Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

SKKN môn TLV l3 15 16 (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 40 trang )

Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY
TẬP LÀM VĂN Ở LỚP 3
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài :
a/ Cơ sở lí luận:
Tiểu học là cấp học đầu tiên, là nơi các em bước vào ngưỡng cửa tri thức.
Giai đoạn này các em được cung cấp hai luồng tri thức thông qua môn học chính
đó là: Tiếng việt và Toán.Mỗi môn học có nhiệm vụ riêng có hướng giáo dục tri
thức riêng, nhưng vẫn tác động qua lại lẫn nhau và cùng các môn học khác tạo nên
nền tảng vững vàng cho các cấp bậc sau. Trong đó môn Tiếng Việt ở Tiểu học có
vai trò nền tảng cho học sinh trau dồi vốn ngôn ngữ và sử dụng thành thạo Tiếng
Việt. Trong đó Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng
trong việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Dạy phân môn Tập làm
văn được tốt tức là người giáo viên đã thâm nhập cả chuỗi kiến thức từ các phân
môn: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm
văn có tính chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Ở
lớp 3, phân môn tập làm văn rèn bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ
tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập
(nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh
đó học sinh còn tập kể lại được những mẩu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp.
Qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn nhằm bồi dưỡng thái độ ứng xử
có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh
tốt đẹp cho học sinh.
b/ Cơ sở thực tiễn :
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 3, bản thân nhận thấy rằng học sinh
chưa thực sự yêu thích môn Tập làm văn chẳng phải vì đây là môn học không có sức
cuốn hút, không tạo sự đam mê yêu thích cho học sinh mà là giáo viên chưa thổi được


hồn vào trong các tiết Tập làm văn khi giảng dạy học sinh. Từ những băn khoăn trăn
1


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

trở: Tại sao học sinh mình không thích học tiết làm tập làm văn? Khả năng nghe, nói,
kể, viết của các em ngày càng hạn chế? Tôi đã nhiều lần học hỏi, tìm tòi, tham khảo,
thử nghiệm và mạnh dạn viết kinh nghiệm : "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả
dạy tập làm văn ở lớp 3 " với các dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện” và “Kể hay
nói, viết về một chủ đề”.
1.2.Xác định mục đích nghiên cứu:
Qua kinh nghiệm này sẽ giúp giáo viên lựa chọn phương pháp dạy học phù
hợp đối với các dạng bài cụ thể. Giúp mỗi tiết dạy giáo viên cảm thấy tự tin hơn,
khắc phục được những hạn chế của giáo viên khi đứng lớp, rèn được cho giáo viên
kĩ năng, kĩ xảo dạy học môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập làm văn.
Cách hướng dẫn thường xuyên của giáo viên sẽ tạo ra con đường mòn trong
bộ não của các em, giúp các em hình thành được những kĩ năng đọc kĩ đề, xác
định yêu cầu trọng tâm.
Giúp giáo viên từng bước cân bằng trình độ học sinh trong lớp học; giúp học sinh
tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành chương trình môn học,
lớp học và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
-Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa và hình thức luyện tập dạy và học
trong giờ tập làm văn lớp 3 như thế nào?
-Đưa ra một số biện pháp dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới.
-Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên , vở bài tập của môn tiếng việt lớp 3
để tìm hiểu nội dung , các dạng bài tập về phân môn tập làm văn lớp 3 ở trường
tiểu học hiện nay.
-Nghiên cứu và tham khảo các sách nâng cao, các tài liệu có liên quan như: Tạp

chí Thế giới trong ta, các chuyên đề về môn tiếng việt ở Tiểu học.
-Tham khảo ý kiến đồng nghiệp và những người có tâm huyết về sự nghiệp trồng
người
-Rút ra bài học cho bản thân

1.4 Đối tượng khảo sát ,thực nghiệm :
2


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

-Học sinh lớp 3A (Năm học: 2016-2017 )
-Hoạt động dạy và học trong giờ tập làm văn lớp 3
1.5: Phương pháp nghiên cứu:
Qua quá trình nghiên cứu , Tôi đã áp dụng một số phương pháp sau :
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp.
-Phương pháp điều tra , khảo sát.
-Phương pháp luyện tập thực hành
-Phương pháp thống kê.
-Phương pháp trao đổi , tranh luận.
Trong các phương pháp trên , khi nghiên cứu Tôi vận dụng hài hòa các
phương pháp để tìm ra các giải pháp của mình để đạt kết quả tối ưu nhất
1.6.Phạm vi và thời gian nghiên cứu:
Đề tài này Tôi đã nghiên cứu và áp dụng qua thực tế giảng dạy tại các
lớp khối 3 nơi Tôi đang công tác hiện nay.
Năm học 2014- 2015:
Hình thành sáng kiến
Nghiên cứu lý thuyết
Năm học 2015- 2016:

Ứng dụng thực nghiệm
Xem xét kết quả cuối năm
Năm học 2016- 2017 đến nay.

2. NỘI DUNG
2.1 : Nh ững nội dung lý luận có liên quan
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng
tổng hợp từ nhiều phân môn khác như :Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập đọc,
Luyện từ và câu... Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng
: “ nghe, nói, đọc, viết ” Phải vận dụng những kiến thức về Tiếng Việt , về cuộc
sống thực tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập
3


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa hoc, góp phần dạy học sinh
sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy , Tập làm văn được coi là
phân môn có tính tổng hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các
môn học khác.
Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra ngoài phương
pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế.
Học tốt Tập làm văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác đồng thời giáo
dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luỵên khả năng giao tiếp
và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt, hình
thành nhân cách con người Việt Nam.
2.2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
-Mục tiêu nghiên cứu trong đề tài này là tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
- Tìm hiểu các bài tập về nghe, kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ đề có

trong chương trình tập làm văn lớp 3.
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập làm văn ở lớp 3 với dạng
bài: Nghe- kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ đề để l ựa chọn phương pháp
dạy học thích hợp.
*.Việc dạy của giáo viên:
Qua thực tế dự giờ thăm lớp của giáo viên trong trường cũng như trường
bạn tôi nhận thấy:
- Một số đề bài thay vì chỉ dạy trong thời gian nửa tiết học nay đã được dạy trọn
trong một tiết học nên cách tổ chức các hoạt động trong giờ tập làm văn còn lúng
túng. Giáo viên chưa biết nội dung trọng tâm cần truyền tải đến học sinh mà chỉ
biết dựa vào sách giáo viên và thậm chí đi theo sự hướng dẫn trong sách giáo viên
để dạy bài nào cũng giống bài nào. Giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng
bài soạn, kiền thức còn hạn hẹp, chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các
phương pháp dạy học và hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ
giảng dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn.
- Khả năng diễn đạt của giáo viên còn hạn chế, ngôn ngữ chưa được trau
chuốt: giáo viên còn “bí từ” khi giảng. Kiến thức bài còn bó hẹp hoàn toàn trong
sách giáo khoa và chỉ biết nêu lên trình tự trong sách giáo khoa chứ chưa biết
4


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

khắc sâu, chốt nội dung khi dạy xong một tiết học. Thậm chí có giáo viên khi kể
cho học sinh nghe nội dung câu chuyện thì vẫn chưa nắm được cốt lõi của chuyện
mà còn mang tích chất “đọc chuyện”; chưa thuộc được chuyện để kể cho học sinh
trên lớp (đặc biệt là các câu chuyện vui-ngắn)
- Khi dạy cho học sinh “Kể hay nói, viết về một chủ đề” giáo viên chỉ có
nêu nội dung mấy câu hỏi ở sách giáo khoa cho học sinh trả lời bằng miệng sau đó
yêu cầu học sinh viết về chủ đề đó. Do vậy mà hiệu quả giờ dạy chưa cao, học

sinh thực hành viết bài chưa được, đặc biệt là những học sinh chưa có năng khiếu.
- Giáo viên chưa khen tặng, uốn nắn các em kịp thời.
- Giáo viên chưa khơi gợi được tính tò mò, ham học hỏi, sáng tạo văn học
nơi các em.
- Việc tổ chức dạy các giờ tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở các trường tiểu
học chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng cao năng
lực giảng dạy.
*. Việc học của học sinh:
- Học sinh lớp 3 vốn từ ngữ của các em chưa nhiều: các em còn mải chơi
nhiều hơn học. Việc tiếp thu bài còn thụ động theo cách truyền tải của giáo viên
nên phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em.
-Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại học văn , lười suy nghĩ
nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu , viết văn qua loa cho xong chuyện,
cách dùng từ đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý.
- Các em còn ngại kể chuyện vì chưa nhớ các tình tiết, nội dung của câu
chuyện; nói về đề tài nào đó cho qua loa, cho xong vì các em chưa tìm ra được các
tữ ngữ liên quan đến đề tài. Cách dùng từ đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn
nghèo ý, diễn đạt chưa trôi chảy.
- Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy được vốn từ ngữ
của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
Chính vì những lý do trên nên việc học văn ở lớp 3 còn hạn chế. Trong tiết “Nghe
- kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được chuyện mặc dầu chuyện đó ngắn, tình
tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở sách giáo khoa thì
5


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

các em diễn đạt còn lúng túng nhất là những học sinh tiếp thu chậm, năng lực hạn chế
không nói (viết) được bài.

2.3.Mô tả phân tích các giải pháp:
Nội dung dạy tập làm văn lớp 3:
Cấu trúc phân môn tập làm văn trong SGK Tiếng việt 3 với các dạng bài:
“ Nghe- kể lại chuyện” và “ Kể hay nói, viết về một chủ đề” được chia làm 54
bài tập. Mỗi bài học được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập rèn luyện kỹ
năng nói và bài tập rèn kỹ năng viết, trong đó bài tập rèn kỹ năng nói chiếm hơn
70% nhất là kiểu bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề”.
Đối với hai dạng bài này thì nội dung được phân bổ như sau:
- Dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề” gồm có 16 bài tập như: Nói về
đội TNTP Nói về thành thị hoặc nông thôn; Nói về quê hương; Nói ,viết về cảnh
đẹp đất nước...
- Dạng bài “Nghe -Kể lại chuyện” gồm có 10 bài tập như : Nghe - Kể: Dại
gì mà đổi; Nghe - kể : Không nỡ nhìn ; Nghe kể: Tôi cũng như bác ; Nghe- kể:
Giấu cày... nhưng từ năm học 2011-2012, áp dụng chương trình giảm tải của Bộ
Giáo dục và Đào tạo (áp dụng từ ngày 19/9/2011) thì đã cắt bỏ một số bài tập
không yêu cầu học sinh làm đó là: Nghe - kể: Tôi có đọc đâu( TLV tuần 11);
Nghe - kể: Tôi cũng như bác( TLV tuần 14); Nghe - kể: Giấu cày( TLV tuần 15);
Nghe - kể: Kéo cây lúa lên ( TLV tuần 16). Như vậy dạng bài này trong chương
trình Tập làm văn lớp 3 dạy 6 bài tập còn lại. Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn
luyện kỹ năng ở phân môn tập làm văn lớp 3 khá khó, nhiều bài tập mang tính
thực hành từ thực tế xung quanh các em như: Kể về gia đình mình; Nói, viết về
thành thị hoặc nông thôn. Qua đó học sinh hình thành được các kỹ năng tạo lập
văn bản (từ chỗ nói theo những câu hỏi gợi ý hoặc kể về gia đình, người thân đến
viết một văn bản trọn vẹn).
Muốn dạy tập làm văn cho học sinh có hiệu quả, giáo viên cần nắm rõ mục
tiêu, nội dung bài học, lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học; các hình
thức dạy học phù hợp với yêu cầu của từng bài. Có như thế mới nâng cao được
chất lượng giờ học, bồi dưỡng được những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp cho học
sinh.
6



Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

Để khắc phục những hạn chế ở trên, dựa vào những thuận lợi đang có. Tôi
mạnh dạn thực hiện rèn cho các em 3 kĩ năng trong 2 dạng bài “ Nghe- kể lại
chuyện” và “ Kể hay nói, viết về một chủ đề”:
- Rèn kĩ năng nghe- ghi nhớ- kể lại câu chuyện.
- Rèn kĩ năng nói và viết theo đề tài.
- Rèn kĩ năng kể người thật việc thật.
Dưới đây là một số giải pháp thay thế một phần của giải pháp cũ đã được
thực hiện và đem lại hiệu quả dạy học cao hơn.
. Một số biện pháp tích cực nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn lớp 3
*. Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức
giữa các phân môn Tiếng Việt:
Do khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng
không phong phú lại chưa chịu khó rèn luyện, nên đa số các em chỉ biết trình bày
đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý. Từ đó bài văn nói – viết nghèo
nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên. Bên cạnh đó, đôi lúc các em còn trình bày
lệch lạc, thiếu chính xác do ít kiến thức về vốn sống.
Việc sử dụng và mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý cách
sử dụng từ hoặc trau chuốt thế nào cho từ đó hay hơn trong câu văn. Có một số từ
do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc, các em vẫn vô
tư sử dụng trong bài văn của mình.
Như vậy, để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính tích
hợp kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt để từ đó giúp các em trang bị vốn
kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc,
Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu có nội dung phù hợp với tiết Tập làm văn sắp
học; giáo viên cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần
nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc

hoặc hoạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến
khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người
thân hay trao đổi với bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như thế,
học sinh sẽ có những ý tưởng độc lập từ đó các em có thể trình bày được bài văn
chân thực, sinh động và sáng tạo. Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo
7


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

viên không nên áp đặt các em vào một khuôn mẫu nhất định như chỉ định học sinh
phải quan sát một bức tranh, một sự vật, con người hay một công việc cụ thể như
thế sẽ hạn chế năng lực sáng tạo của các em. Vì vậy, với bất cứ một đề tài nào của
một tiết Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh liên hệ mở rộng để các em phát
huy được năng lực sáng tạo trong bài văn của mình.
Có thể lập bảng thống kê để tìm hiểu chương trình phân môn Tập làm văn;
Tập đọc; Luyện từ và câu có liên quan đến các dạng bài “ Nghe- kể lại chuyện” và
“ Kể hay nói, viết về một chủ đề”
Bài Luyện từ và câu kí hiệu

Bài Tập đọc kí hiệu ( - )
(+)
Tuần
3

Bài Tập đọc ; Luyện từ và câu
- Chiếc áo len

Trùng với kiểu bài TLV
Kể về gia đình


6

- Nhớ lại buổi đầu đi học

Kể lại buổi đầu em đi học

8
9

+ Mở rộng vốn từ: Trường học
- Các em nhỏ và cụ già
- Ôn tập

Kể về người hàng xóm.
Kể về tình cảm của bố mẹ hoặc của

- Đất quý đất yêu

người thân đối với em
Nói về quê hương hoặc nơi em

+ Mở rộng vốn từ: Quê hương

đang ở

- Vẽ quê hương
- Cảnh đẹp non sông

Viết một đoạn văn ngắn nói về


- Đôi bạn

cảnh đẹp ở nước ta
Nói, viết về thành thị, nông thôn

11

12
16,17

+ Kể tên sự vật và công việc
thường thấy ở thành phố, nông thôn
18
21,22

- Âm thanh thành phố
- Ôn tập

Kể về việc học tập của em trong

- Người trí thức yêu nước

HKI
Kể về một người lao động trí óc mà

- Nhà bác học và bà cụ

em biết.


- Bàn tay cô giáo
- Cái cầu
8


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

24

- Nhà ảo thuật

Kể lại buổi biểu diễn nghệ thuật

25

- Chương trình xiếc đặc sắc
- Hội vật

Kể về lễ hội

27,28

- Hội đua voi ở Tây Nguyên
- Cuộc chạy đua trong rừng

Kể, viết về trận thi đấu thể thao

- Cùng vui chơi
- Buổi học thể dục
+ Từ ngữ về thể thao

Sau khi giáo viên thống kê bài Tập đọc, Luyện từ và câu theo bài, chủ đề
trùng với kiểu bài Tập làm văn học sinh đang và sẽ học, giáo viên đã phần nào
giúp học sinh hình thành nên các từ ngữ, hình ảnh đẹp về một mảng chủ đề cụ thể.
Từ đó giúp các em vận dụng tốt vốn từ ngữ, những mẫu câu ở một mảng chủ đề
nào đó, tự tin trình bày trước lớp.
.Dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện”
Đây là một dạng đề khá khó, rèn luyện ở HS các kỹ năng: nghe- ghi nhớkể lại câu chuyện. Do đó dạng bài này yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện, ghi nhớ
các nhân vật, các chi tiết và hiểu được ý nghĩa của câu chuyện.
Ngữ liệu học tập của dạng đề này phần lớn là các chuyện vui. Trong sách
giáo viên, hầu hết các tiết dạy dạng đề này được triển khai theo cùng một hướng
như sau:
- Giáo viên kể chuyện 2 hoặc 3 lần
- Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý chi tiết để học sinh làm điểm tựa nhớ lại
nội dung truyện.
- Một vài học sinh kể: Học sinh kể theo nhóm ; Đại diện vài nhóm học sinh
kể lại chuyện trước lớp.
Để hoạt động của tiết học dạng đề trên đa dạng hơn, học sinh vui và tích
cực học hơn. Tôi xin đề nghị thêm một số phương án dạy học như sau:
Cách 1: Cho học sinh ghép đoạn văn thành câu chuyện
- Giáo viên chia các câu trong câu chuyện thành các thẻ chữ và cho học sinh
đọc.

9


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

- Giáo viên, cho học sinh thảo luận theo nhóm để ghép các thẻ chữ thành
câu chuyện. Các nhóm thảo luận rồi ghi kết quả sắp xếp vào bảng con ( chỉ ghi
con chữ ghi câu, không ghi câu văn) sắp xếp thành câu chuyện hoàn chỉnh.

- Sau đó học sinh nghe giáo viên kể chuyện và điều chỉnh sắp xếp của mình
cho đúng với nội dung ( nếu cần).
- Học sinh trao đổi về điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện.
- Học sinh kể chuyện theo nhóm
- Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)
- Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.
Ví dụ minh họa : Khi dạy Nghe kể lại chuyện: Không nỡ nhìn.( TV3 - tập 1tr.61), giáo viên có thể thực hiện như sau:
1. Chuẩn bị:
- 6 thẻ chữ. Mỗi thẻ chữ ghi một câu sau:
a – Không ạ ! Cháu không nỡ ngồi nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.
b – Cháu nhức đầu à ? Có cần xoa dầu không ?
c – Anh thanh niên nói nhỏ:
d – Một anh thanh niên ngồi nhưng hai tay cứ ôm lấy mặt.
e – Bà cụ ngồi bên thấy thế liền hỏi:
g – Trên một chuyến xe buýt đông người
2. Tiến hành
- Giáo viên gắn thẻ chữ lên bảng ( ngẫu nhiên), cho học sinh thảo luận theo
nhóm 2
- Các nhóm thảo luận rồi ghi kết quả sắp xếp vào bảng con. Chỉ ghi con chữ
ghi câu, không ghi câu văn.
- Giáo viên kể chuyện 2 lần
- Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với thứ tự nội
dung mình đã sắp xếp.( g – d – e – b – c – a )
- Học sinh trao đổi về điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện.
- Học sinh kể chuyện theo nhóm ( giáo viên giúp đỡ những em kể chậm )
- Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)
- Cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của chuyện: Anh thanh niên trên
10



Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

chuyến xe buýt không biết nhường chỗ cho người già, phụ nữ mà lại che mặt và
giải thích rất buồn cười là không nỡ nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.
- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên
trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì?
- Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.
Cách 2 : Giáo viên vừa kể vừa kết hợp nêu các câu hỏi để thu hút HS
nghe một cách chủ động sáng tạo.
- Giáo viên kể một phần đầu của câu chuyện sau đó đặt câu hỏi đề nghị học
sinh đoán sự kiện gì có thể xảy ra tiếp theo. Giáo viên ghi một vài ý học sinh
đoán lên bảng.
- Học sinh nghe giáo viên kể tiếp rồi trao đổi đối chiếu điều được nghe với
điều đã đoán để điều chỉnh phần được ghi trên bảng.
- Giáo viên kể lại chuyện 2 lần đề nghị học sinh nêu thêm một số tình tiết
nửa phần đầu của truyện( câu hỏi kiểm tra trí nhớ của HS về các sự kiện đã kể có
liên quan đến tình tiết, sự việc đang nói tới). Ở hoạt động này giáo viên có thể
dùng thẻ từ ghi các sự kiện thể hiện trong phần đầu của truyện và học sinh chọn
đưa vào dàn ý đã có trên bảng.
- Câu hỏi để Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị trong
chuyện.
- Học sinh kể lại chuyện( theo nhóm hay cặp)
- Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp.
- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung và nhận xét chung.
Ví dụ minh họa : Nghe kể lại chuyện: Dại gì mà đổi. (BT1-TV3 - tập 1- tr36)
1.Chuẩn bị : Tranh vẽ ở SGK phóng to
2.Cách tiến hành :
- Giáo viên treo tranh vẽ lên bảng
Giáo viên kể phần đầu của chuyện kết hợp chỉ tranh: “Có một cậu bé 4 tuổi
nhưng rất nghịch ngợm. Một hôm, mẹ cậu doạ sẽ đổi cậu để lấy một đứa trẻ ngoan

về nuôi.”.
- Giáo viên hỏi: Các em thử đoán xem cậu bé trả lời như thế nào?
- Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng :
11


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

Ví dụ :
+ Cậu bé òa khóc.
+ Cậu bé hét lên.
+ Cậu bé mừng rỡ.
+ Cậu bé không đồng ý đổi.
- Giáo viên kể tiếp câu chuyện và cho học sinh đối chiếu điều được nghe với
điều đã đoán để điều chỉnh phần ghi ở bảng.
- Giáo viên kể chuyện lần 2, đề nghị học sinh nêu lên một số tình tiết nửa
phần đầu của truyện. Giáo viên có thể đưa lên một số thẻ từ ghi một số tình tiết
của chuyện.
Ví dụ :
+ Mẹ sẽ chẳng đổi được đâu!
+ Vì sao thế?
+ Chẳng ai muốn đổi đứa con ngoan để lấy đứa con nghịch.
- Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị của chuyện
- Học sinh kể lại chuyện (theo nhóm hay cặp) kết hợp câu hỏi gợi ý ở SGK.
- Đại diện vài nhóm học sinh kể trước lớp.
- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.
Cách 3 : Hướng dẫn tạo và vẽ sơ đồ trình tự câu chuyện
Giáo viên kể chuyện một, hai lần và đặt câu hỏi gợi mở để giúp học sinh vẽ
sơ đồ mạng câu chuyện hay vẽ sơ đồ trình tự câu chuyện.
- Giáo viên cho học sinh điền vào sơ đồ mạng câu chuyện sơ đồ trình tự câu

chuyện của mình.
- Giáo viên kể chuyện lần ba, yêu cầu học sinh kiểm tra lại trình tự của
mình
- Học sinh dựa vào sơ đồ câu chuyện kể lại chuyện. Giáo viên cần khen tặng
và uốn nắn học sinh kịp thời: về cách dùng từ, cách xưng hô….
- Học sinh trao đổi về điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện.
Ví dụ minh hoạ : Nghe kể lại chuyện: Nâng niu từng hạt giống (TV3 -Tập 2Tr.30), giáo viên có thể tiến hành như sau:
1.Chuẩn bị :
12


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

+ Tranh vẽ ở sách giáo khoa phóng to
+Phiếu bài tập xây dựng sơ đồ trình tự câu chuyện, có thể là:

2.Cách tiến hành :
- Giáo viên kể 2 lần và yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ trình tự câu chuyện. Nếu
học sinh có khó khăn giáo viên có thể nêu các câu hỏi gợi ý như sau:
+ Câu chuyện nói đến ai?
+ Ông nhận được quà gì?
+ Thời tiết lúc đó thế nào?
+ Ông Của bảo thế nào?
+ Ông Của đã làm gì?
+ Kết quả ra sao?
- Giáo viên kể lần ba rồi yêu cầu học sinh kiểm tra và hoàn chỉnh sơ đồ.
- Học sinh thảo luận nhóm 2 rồi điều chỉnh sơ đồ trình tự câu chuyện.

Lương
Định Của


Nhận được
10 hạt thóc
giống

Trời rét
đậm

Chỉ năm
hạt nảy
mầm

Chia làm
hai phần

13


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

- Gọi một vài học sinh nhìn sơ đồ trình tự của mình kể lại chuyện cho cả lớp
nghe. Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung và động viên khuyến khích các em là
chính. Giáo viên chú ý rèn cho học sinh kể gãy gọn, nói thành câu (qua việc ngắt
nghỉ hơi) và chú ý giọng điệu của các em chậm lại, kể rõ từng công việc ông làm
( kèm thêm cử chỉ, điệu bộ) khi kể ông Của chia mười hạt giống thành hai phần.
Năm hạt ông gieo trong phòng thí nghiệm. Còn năm hạt kia ông ngâm nước ấm,
gói vào khăn, tối tối ủ trong người, trùm chăn ngủ để hơi ấm của cơ thể làm cho
thóc nảy mầm. Cũng có thể cho học sinh vẽ thêm sơ đồ công việc của ông với
năm hạt thóc sau:
Ngâm nước ấm


gói vào khăn

ủ trong người

- Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại theo nhóm 4, giáo viên kèm
cặp giúp đỡ học sinh.
- Đại diện nhóm kể trước lớp. Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận
xét chung. (Giáo viên lưu ý đến câu, từ và cách xưng hô của học sinh) Cần động
viên học sinh qua lời khen, uốn nắn cho học sinh tiến bộ hơn mức độ em đã đạt
được khi kể. Ví dụ như: khi em kể chưa lưu loát thì động viên em cố gắng tập kể
nhiều lần cho thuộc câu chuyện hơn, khi em kể thuộc câu chuyện mà chưa dùng
cử chỉ điệu bộ thì dộng viên em cố gắng kèm theo cử chỉ, điệu bộ để lời kể của em
hấp dẫn, cuốn hút người nghe hơn…. Và trong mỗi trường hợp giáo viên không
nên quên lời khen các em theo tùng mức độ các em đạt được.
- Cả lớp và giáo viên bình chọn bạn kể chuyện hay nhất, hiểu câu chuyện
nhất, kể tiến bộ nhất để biểu dương.
Cách 4 : Xây dựng mạng câu chuyện
Giáo viên kể chuyện một lần và đề nghị học sinh cho biết: câu chuyện có
mấy nhân vật? giáo viên phác hoạ hình các nhân vật đó lên bảng (bằng cách vẽ ô
tròn và trên đó ghi tên nhân vật)
- Học sinh nghe giáo viên kể chuyện lần 2 rồi viết xung quanh nhân vật một
số từ hay cụm từ thể hiện hành động hay suy nghĩ của nhân vật (xây dựng mạng
câu chuyện). Nếu học sinh có khó khăn thì giáo viên đặt một số gợi ý.
- Học sinh trao đổi điều chỉnh mạng câu chuyện (theo nhóm).Một số học
sinh nhìn mạng câu chuyện rồi kể lại chuyện trước lớp.
14


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3


- Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại chuyện theo cặp (hay nhóm).
Học sinh thảo luận theo ý nghĩa của chuyện.
Ví dụ minh hoạ : Nghe kể lại chuyện: Người bán quạt may mắn (Tập 2-Tr56)
1.Chuẩn bị : Phiếu bài tập xây dựng mạng câu chuyện :
Ông

Bà lão

Vương Hi Chi

bán quạt

2.Cách tiến hành :
- Giáo viên kể lần một và hỏi học sinh: câu chuyện có mấy nhân vật? học
sinh trả lời, giáo viên treo bảng phụ có ghi mạng câu chuyện lên bảng.
- Giáo viên kể lần hai rồi yêu cầu học sinh xây dựng mạng câu chuyện theo
nhóm. Nếu học sinh có khó khăn giáo viên nêu câu hỏi gợi ý như sau:
+ Bà lão bán quạt gặp ai và phàn nàn điều gì?
+ Ông Vương Hi Chi viết chữ vào những chiếc quạt để làm gì?
+ Vì sao mọi người đua nhau đến mua quạt?
- Học sinh thảo luận rồi điều chỉnh mạng câu chuyện, có thể như sau:

- Gọi một vài học sinh nhìn mạng kể lại chuyện cho cả lớp nghe. Học sinh
nhận xét, giáo viên bổ sung và động viên khuyến khích các em là chính.
15


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3


- Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại theo nhóm, giáo viên kèm
cặp giúp đỡ học sinh tiếp thu chậm.
- Đại diện nhóm kể trước lớp. Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận
xét.
Giáo viên hỏi học sinh: Qua câu chuyện này, em biết gì về Vương Hi Chi?
- Cả lớp và giáo viên bình chọn bạn kể chuyện hay nhất, hiểu câu chuyện
nhất.
Cách 5: Cho HS ngồi thành vòng tròn nghe GV kể chuyện. Khi kể làm
động tác, điệu bộ, nét mặt và sử dụng con rối, trang ảnh… HS vừa lắng nghe, vừa
quan sát, vừa làm động tác theo giáo viên. Sau đó tổ chức cho HS diễn lại câu
chuyện vừa nghe như một vở kịch. Có thể chia HS thành các nhóm nhỏ để miêu tả
lại các nhân vật ( vẽ hình nhân vật, chuẩn bị trang phục…), một số nhóm khác thì
chuẩn bị hoặc làm những vật dụng có trong câu chuyện… Cách làm này khiến câu
chuyện đi ra đời sống thực, đồng thời giúp học sinh tự tin hơn.
*Một số lưu ý khi dạy dạng bài trên
- Có rất nhiều cách để tiến hành giờ học dạy dạng bài “Nghe - kể lại
chuyện”. Giáo viên có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh để chọn
cách dạy phù hợp nhất.
- Cho dù dạy theo cách nào, giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị bài trước
(Tranh ảnh phục vụ nội dung truyện hoặc xây dụng mạng câu chuyện: Phiếu bài
tập) để giờ học sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh hơn.
- Chú ý giao việc cho học sinh rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động nhóm và
nên theo dõi, kèm cặp thêm cho học sinh chưa hoàn thành, tạo cho các niềm tin,
mạnh dạn hơn trong học tập.
.Dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.
*Mục đích : Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học
sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói( viết) về một chủ đề nào đó hay rèn kĩ năng
kể, viết người thật việc thật: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình ;
Kể về một buổi thi đấu...
Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng

đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết minh
16


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

và phát biểu cảm nghĩ. Do vốn Tiếng Việt của học sinh tiểu học còn hạn chế, một
số chủ đề trong sách giáo khoa các em chưa có điều kiện làm quen…. Nên việc tổ
chức dạy học nội dung này gặp nhiều khó khăn. Mà trong sách giáo viên, các kiểu
đề này chủ yếu được tiến hành theo một trình tự như sau:
- Giáo viên giới thiệu bài:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu
hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét
- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
- Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
Để giúp học sinh triển khai ý trong bài nói, hình thành nội dung cần nói về
một chủ đề và phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong
học tập. Ngoài cách đã được trình bày trong sách giáo viên thì có thể sử dụng
thêm các phương pháp: “Sử dụng bản đồ tư duy”.
Bản đồ tư duy là một phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy
tập làm văn, người giáo viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ
phục vụ theo yêu cầu của từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy
cần phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm
mĩ để qua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu
quả giờ học cao hơn.
Giáo viên có thể thực hiện xây dựng bản đồ tư duy phù hợp với nội dung

các bài tập nhằm rèn cho học sinh kỹ năng như sau:
Rèn kĩ năng nói và viết theo đề tài
Với dạng bài này học sinh cảm thấy lúng túng khi tìm từ, đặt câu và sắp
xếp thứ tự các câu trong bài nói, viết của mình. Đây là dạng bài thể hiện rõ sự tích
hợp của các môn học.

17


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

- Sau khi phân tích yêu cầu đề bài giáo viên yêu cầu học sinh nghĩ về đề tài,
xâu chuỗi tất cả vốn từ các em đã có, vốn từ các em vừa học trong các bài tập
đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập viết,… có liên quan đến chủ đề.
- Học sinh viết ra những từ ngữ có liên quan đến chủ đề mà các em vừa tìm
được vào sơ đồ tư duy.
- Học sinh đánh số thứ tự các từ ngữ mình vừa tìm được.
- Học sinh nhìn bản đồ tư duy tự suy nghĩ, hồi tưởng về chủ đề và đặt câu
cho từng từ ngữ theo thứ tự các em đánh dấu. Các em tự kiểm tra lại.
- Giáo viên gọi một số học sinh nói về chủ đề, học sinh cùng giáo viên nhận
xét, góp ý về câu, từ…
- Học sinh tập nói theo nhóm 3 – Đại diện các nhóm trình bày, học sinh
cùng giáo viên nhận xét, góp ý, tuyên dương.
Ví dụ minh họa : Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92)
1. Chuẩn bị : Phiếu học tập
a.Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Giọng quê hương

Quê hương


Đất quý, đất yêu
Vẽ quê hương

Quê hương là...
.....................................
.
.....................................
.
.....................................
.....................................
.....................................
.....................................
.....................................
.....................................

Chi tiết làm em xúc động nhất
..............................................................
..............................................................

..............................................................
.
..............................................................
.............................................................
.............................................................
..............................................................
.
..............................................................

b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý

Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
+ Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên.
+ Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
18


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

+ Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương.
- Giáo viên nêu câu hỏi: Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì
đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành :
Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý
tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh
hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
- GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu
kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài
tập.
Hoạt động 2 : HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong
khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà
mình đang nghĩ tới.
- Giáo viên giới thiệu sơ đồ tư duy GV đã chuẩn bị
- Hướng dẫn HS chọn từ trung tâm.
Ví dụ :
ngôi nhà
con sông
nông thôn


vườn bách thú

thành phố

Quê hương em

lũy tre, cánh đồng

đường phố

nhà cao tầng

Hoạt động 3 : Hướng dẫn HS viết các từ ngữ chỉ cảnh vật ở các nhánh
chính; tìm các hình ảnh so sánh, gợi tả để điền vào các nhánh phụ,…; tiếp tục tìm
các từ ngữ nói lên tình cảm của mình…với nơi mình đang ở.
GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS chưa hoàn thành để giúp các em điều
chỉnh.

19


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

Hoặc đơn giản là sơ đồ tư duy có sẵn hình ảnh mà giáo viên đã chuẩn bị,
học sinh chỉ việc lên bảng tìm những từ ngữ cho phù hợp.

Hoạt động 4 : HS nhìn sơ đồ tư duy và nói : Cho hai em nói mẫu trước lớp
- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5 : Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc
biệt lưu ý giúp học sinh chưa hoàn thành.

Hoạt động 6 : HS nói thể hiện trước lớp:
20


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

- GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp
- Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến
khích HS tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. GV nhận xét chung.
Nhờ sử dụng sơ đồ tư duy mà Học sinh tìm được các từ có liên quan, ( các
từ ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói dễ dàng hơn nên các em nói gãy
gọn, bài nói đầy đủ tính chân thật. Các em mạnh dạn, tự tin nhiều hơn trong việc
kể về một đề tài. Nhất là học sinh học chậm vẫn có khả năng kể đơn giản về chủ
đề với 5, 6 câu. Khi các em được rèn nói tốt, gãy gọn thì khi viết các em cũng viết
thuận lợi hơn.
Rèn kĩ năng kể người thật việc thật.
Với đề bài dạng này yêu cầu vốn từ, khả năng tưởng tượng, sáng tạo của
học sinh cao hơn nên học sinh khó khăn khi nói, viết vì vốn từ các em còn chưa
nhiều, các em không nhớ rõ các đặc điểm, các công việc cần kể nên các em kể
chưa thật, chưa kể đúng những gì đã có, đã xảy ra. Để giúp các em kể trung thực
và chân thật hơn giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa hay sơ đồ tư duy để giúp
các em xác định rõ đặc điểm của người, sự vật và các hoạt động cần kể.
*Ví dụ minh họa : Kể về gia đình (BT1-TV3 -tập1- tr 28)
Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được
một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.
1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì?Tính
tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?
2.Cách tiến hành :
Hoạt động 1 :
- Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể

về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những
từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.

Ví dụ:
Làm ruộng

anh, chị
21

học sinh


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

Ông, bà
Công nhân

Gia đình mình
em

bố,mẹ
hạnh phúc

Hoạt động 2 : - Giáo viên treo bảng phụ vẽ sơ đồ tư duy lên bảng. Học sinh
nhìn sơ đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.

Hoạt động 3 : Qua sơ đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu( các từ
ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói về gia đình dễ dàng hơn.
Hoạt động 4 : HS nhìn sơ đồ tư duy và nói : Cho hai em nói mẫu trước lớp

- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5 : Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc
biệt lưu ý giúp học sinh chưa hoàn thành.
Hoạt động 6 : HS nói thể hiện trước lớp:
- GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.
- Cả lớp nhận xét, GV sữa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu sai).
22


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

Hoặc khi dạy bài: Kể về người hàng xóm (TV3 - tập 1 – tr. 68), giáo viên thực
hiện các bước như sau:
Hoạt động 1 : Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm
hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về người hàng xóm.
Hoạt động 2 : Học sinh tập trung suy nghĩ và chọn người hàng xóm mình
định kể, viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến người hàng xóm: Người đó
là ai? Làm công việc gì? Tình cảm của người hàng xóm đối với gia đình em? Tình
cảm của em đối với người hàng xóm?.... Có thể vẽ như sau:
bác Mai, bác
hai, chú….
khoảng chừng
30-40,… tuổi
công nhân,
nông dân,…

yêu mến, sang
chơi….
Người
hàng

xóm

hiền lành, chỉ
dẫn,…
kính yêu, biết
ơn,…

Hoạt động 3 : Giáo viên treo bảng phụ vẽ sơ đồ tư duy lên bảng. Giáo viên
và học sinh cùng tìm một số từ ngữ liên quan đến người hàng xóm.
Hoạt động 4 : Học sinh nhìn sơ đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng để đặt
câu. Học sinh ghi vào giấy nháp về người hàng xóm. Sắp xếp thứ tự các câu cho
hợp lí.
Hoạt động 5 : Giáo viên gọi một vài em kể cho cả lớp nghe (Giáo viên chú ý
rèn cho học sinh có năng lực hạn chế đặt câu đơn giản theo các mẫu đã học còn
học sinh có năng khiếu nên hướng dẫn, động viên các em đặt câu có hình ảnh so
sánh, nhân hóa…..
Hoạt động 6 : Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét
chung.
Nhờ xác định rõ đặc điểm của người hàng xóm và các hoạt động cần kể.
Học sinh tìm từ, đặt câu thuận lợi hơn. Học sinh luyện nói, luyện viết với mẫu câu
rộng hơn: câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, câu
giàu hình ảnh. Luyện viết với số lượng câu văn tăng hơn (5-7 câu) kết cấu đoạn
23


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

văn và diễn đạt cảm xúc của các em cũng tiến bộ. Bài viết của các em hoàn chỉnh
hơn nhiều. Điều đáng chú ý là học sinh bắt đầu hứng thú với việc sáng tác các câu
văn hay, với tiết tập làm văn.

Như đã nói, do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp Ba tuy có ý
tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từ chưa chính xác, ý trùng
lắp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ ràng mạch lạc. Vì
vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý
tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát hiện những sai sót
để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học sinh làm cơ sở
lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và những
hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai.
*Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ
phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được sơ đồ tư duy hoàn chỉnh.
Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, giáo viên nên chuẩn bị sơ
đồ tư duy áp dụng vào giảng dạy. Đối với những học sinh có năng khiếu, giáo viên
cũng có thể hướng dẫn các em vẽ sơ đồ tư duy trong một số bài học nhưng không
yêu cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được sơ đồ tư duy phục vụ cho
bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành,
tránh tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra. Giáo viên cũng
có thể cho học sinh chuẩn bị sơ đồ tư duy cá nhân đã được chuẩn bị trước ở nhà
để lên lớp các em tự nhìn vào sơ đồ tư duy trình bày bài học. Qua đó giáo viên và
cả lớp bổ sung xây dựng thêm để bài học thêm sinh động. Chú ý giáo viên nên
chọn 3 đến 4 sơ đồ tư duy đơn giản của học sinh trình bày trước lớp để tránh mất
nhiều thời gian tiết dạy.

24


Sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn ở lớp 3

Dưới đây là một số hình ảnh sơ đồ tư duy của học sinh đã được áp dụng
vào các tiết học cụ thể:


+ Sơ đồ tư duy bài học: Nói, viết về người lao động trí óc của em Ng ọc L ân

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×