phải biết phát huy tính năng động sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố của con người trong việc nhân thức,tác động cải tạo
thế giới. Quan điểm khách quan trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí.
3. Ý nghĩa của vấn đề này đối với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay?
(vận dụng)
Ở nước ta, trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt
bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây
dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc
sử dụng các thành phần kinh tế…
Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó là lực lượng sản xuất còn
nhỏ bé, chưa phát triển, còn chủ yếu là sản xuất nhỏ, lạc hậu, kinh tế hàng hoá
chưa phát triển. Chúng ta chỉ muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính đến điều kiện thực tế của đất nước.
Trong bố trí cơ cấu kinh tế,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ
xuất phát từ mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện và khả năng thực tế đề
ra những chỉ tiêu kế hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa,sử dụng các thành phần kinh tế, đã có hiện tượng
nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh
chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là phải duy
trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước đi thích hợp, phù hợp
với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát triển lực lượng sản
xuất.
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu,yếu kém về
lý luận, do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu
bao cấp.
2


Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học: “Đảng ta
luôn luôn xuất phát từ thực tế,tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiên đảm bảo sự lảnh đạo
đúng đắn của Đảng” (VKĐH VI).
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng,phải thừa nhận và tôn trọng
tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội, không được xuất
phát từ ý muốn chủ quan.
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra, trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và
hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý
luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế
xã hội có tính chất quá độ.

Mỗi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế
khách quan của đất nước và phù hợp quy luật. Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới. Do đó càng
nắm bắt thông tin về thực tế khách quan chính xác, đầy đủ trung thực và sử lý các
thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng hiệu quả.Đồng
thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận dụng tri
thức cũng như các quy luật của thế giới khách quan.
Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng ta xác định:
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan):
“Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lảnh đạo
đúng đắn của Đảng “là khẳng định vai trò tích cực của ý thức trong việc chỉ đạo
hành động con người. Như vậy, từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ vật chất
và ý thức, cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình
lảnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta đả rút ra bài học trên.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện
nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi
hỏi Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc
nhận thức đúng, tranh thủ đươc thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu
thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại, đồng thời xác định rõ những thách thức mà
cách mạng nước ta phải đối mặt.
Bài 2: Những vấn đề cơ bản của CN duy vật lịch sử:
1. Khái niện:
- PTSX là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội.
3


PTSX chính là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX
tương ứng.

- LLSX là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất.
- QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất được cấu thành từ quan hệ sở hữu về TLSX, quan hệ hệ tổ chức –
quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm lao động, trong đó quan hệ sở hữu vế TLSX
đóng vai trò quyết định.
2. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX
- Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho
phù hợp với nó.
- QHSX có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại đối với LLSX.
- QHSX phù hợp với sự phát triển của LLSX có tác dụng thúc đẩy LLSX phát
triển, ngược lại QHSX không phù hợp với LLSX, lạc hậu hoặc vượt trước sẽ có tác
dụng kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi đó theo quy luật chung QHSX củ sẽ
được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với sự phát triển của LLSX
3. Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam:
Trước thời kỳ đổi mới năm 1986, việc nhận thức và vận dụng Quy luật trên vào
nước ta đã mắc phải những sai làm, chủ quan, lệch lạc cụ thể:
Một là xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về TLSX một cách ồ ạt, trong khi chế độ
đó đng tạo địa bàn cho sự phát triển của LLSX
Hai là xây dựng chế độ công hữu về TLSX một cách tràn lan, trong khi trình độ
của LLSX còn thấp kém và phát triển không đồng đều.
Vội vàng áp đặt một QHSX cao hơn sự phát triển của LLSX là trái với Quy
luật.
Trong xây dựng QHSX mới ( QHSX XHCN) chúng ta chỉ mới xác lập được
chế độ sở hữu còn hình thức tổ chức quản lý và cách thức phân phối chưa được
giải quyết một cách đúng đắn.
Những sai lầm trên đã đẩy nến kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khung
hoảng. Ý thức được điều đó, thời kỳ đổi mới Đảng đã chủ trương chuyển từ một
nền kinh tế thuần nhất XHCN sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN

Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hương XHCN ở
nước ta là vận dụng một cách đung đắn và sáng tạo quy luật QHSX phù hợp với
trình đô phát triển của LLSX. Chủ trương đó bắt nguồn từ thực trạng trình độ phát
4


triển của LLSX còn thấp và chưa phát triển đồng đều. đẻ khai thác, phát huy hét
mọi năng lực, LLSX phải tạo lập nhiều loại hình QHSX thì mới phù hợp.
Hiện nay nền kinh tế nước ta như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ
rõ các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo phát luật đều là
bộ phận hợp thành quan trong của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế khác cùng phát triển.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ
phát triển của LLSX trong thời kỳ đổi mới đã làm cho nền kinh tế nước ta có
những bước phát triển vượt bậc. Nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, tạo đà cho sự
phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Bài 7: Liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH
1. Khái niệm: Liên minh công – nông – trí thức là sự đoàn kết, hợp lực, hợp
tác…của công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi
ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh; đồng thời góp phần thực hiện lợi
ích chung của dân tộc, của sự nghiệp xây dụng chủ nghĩa xã hội.
2. Những nội dung cơ bản của khối liên minh công – nông trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Nội dung chính trị của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Là sự đoàn kết, hợp lực của CN, ND, TT để thực hiện các nhiệm vụ chính trị

nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ chính trị để giữ vững định hướng đi
lên CNXH.
- Giữ vững lập trường chính trị của GCCN (độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH)
- Giữ vững vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với khối liên minh trong quá trình xây
dựng và bảo vệ chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc, định hướng đi lên
CNXH
- Tăng cường đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị
2. Nội dung kinh tế của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.(Nội dung này quan trọng nhất)
- Một là, xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công nhân, nông
dân, trí thức và toàn xã hội, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ chức
5


triển khai các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích của các bên và
tránh sự đầu tư không hiệu quả, lãng phí.
- Hai là, tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công
nghiệp – nông nghiệp- khoa học và công nghệ; giũa các ngành kinh tế; các thành
phần kinh tế, các vùng kinh tế; giữa trong nước và quốc tế để phát triển sản xuất
kinh doanh, nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức và toàn xã hội.
- Ba là, nâng cao hiệu quả việc chuyển giao và ứng dụng khoa học – kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp và công nghiệp
nhằm gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực kinh tế cơ bản của quốc gia, qua đó gắn bó chặt
chẽ công nhân, nông dân và trí thức làm cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển cảu
quốc gia.
3. Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh thực chất là sự đoàn kết, hợp lực của

công nhân, nông dân, trí thức nhằm xầy dựng nền văn hóa mới và con người mới
xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh đòi hỏi:
+ Phải đảm bảo kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ
và công bằng xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa; bảo vệ môi
trường sinh thái; xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
trong đó công nhân, nông dân, trí thức là nguồn nhân lực quan trọng và cơ bản nhất
của quốc gia.
+ Phải thực hiện xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt các chính sách xã hội đối
với công nhân, nông dân, tri thức; chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng sống
ho nhân dân; nâng cao dân trí.
- Đây là nội dung cơ bản, lâu dài tạo điều kiện cho liên minh phát triển bền
vững.
3. Vấn đề liên minh công – nông – trí thức ở địa phương (327)
a. Thành tựu:
Xác định đây là vấn đề có tính nguyên tắc, chiến lược của cách mạng Việt Nam,
Đảng ta chỉ rõ: “ĐĐKTDT trên nền tảng liên minh GCCN với GCND và đội ngũ
trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
Thực tế, cuộc CMDTDCNN và thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay, GCCN luôn
liên minh chặt chẽ với GCND và đội ngũ trí thức  giành thắng lợi trong cuộc đấu
6


tranh giải phóng dân tộc tiến tới xây dựng và bảo vệ đất nước đi theo định hướng
XHCN.
b. Hạn chế: có những lúc, những nơi và ở các mức độ khác nhau, liên minh giữa
các lực lượng này còn bị xem nhẹ hoặc chưa thực hiện đúng mức. Chẳng hạn:
- GCCN: số lượng còn hạn chế, một bộ phận công nhân có tay nghề chưa cao, ý

thức giác ngộ giai cấp, tính tổ chức kỷ luật còn hạn chế.
- GCND: sự hỗ trợ, liên kết của công nghiệp và của khoa học – công nghệ chưa
chặt chẽ  hiệu quả sản xuất nông nghiệp nhiều địa phương chưa cao (số lượng,
chất lượng); lợi ích của nông dân ở nhiều nơi chưa được coi trọng, đời sống nông
dân còn nhiều khó khăn.
- Đội ngũ trí thức: số lượng ít; hoạt động nghiên cứu khoa học nhiều khi xa rời
thực tiễn, tính ứng dụng vào công nghiệp, nông nghiệp chưa cao, chưa kịp thời,
tình trạng chảy máu chất xám, lãng phí chất xám còn diễn ra phổ biến.
c. Phương hướng, giải pháp: (329)
- Quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng
GCCN, GCND và đội ngũ trí thức.
- Tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn
mới là phương thức căn bản và quan trọng để thực hiện liên minh C-N-TT ở Việt
Nam hiện nay.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt Quy chế dân chủ,
Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
- Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức CT-XH, tổ chức
nghề nghiệp của CN-ND-TT.
PHẦN I.2 – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
BÀI 8: NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG HCM
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:
Năm 2011, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển), Đảng ta đã khái quát khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi

mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
7


2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.(4 nguồn gốc)
a. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo
lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền
thống tốt đẹp và cao quý.
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực tự cường trong
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên
suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa
– tinh thần việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào
Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
- Thứ hai, là tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ xuất hiện trong quá
trình dựng nước, giữ nước và trở thành giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu
giai cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa,
phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể
hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo,
ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người việt
Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên
cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến
những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình. Hồ
Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây:
- Tư tưởng văn hóa phương Đông.
+ Nho giáo: Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo cũng
có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là triết lý

hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý tưởng về một xã hội bình trị;
triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh
thần hiếu học.
+ Phật giáo: Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn,
thương người như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản
dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác
chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống
lười biếng.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây.
+ Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của văn hóa phương Tây đã tác động mạnh
mẽ tới suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh (đó là những tư tưởng cơ bản của
8


chủ nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp: quyền dân
tộc, quyền con người và tư tưởng dân chủ)
+ Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách sinh hoạt khoa học ở
Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện trong
phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết làm
giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa Đông, Tây, từ tầm
cao củ tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và
phát triển.
c. Chủ nghĩa Mác - Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- CN Mác-Lênin là cơ sở, nguồn gốc lý luận chủ yếu nhất hình thành và phát
triển tư tưởng HCM
- Tư tưởng HCM là sự vận dụng sáng tạo, phát triển CN Mác-Lênin trong thời
đại mới.

 CN Mác-Lênin cung cấp thế giới quan và phương pháp luận mácxít, giúp Hồ
Chí Minh có sự chuyển biến về chất nhận thức cách mạng của mình để có thể tiếp
thu và chuyển hóa những giá trị tích cực, tiến bộ của tinh hoa văn hóa nhân loại và
từ đó hình thành nên một hệ thống những quan điểm về cách mạng Việt Nam, hình
thành nên tư tưởng HCM về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
d. Trí tuệ và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
- Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán
tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu.
- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời
đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công
nhân quốc tế.
- Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách
mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ sẵn
sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc
của đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh
tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại
thành tư tưởng đặc sắc của mình.
Bài 9: TTHCM về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
1. Quan niệm của HCM về độc lập dân tộc (362)
9


a. Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự
- Các quyền dân tộc cơ bản được đảm bảo
- Dân tộc đó có quyền tự quyết định trên tất cả các lĩnh vực (đối nội, đối ngoại)
b. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc
- Đây là quyền của tất cả các dân tộc trên thế giới
- Mỗi người dân có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ nền độc lập của dân tộc mình

c. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình
- Chỉ có độc lập thực sự mới có nền hòa bình chân chính
- Chỉ có hòa bình chân chính mới có được độc lập hoàn toàn
d. Độc lập dân tộc phải đi tới tự do, hạnh phúc cho nhân dân
- Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân
- Khẳng định chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”
2. Quan niệm của HCM về CNXH (363)
a. Về đặc trưng bản chất của CNXH:
- CNXH là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng có công ăn, việc làm, được ăn
no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ
lần nhau.
- Về mặt phân phối sản phẩm: CNXH là ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì
hưởng ít, ai có sức lao động mà không làm thì không hưởng, người già, đau yếu,
tàn tật và trẻ em thì được xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc, nuôi
dưỡng.
- Trong CNXH, văn hóa, KHKT, chính trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được quan tâm và ngày càng được nâng cao.
- Về mặt đối ngoại, CNXH là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các nước.
b. Về mục tiêu của CNXH:
- Về chế độ chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ
- Về kinh tế: xây dựng nền kinh tế XHCN trên cơ sở công hữu về TLSX
- Về văn hóa: phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của CNXH (ngang hàng
với kinh tế, chính trị, xã hội)
- Về quan hệ xã hội: xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với
người.
c. CNXH tạo cơ sở củng cố và giữ vững độc lập dân tộc:
10


- Xóa bỏ nguyên nhân kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế

độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất gây ra.
- CNXH thực hiện cuộc cách mạng về kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật.
d. Những điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Việt
Nam:
- Trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững,
củng cố và tăng cường
- Khối ĐĐKTD trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng phải được củng cố và mở rộng.
- Sự ủng hộ và giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ, tiến bộ
trên thế giới được giữ vững và phát triển.
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với CNXH (367)
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết
- Phải thực hiện thành công cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (Cương lĩnh
đầu tiên)
- Tạo tiền đề đi lên CNXH
b. Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên CNXH:
Xây dựng CNXH với các tiền đề:
- Chính trị:
+ Xây dựng và phát triển hệ thống chính trị do ĐCS Việt Nam lãnh đạo
+ Thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất và thực hiện đoàn kết toàn dân trong
Mặt trận.
+ Giành chính quyền và xây dựng một nhà nước cách mạng thực sự của dân, do
dân, vì dân.
- Kinh tế:
+ Bước đầu hình thành đường lối kinh tế từng bước xây dựng các cở sở kinh tế
có tính chất XHCN
+ Mục đích: từng bước cải thiện đời sống nhân dân, bồi bổ các lực lượng cách
mạng
- Văn hóa – xã hội:
+ Xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa cách mạng

+ Giải quyết những vấn đề xã hội trên nền tảng của CN Mác-Lênin

11


c. CNXH là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc: Đây là sự lựa chọn duy
nhất vì:
- Đây là con đường duy nhất của Việt Nam khi giành độc lập
- Phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển các hình thái KT-XH
- Phù hợp với xu thế của thời đại
- Phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam
4. Vận dụng mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với CNXH ở nước ta hiện
nay:
a. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong sự nghiệp đổi
mới.
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH
- Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH trên nền tảng CN Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b. Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với CNXH hiện nay:
- Muốn xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trước hết phải phát huy mọi tiềm năng, sức
mạnh của nguồn nội lực, tranh thủ nguồn ngoại lực bên ngoài, tận dụng thời cơ,
điều kiện quốc tế thuận lợi,làm gia tăng sức mạnh dân tộc.
- Xác định rõ bước đi, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của đất nước trên nguyên tắc đặt lợi ích của đất nước lên trên hết.
- Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với CNXH phải được thể hiện trong suốt quá
trình đổi mới, trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Giữ vững định hướng XHCN trong tiến trình đổi mới. Đây là con đường duy
nhất đúng đắn trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, phù hợp với thời đại. Đồng
thời tiếp tục làm rõ mục tiêu, đặc trưng và động lực của CNXH trong đổi mới.

Bài 10: TTHCM về Đại Đoàn kết:
1. Quan điểm của HCM về đại đoàn kêt
Tư tưởng đại đoàn kết HCM là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai trò,
nội dung, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm
phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp
đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc: (4 nguyên tắc)
- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất lợi ích của quốc gia,
dân tộc với các quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
12


- Tin dân dựa vào dân, phấn đấu vì qyền lợi của nhân dân
Nguyên tắc này là sự kết hợp tư duy chính trị truyền thống của dân tộc “dân
là gốc của nước”. Có nghĩa dân là gốc rễ, là nền tảng, là chủ thể, là sức mạnh vô
tận vô địch là chổ dựa vững chắc của đại đoàn kết, của ĐCS và hện thống chính
trị; vừa là sự quan triệt quan điểm của chủ nghĩa M Lnin” cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng”.
- Đại đoàn kết là một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài
và chặt chẽ.
HCM cho rằng: Đoàn kết không những rộng rãi mà còn lâu dài, đoàn kết là
một chính sách dân tộc ko phải là một thủ đoạn chinh trị. Ta đoàn kết cho đấu
tranh thống nhất và độc lập của tổ quốc ta, ta còn phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Đoàn kết rộng rãi chặt chẽ, đồng thời phải cũng cố. nền có vững thì
nhà mới chắc, gốc có tốt thì cây mới tươi.
- Đoàn kết phải chân thành thẳng thắng thân ái, đoàn kết phải gắn liền với tự
phê bình và phê bình.
Đoàn kết thật sự là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau,
phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân.

Do vậy, đoàn kết phải thực hiện phê bình và tự phê bình, để khắc phục sữa
chữa khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, cũng cố nội bộ, cũng cố tổ chức,
tăng cường đoàn kết. Tự phê bình và phê bình phải chân thành thẳng thắn, thân
ái, phải có lý, có tình, phê bình việc chứ ko pê bình người.
3. vận dụng các nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay.
a. Thành tựu:
- Thông qua việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng,
củng cố khối ĐĐK, phát huy dân chủ  góp phần đẩy mạnh sản xuất, thực hiện
các nhiệm vụ phát triển KT-XH, QP-AN
- Việc tập hợp nhân dân với các hình thức đa dạng có bước phát triển mới:
MTTQ và các tổ chức thành viên ngày càng phát huy vị trí, vai trò cùa minh, nội
dung hoạt động phong phú, thiết thực hơn  lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân
dân vào các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước.
- Khối ĐĐKTDT trên nền tảng liên minh công – nông – trí được mở rộng hơn,
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển KT-XH, giữ vững ổn định CT-XH của
đất nước
b. Hạn chế, thách thức:

13


- Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân giảm sút
(vì đời sống còn khó khăn + những bất bình trước những bất công xã hội + tình
trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến)
- Kỷ cương, phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm, đạo đức XH có mặt
xuống cấp; trật tự an toàn xã hội còn phức tạp.
- Việc tập hợp nhân dân vào MTTQ và các đoàn thể CT-XH, các tổ chức xã hội
còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số…
c. Giải pháp:

- ĐĐKTD phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi lích giữa các thành
viên trong XH.
- Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối ĐĐK
dân tộc
- Tin dân, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng
mắc của nhân dân, làm tốt công tác dân vận.
- Đoàn kết quốc tế phải dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau; hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.
Bài 12: TTHCM về các bộ và công tác cán bộ: (430)
1. Vai trò của đạo đức cách mạng: (432)
- Đạo đức là cái gốc, nền tảng của người cách mạng (là gốc của cây, là ngọn
nguồn của sông suối)
- Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần hy sinh cả tính mạng cũng không tiếc. Có đạo đức
cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ,
chất phát, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không
kiêu ngạo, không hủ hóa.
- Đạo Đức là thước đo lòng cao thượng của con người. Mỗi người có công việc,
tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ
được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH, thể hiện ở những giá trị
đạo đức tốt đẹp, ở phẩm chất của người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và
hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
2. Yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ:
a. Trung với nước, hiếu với dân
14


- Phải quyết tâm, suốt đời, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân

dân
- Đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
- Phải trọng dân, tin dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, thương dân, hòa mình với quần chúng nhân dân thành một khối.
- Nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý.
- Quan tâm dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ, dân vận
- Làm cho dân tin, dân phục, dân yêu
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ
lại, không dựa dẫm.
- Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không
phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Cần và Kiệm phải đi đôi
với nhau như hai chân của con người. Bác chỉ rõ tiết kiệm không phải là bủn xỉn.
Khi không đáng tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng
khi có việc cần làm lợi cho dân, cho nước thì hao bao nhiêu của, tốn bao nhiêu
công cũng vui lòng, như thế mới là kiệm.
- Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không
tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ
hủ hoá".
- Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn".
+ Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
+ Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
+ Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Theo Bác, trên

trái đất có hàng muôn triệu người, trong số người đó chỉ có thể chia làm hai hạng
là người thiện và người ác.
Bác khẳng định: Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính, như một cái cây cần có
cành lá, hoa quả mới là một cây hoàn toàn. Con người có Cần, Kiệm, Liêm nhưng
cần phải Chính thì mới hoàn chỉnh
15


- Chí công vô tư, Bác nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc". "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau"; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Như vậy, thực chất của
chí công vô tư ở đây chính là thể hiện mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích
tập thể, thể hiện thái độ, trách nhiệm của mỗi người đối với công việc được giao.
Chí công vô tư còn là ham làm những gì có lợi cho dân, cho nước, không ham địa
vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý. Đối lập với chí công vô tư là chủ
nghĩa cá nhân. Bác coi chủ nghĩa cá nhân là thứ giặc ở trong lòng, tội cũng nặng
như tội việt gian, mật thám vậy. Thực hành chí công vô tư là kiên quyết quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
- Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ
Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất; nó thể
hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
- Yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại đa số nhân
dân, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Phải làm mọi việc để phát huy sức
mạnh của mỗi người; đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Yêu thương con người thì phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể
cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.

- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm,
phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
- Tinh thần quốc tế là một phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ bản chất của GCNN
và chế độ CNXH.
- Người luôn tôn trọng, quan tâm đến các dân tộc. Người đặt sự nghiệm cách
mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thế giới, coi thắng lợi của nhân dân
Việt Nam cũng là thắng lợi chung của nhân dân tiến bộ thế giới, thắng lợi của bạn
cũng là thắng lợi của mình.
- Người lên án và đấu tranh chống chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng, phân biệt
chủng tộc; đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế giới. Người
gắn mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt Nam với mục tiêu chung của nhân loại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Liên hệ bản thân về rèn luyện đạo đức cách mạng:
16


(Căn cứ vào các yêu cầu về đạo đức đối với người cán bộ để liên hệ với bản
thân, tài liệu chỉ tham khảo)
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở ĐƠN VỊ HIỆN NAY
Một là: Phát triển kinh tế xã hội theo hướng nhanh, bền vững nhằm tạo tiền
đề vật chất để xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
Theo quan điểm của các nhà kinh điển mácxít, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, suy đến cùng kinh tế quyết định chính trị. Như vậy, cơ sở của đạo đức cũng
xuất phát từ kinh tế. Vấn đề phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là “con đường rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước, phát huy tối đa những tiềm năng và lợi thế
của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa trong từng bước, gắn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế”. Mặt khác, “phát triển nhanh phải đi liền với phát triển bền
vững. Phát triển bền vững phải bao trùm các mặt của đời sống kinh tế, xã hội, tức
là phải gắn kết sự phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc
phòng an ninh”.
Đạo đức phản ánh và chịu sự quy định của đời sống kinh tế mà trực tiếp là quan hệ
lợi ích của con người. Chúng ta nói nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân, điều đó không có nghĩa là không quan tâm đầy đủ đến lợi ích chính đáng
của từng người. Lợi ích của tập thể và cá nhân có mối quan hệ hữu cơ, thống nhất
với nhau, trong đó lợi ích tập thể phải đặt lên trên hết, trước hết. Tách rời và đối
lập hai mặt đó với nhau là một quan điểm sai lầm. Vì vậy, việc chăm lo phát triển
kinh tế, qua đó nâng cao đời sống vật chất cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân
dân Bình Thuận phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu tạo nền tảng của việc bồi dưỡng
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.
Thực tế cho thấy rằng, ở đâu và lúc nào mà tình hình kinh tế - xã hội phát triển
thuận lợi, tình hình chính trị ổn định thì sẽ tạo tiền đề cho đạo đức cách mạng được
củng cố, duy trì và phát triển. Hiện nay, Bình Thuận là một thành phố năng động
đang trên đà phát triển. Bình Thuận đang đẩy mạnh các hoạt động kinh tế - xã hội
rất đa dạng, trở thành động lực lôi kéo cả khu vực miền Trung và Đông Nam bộ.
Thông qua các hoạt động đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Bình Thuận có điều
kiện để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý; kĩ năng tổ chức thực hiện; rèn luyện,
trau dồi các phẩm chất đạo đức cần thiết.
Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển về "Xây dựng Bình
Thuận trở thành một trong những đô thị lớn của khu vực, là trung tâm kinh tế - xã
hội lớn của miền Trung” thì Bình Thuận cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn
nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giữ vững ổn định chính trị, phát
17


triển kinh tế nhanh và bền vững. Việc thực hiện các nhiệm vụ đó sẽ tạo tiền đề vật

chất tốt nhất cho việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên, góp phần giữ vững và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, đồng
thời hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức mới phù hợp với điều kiện
công tác và làm việc trong giai đoạn hiện nay của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hai là: Phát huy vai trò của hệ thống chính trị các cấp ở địa phương trong
việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
Bất kỳ tổ chức nào cũng do con người lập ra và đến lượt nó, các tổ chức lại quy
định hành vi của các thành viên theo những chuẩn mực nhất định. Cán bộ, đảng
viên là những người hoạt động trong các tổ chức thuộc hệ thống kinh tế - chính trị,
trong đó, Đảng là hạt nhân lãnh đạo. Việc phát huy vai trò của các tổ chức nhằm
quản lý, giáo dục, kiểm tra, giám sát, phê bình cán bộ, đảng viên có tác dụng to lớn
đối với việc nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn ngừa,
hạn chế và khắc phục những biểu hiện tiêu cực khác về mặt đạo đức của cán bộ,
đảng viên.
Chúng ta cần xác định việc thực hiện nhiệm vụ chính trị phải gắn với xây dựng tổ
chức, trong đó có tổ chức Đảng và các tổ chức đoàn thể, làm công tác đảng viên,
công tác cán bộ đồng thời cũng phải làm công tác về bộ máy.
Ba là: Chú trọng tự giáo dục và giáo dục đạo đức cách mạng, tiếp tục đẩy
mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ,
đảng viên
Giáo dục là con đường cơ bản, phổ biến để hình thành và phát triển những năng
lực và phẩm chất cần thiết cho mỗi người chuẩn bị bước vào cuộc sống lao động và
trở thành công dân hữu ích cho xã hội. Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan
trọng của giáo dục, là yêu cầu khách quan nhằm nâng cao vai trò của đạo đức đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên. Thực chất của
giáo dục đạo đức là nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện ý thức đạo đức cũng
như năng lực thực hiện hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Điều đó có nghĩa là hình
thành những chủ thể có ý thức trong việc bảo vệ và tăng cường lợi ích cộng đồng
xã hội. Tuy nhiên, không phải cứ tăng trưởng kinh tế là đạo đức cách mạng tự động
được nâng cao. Không phải cứ đời sống vật chất được cải thiện là sự sa đọa về lối

sống, xuống cấp về đạo đức tự động được khắc phục. Sự hình thành những phẩm
chất đạo đức của mỗi người không diễn ra một cách tự phát mà nó là kết quả sự nổ
lực của quá trình giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi cá nhân theo những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Việc chú trọng tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng
viên là biện pháp có ý nghĩa quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc
tự giác hóa quá trình hình thành, phát triển đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ,
18


đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh rằng đạo đức cách mạng
không phải từ trên trời sa xuống, mà nó được củng cố và phát triển chủ yếu do sự
đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày. Vì vậy, cùng với sự quản lý, giáo dục thường
xuyên của tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn tự mình trau dồi, rèn luyện tu
dưỡng các phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Thực tế cho
thấy, không ít cán bộ, đảng viên đã từng quên mình, anh hùng trong kháng chiến vì
độc lập tự do của Tổ quốc và có những người đã từng giữ chức vị cao trong bộ
máy Đảng, Nhà nước nhưng khi trở về cuộc sống đời thường do không thường
xuyên tu dưỡng đạo đức nên có biểu hiện công thần, tự cao tự đại, gây mất đoàn
kết nội bộ hoặc bị sa ngã trước những cám dỗ vật chất tầm thường, thậm chí trở
thành kẻ có tội với đất nước và nhân dân.
đơn vị; xây dựng các quy định về tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, đảng viên ở từng
vị trí công tác và kịp thời biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến “làm theo”
tấm gương đạo đức của Bác. Những yếu tố trên nhằm nâng cao hơn nữa ý thức tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân. Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được coi là một trong những
nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên càng giữ các
trọng trách lớn càng phải chú tâm rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh để cổ vũ mọi người học tập.
Bốn là: Nâng cao trình độ về các mặt, nhất là trình độ lý luận chính trị - hành

chính của cán bộ, đảng viên
Cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên tiến nhất của giai cấp công nhân. Đối với mỗi
cán bộ, đảng viên dù trong hoàn cảnh nào, cương vị nào cũng đòi hỏi phải có cả
đức lẫn tài. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Các cấp ủy và
chi bộ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học tập, rèn luyện, không ngừng
nâng cao trình độ chính trị, học vấn chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo,
quản lý”. Việc nâng cao trình độ về lý luận chính trị - hành chính sẽ tạo sự phát
triển ngày càng hoàn thiện cho mỗi cán bộ, đảng viên, là yếu tố để mỗi cán bộ,
đảng viên phát huy hết mọi khả năng đối với công việc, góp phần làm tăng hiệu
quả trong công tác nhất là đối với công tác quản lý, lãnh đạo.
Để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị - hành chính cho
cán bộ, đảng viên, Bình Thuận cần tổ chức nhiều hơn các đợt học tập nâng cao
trình độ chính trị - hành chính cho cán bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ chủ chốt;
tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học. Để đạt
hiệu quả cao, công tác này đòi hỏi ý thức tự giác học tập rèn luyện của mỗi người.
19


Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Bình Thuận hiện nay, để khắc phục
tình trạng yếu kém về đạo đức của một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên thì việc tổ
chức Đảng chăm lo đào tạo, bồi đưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất
chính trị lẫn học vấn tri thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản lý là
một việc làm quan trọng và cấp bách hiện nay.
Năm là: Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường sự giám sát của
nhân dân đối với cán bộ, đảng viên
Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên nảy sinh trong quá trình xây dựng xã hội
mới qua hoạt động thực tiễn của họ. Cán bộ, đảng viên là những người trực tiếp
tiếp xúc với nhân dân, giải quyết những vấn đề có liên quan đến lợi ích của nhân
dân và bản thân họ. Vì vậy, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có hay
không và như thế nào đều được thể hiện ở những việc làm cụ thể của mỗi cán bộ,

đảng viên. Đạo đức của cán bộ, đảng viên không chỉ phụ thuộc vào phẩm chất và
năng lực tự giải quyết công việc của họ mà còn phụ thuộc vào quyền làm chủ của
nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào sự đổi mới phương
thức lãnh đạo của cấp uỷ, sự điều hành của chính quyền. Qua đó, cán bộ, đảng viên
đã khắc phục dần lối làm việc tuỳ tiện, cảm tính; gần gũi, sâu sát với nhân dân hơn,
lắng nghe ý kiến đúng đắn của nhân dân, tiếp thu nguyện vọng chính đáng của
nhân dân trong việc xây dựng các chương trình, mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội ở nước ta; tệ quan liêu, độc đoán, cửa quyển giảm dần, niềm tin của
nhân dân đối với cán bộ, đảng viên ngày càng được củng cố. Điều đó góp phần làm
ổn định trật tự ở địa phương, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với các cấp uỷ
và các cơ quan lãnh đạo.
Việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở cần đi đôi với việc tăng cường sự giám
sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên. Thông qua việc phát huy quyền làm
chủ và sự giám sát của nhân dân để rèn luyện cán bộ, đảng viên về lập trường tư
tưởng, quan điểm, tác phong và lối sống cách mạng. Bởi vì, nhân dân là những
người trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, đảng viên và thấy được năng lực, phẩm chất
của cán bộ, đảng viên qua những việc làm cụ thể của họ. Thực tế ở nước ta và
thành phố Đà Nẵng cho thấy, nơi nào quy chế dân chủ ở cơ sở được phát huy, công
tác kiểm tra, giám sát của nhân dân được coi trọng thì nơi đó tổ chức Đảng lãnh
đạo và hoạt động có hiệu quả; cán bộ, đảng viên luông là những người gương mẫu,
chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; gần
gũi, tôn trọng nhân dân tạo môi trường lành mạnh ở nơi làm việc và nơi cư trú. Vì
vậy, việc giáo dục và nâng cao ý thức làm chủ và phát huy tới mức cao quyền làm
chủ của nhân dân ở thành phố Đà Nẵng hiện nay cần đi đôi với những biện pháp tổ
20


chức, đảm bảo cho quần chúng thực sự kiểm tra, giám sát công việc của cán bộ,
đảng viên ở cơ sở, các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền, các đơn vị sản xuất – kinh
doanh, các đơn vị hành chính - sự nghiệp phải thường xuyên tổ chức quần chúng

phê bình cán bộ, đảng viên, góp ý kiến phê bình cơ quan lãnh đạo quản lý tạo
thành dư luận rộng rãi, thành nề nếp thường xuyên của quần chúng là giám sát,
biểu dương người tốt, việc tốt, phê bình và lên án những tư tưởng, hành động, tác
phong xấu của cán bộ, đảng viên.
Trong những năm qua, các chi bộ đảng ở xã, phường, thị trấn đã rất chú trọng đến
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Các chi bộ chú ý phân công các đồng chí
đảng viên trực tiếp tham gia làm trưởng các đoàn thể, mặt trận thôn (khu phố). Mọi
thắc mắc của dân đều được cán bộ, đảng viên giải thích cặn kẽ để dân hiểu và nắm
bắt được. Từ đó, nhân dân tự giác chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; tự nguyện tham gia đóng góp xây dựng nhiều công trình
dân sinh đạt hiệu quả. Mọi chủ trương của cấp trên cũng như của chi bộ đều được
đưa ra cho nhân dân thảo luận, bàn bạc và khi thống nhất ý kiến mới triển khai
thực hiện. Các thôn (khu phố) cũng thường xuyên tổ chức quần chúng phê bình,
đóng góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn; giám sát, giáo dục, giúp đỡ
những đảng viên vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật và đạo đức. Nhờ đó,
cán bộ, đảng viên trong các chi bộ được trưởng thành hơn, nhiều chi bộ đạt chi bộ
trong sạch vững mạnh trong nhiều năm.
Từ những điều đề cập trên đây, có thể khẳng định rằngviệcthực hiện tốt quy chế
dân chủ cơ sở, tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảngviên là
một trong những yếu tố góp phần làm cho cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức đạo
đức cách mạng, làm cho nhân dân tin tưởng hơn vào đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Sáu là: Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện
tiêu cực về đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng đạo đức cách mạng. Vì
vậy, thắng lợi của cách mạng không thể tách rời cuộc đấu tranh bài trừ chủ nghĩa
cá nhân.
Cán bộ, đảng viên là những người chịu trách nhiệm trước Đảng, trước tập thể và
nhân dân. Cán bộ, đảng viên là người đại diện cho lợi ích của một tập thể, một
cộng đồng. Mặt khác, Đảng ta là đảng cầm quyền nên hầu hết những người có
chức, có quyền đều là đảng viên. Các chức vụ phải đi đôi với các quyền trong đó

21


có quyền bảo vệ các tài sản của Nhà nước và phân bổ các tài sản này theo Hiến
pháp, pháp luật hoặc theo các nguyên tắc đã được thông qua. Chính đây là chỗ một
số cán bộ, đảng viên mang nặng chủ nghĩa cá nhân có thể lợi dụng để chiếm đoạt
tài sản, làm trái Hiến pháp, pháp luật, nguyên tắc và thể lệ chung.
Ở Bình Thuận hiện nay, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân rất đa dạng. Biểu
hiện nổi bật đối với người có chức quyền là quan liêu, tham nhũng. Ngoài ra còn
có các biểu hiện khác như cơ hội về chính trị, cơ hội về tổ chức, chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy lợi…Muốn loại bỏ những hiện tượng này trước hết phải loại
trừ chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: Do chủ nghĩa cá
nhân mà cán bộ, đảng viên ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng
phí xa hoa. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán
chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh
lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ…
Cũng do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém
tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Vì vậy, “muốn thành
người cách mạng, thành người cộng sản chân chính phải chống chủ nghĩa cá
nhân”.
Hiện nay, Bình Thuận vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham
nhũng. Từ khi Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng Bình Thuận được thành lập,
tình hình chống tham nhũng tại Bình Thuận có bước chuyển biến cơ bản tích cực.
Qua 9 tháng đầu năm 2015, Bình Thuận đã tập trung triển khai thực hiện đúng tiến
độ các nội dung, công việc đã đề ra tại Kế hoạch phòng, chống tham nhũng năm
2015. Đặc biệt Bình Thuận quan tâm công tác cải cách hành chính là khâu góp
phần giảm thiểu tiêu cực, tham nhũng. Đi đôi với công tác phòng thì công tác
chống cũng được quan tâm: trong 9 tháng đầu năm 2015 Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ
đã xử lý kỷ luật 2 tổ chức Đảng với hình thức khiển trách và 45 đảng viên. Nội

dung vi phạm chủ yếu là chấp hành chưa nghiêm các Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm
phẩm chất đạo đức, lối sống…. Thanh tra Bình Thuận đã tiến hành nhiều cuộc
thanh tra, kiểm tra, đã kiến nghị thu hồi nộp ngân sách hơn 4 tỷ đồng, qua đó, có
tác dụng ngăn ngừa tham nhũng. Công tác điều tra, truy tố và xét xử cũng triển
khai rất nghiêm minh, đúng người, đúng tội nên có tác dụng răn đe nhất định.
Tóm lại, trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, đảng viên Bình Thuận tăng lên
đáng kể về chất lượng và số lượng. Có thể nói rằng, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã
có mặt ở hầu hết các ngành, các cấp. Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
22


viên cũng có bước chuyển biến mới. Trình độ lý luận chính trị, học vấn chuyên
môn của cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt. Cán bộ, đảng viên Bình Thuận
luôn luôn là lực lượng tiên phong trong mọi công việc, chủ động sáng tạo trong
học tập và công tác nhằm phục vụ có hiệu quả những yêu cầu của tình hình mới đặt
ra.
Mặc dù vậy, từ thực trạng đạo đức và công tác xây dựng đạo đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên Bình Thuận hiện nay ,điều cần thiết là phải xây dựng, bồi dưỡng,
nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thành phố. Để xây
dựng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên Bình Thuận hiện
nay cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đã được đề cập. Điều đó chắc chắn sẽ phát
huy hơn nữa vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp đổi
mới và tạo ra động lực thúc đẩy việc thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa
phương./.
Phần II: Những vấn đề cơ bản về ĐCS VN và lịch sử ĐCS VN (cô Vân)
Bài 1: Học thuyết M-L và ttHCM về ĐCS
1. Những nguyên lý về đảng kiểu mới của Lê nin (8 Nguyên lý).
- Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ĐCS.
- ĐCS là đội tiền phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặc chẽ nhất,

cách mạng nhất và giác ngộ nhất của GCCN.
- Giành được chính quyền, Đ là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chuyên chính vô sản và
là một bộ phận của hệ thống ấy.
- Tập trung dân chủ là nguyên tác cơ bản xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đ.
- Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của Đ, tự phê bình và phê bình là quy
luật phát triển của Đ.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh kiên quyết ngăn chặn và loại trừ bệnh
quan lieu.
- Đ kết nạp những người ưu tú của GCCN, nhân dân LĐ vào Đ, kịp thời đưa những
người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đ.
- Cương lĩnh, đường lối của Đ phải quán triệt chủ nghĩa quốc tế vô sản.
2. Tư tưởng HCM về ĐCS: (6 quan điểm)
- ĐCS là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng.
- ĐCS VN là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa M-L với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.
- ĐCS VN là Đ của GCCN đồng thời là Đ của dân tộc VN.
- ĐCS VN phải được xây dựng theo nguyên lý đảng kiểu mới của GCCN.
- Đ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân,.
23


- ĐCS VN phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đ.
Bài 3: Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
1. K/n ĐCS cầm quyền: là k/n để chỉ một giai đoạn, một thời kỳ mới của cách mạng.
đó là giai đoạn mà CNXH trở thành công việc phấn đấu hàng ngày của Đ. Trong
đó nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, chủ yếu và trọng tâm là tổ chức xây dựng đất
nước, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu.
2. Đặc điểm của ĐCS cầm quyền:(4 quan điểm)
- Sự thay đổi căn bản nhiệm vụ chính trị của Đ: chuyển từ nhiệm vụ lãnh đạo nd

đấu tranh giành chính quyền sang nhiệm vụ tổ chức và quản lý đất nước, xây dựng
CNXH với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng kinh tế và bảo vệ tổ quốc.
- Đ cầm quyền trong điều kiện đã có nhà nước XHCN: Sau khi có chính quyền Đ
thiết lập nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân mang bản chất GCCN, là công
cụ để GCCN và nhân dân LĐ thực hiện quyền làm chủ của mình. Đồng thời cũng
là công cụ sắc bén để ĐCS thực hiện lãnh đạo đối với toàn XH.
- Sự thay đổi phương thức lãnh đạo của Đ: Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đ đối với nhà nước, MT và các đoàn thể. Loại trừng những phương thức,
phương pháp, biện pháp k còn phù hợp; sáng tạo ra những phương thức, phương
pháp, biện pháp mới đa dạng, phong phú và sát hợp hơn.
- Đ cầm quyền lãnh đạo xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc: Trước những tác động
tích cực, tiêu cực của thế giới, khu vực và trong nước đòi hỏi Đ ta phải k ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tiếp tục đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo.
3. Nội dung và phương thức lãnh đạo của ĐCS trong điều kiện Đ cầm quyền:
(phân tích thêm trang 71)
- Nội dung lãnh đạo:(4 nội dung) Xây dựng chủ trương, đường lối; Lãnh đạo xây
dựng nhà nước; Lãnh đạo công tác cán bộ; Kiểm tra, giám sát đối với nhà nước và
các tổ chức trong HTCT.
- Phương thức lãnh đạo: (5 phương thức) Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, chủ
trương, đường lối; Lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục; Lãnh đạo bằng công tác
tổ chức cán bộ; Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát; Lãnh đạo bằng phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Bài 4: Sự ra đời của ĐCS VN và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đ:
1. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCS VN:( 6 nội
dung cơ bản)
+ Mục tiêu chiến lược của cách mạng: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tời XHCS (căn cứ vào 2 mâu thuẫn trong XH VN lúc bấy giờ và
xu thế thời đại, giải phóng dân tộc, giải phóng con người rồi đi tới đấu tranh giải
phóng dân tộc)

+ Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng: chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc
và chống phong kiến giành ruộng đất cho dân cày.
+ Lực lượng của cách mạng: công-nông là lực lượng chính, đồng thời đoàn kết tất
cả các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.
24


2.
-

-

-

-



-

+ Phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền.
+ Vai trò lãnh đạo: ĐCS VN là đội tiền phong của GCVS, sự lãnh đạo của Đ là
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
+ Đoàn kết quốc tế: cách mạng VN liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách
mạng TG(chung kẻ thù là thực dân, đế quốc, chung mục tiêu giải phóng dân tộc,
tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới).
Ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCS VN đối với tiến
trình cách mạng VN: (4 ý nghĩa)
Phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bàn về đường lối chiến lược và sách
lược của cách mạng VN(xác định được phương pháp, nhiệm vụ và lực lượng cách

mạng để thực hiện chiến lược và sách lược đề ra).
Đáp ứng yêu cầu cơ bản và cấp bách của XH VN, phù hợp với xu thế của thời đại,
định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng VN.
Là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa M-L vào hoàn cảnh cụ thể cùa một
nước thuộc địa nửa phong kiến. VN từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở
thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN; nhân dân VN
từ than phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ XH.
Khẳng định dứt khoát nội dung, xu hướng phát triển của XH VN là gắn liền đldtộc
với CNXH là phù hợp với thời đại mới.
Bài 9: Đ lãnh đạo công cuộc đổi mới từ 1986-nay.
Bối cảnh lịch sử của ĐH VI của Đ:
TG:Xu hướng hợp tác và cạnh tranh trên TG đang từng bước thay thế xu hướng
đối đầu và xung đột; Những thành công cũng như thất bại của các nước trên TG
khi tiến hành cải cách, đã gợi ra nhiều bài học kinh nghiệm mà VN có thể tham
khảo.
Trong nước: Trước ĐH VI đất nước rơi vào khủng hoảng KT-XH; Cuối những năm
70 tk XX, ở một số địa phương đã có những tìm tòi thử nghiệm cách làm ăn mới;
Đ và Nhà nước ta đã kịp thời tổng kết thực tiễn, điều chình cơ chế, chính sách để đi
đến hoàn tất các quan điểm đổi mới (3 bước đột phá: NQ TW6 khóa 4 làm cho sản
xuất bung ra; NQ TW8 khóa 5 xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; HN Bộ
chính trị (8/1986) đề ra các quan điểm kinh tế).
Sản xuất kinh tế khủng hoản
+ Tư duy kinh tế
+ Tổng kết thực tiễn.
Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới của đại hội VI của ĐCS VN năm 1986:
(gồm 5 nội dung) Liên hệ thực tiễn.
Đổi mới cơ cấu KT (nông nghiệp là mặt trần hàng đầu; điều chỉnh lớn cơ cấu đầu
tư: sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, sx hàng hóa x khẩu);
Đổi mới cơ chế quản lý KT(xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu hành chính
bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa)

Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của nhà nước về KT;
25


×