Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phối hợp góp ý Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.44 KB, 23 trang )

MỤC LỤC ĐỀ ÁN
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỔ CHỨC
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN, GÓP PHẦN PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
VÀ VI PHẠM PHÁP LUẬT GIAI ĐOẠN 2018-2022

Thông tin chung về đề án

2

I. SỰ CẦN THIẾT VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

3

1. Sự cần thiết xây dựng Đề án

3

2. Căn cứ xây dựng Đề án

5

2.1. Cơ sở chính trị - pháp lý
2.2. Căn cứ pháp luật

9
10

II. NỘI DUNG ĐỀ ÁN

11



1. Quan điểm

11

2. Mục tiêu

16

3. Các nhiệm vụ chủ yếu

13

4. Giải pháp thực hiện

15

5. Kinh phí thực hiện

19

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

20

KẾT LUẬN

22

1



THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ ÁN
1.

Tên đề án:

“Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật theo quy định của Luật tổ chứcViện
kiểm sát nhân dân, góp phần phòng, chống tội

2.
3.
4.

Cơ quan chủ trì:

phạm và vi phạm pháp luật giai đoạn 2018-2022”
Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Cơ quan thực hiện:
Cơ quan phối hợp:

Địa chỉ: 44 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Bộ Tư pháp; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ
Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính; Hội đồng phối
hợp phổ biến giáo dục cấp tỉnh và cấp huyện; các

5.

6.

Cơ quan báo chí ở trung ương và địa phương.
Thời gian thực hiện: 05 năm. Từ năm 2018 đến năm 2022
Địa điểm triển khai: Trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân.

I. SỰ CẦN THIẾT VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Sự cần thiết xây dựng đề án
2


Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là một bộ phận của
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng,là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), là khâu đầu
tiên, có vai trò hết sức quan trọng để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và đảm bảo sự đồng bộ với quy định của
Luật PBGDPL năm 2012, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã quy
định “Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật góp
phần phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật”. Trên cơ sở đó, trong thời
gian qua, VKSND các cấp đã chú trọng triển khai, tổ chức thực hiện công tác
tuyên truyền, PBGDPL và đạt được những kết quả đáng ghi nhận, góp phầnvào
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tuy nhiên, diễn biến của tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật cũng như
thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật đang đặt ra yêu

cầu cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, PBGDPL; mặt khác, công tác
này của VKSND thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong xác định
nội dung, hình thức PBGDPL và các điều kiện đảm bảo để tổ chức thực hiện nên
chưa phát huy đầy đủ vai trò của các đơn vị, các Kiểm sát viên, Điều tra viên,
cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân trong công tác PBGDPL thông qua các hoạt
động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, nhất là các hoạt động có tiếp
xúc với người dân để giáo dục ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, thấy được
nguyên nhân, điều kiện, các phương thức, thủ đoạn phạm tội và các hành vi vi
phạm pháp luật để phòng ngừa và chủ động tham gia đấu tranh chống các loại tội
phạm, vi phạm pháp luật.
3


Về tình hình tội phạm, trong những năm gần đây, mặc dù số lượng khởi tố
vụ án hình sự có giảm nhưng về tính chất, mức độ phạm tội thì ngày càng
nghiêm trọng và hậu quả do tội phạm gây ra là rất lớn. Đáng chú ý là các tội
phạm về ma túy, đã phát hiện, bắt giữ nhiều vụ mua bán, vận chuyển ma túy với
số lượng đặc biệt lớn, hoạt động với quy mô rộng, mang tính tổ chức, thủ đoạn
phạm tội ngày càng tinh vi, liều lĩnh, sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng để chống trả
lực lượng chức năng khi bị phát hiện, truy đuổi, bắt giữ; Tội phạm về trật tự, an
toàn xã hội xảy ra vẫn chiếm tỷ lệ lớn, một số vụ có tính chất đặc biệt nghiêm
trọng như giết nhiều người trong cùng một gia đình, nhiều vụ trộm cắp, cướp,
cướp giật tài sản, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm tài sản với thủ đoạn tinh vi, quy
mô lớn, có vụ sử dụng công nghệ cao để phạm tội, tội phạm xâm phạm tình dục
đối với trẻ có dấu hiệu gia tăng... gây hoang mang, bức xúc trong dư luận nhân
dân; Tội phạm xâm phạm sở hữu xảy ra nhiều, tội phạm về kinh tế, chức vụ,
tham nhũng diễn biến phức tạp, đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án
đặc biệt nghiêm trọng; tuy nhiên, kết quả đấu tranh chống tội phạm tham nhũng
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và đòi hỏi của nhân dân...
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình tội phạm trên là do công tác quản lý nhà

nước về kinh tế, xã hội ở một số lĩnh vực còn thiếu sót, sơ hở nhưng chưa được
khắc phục kịp thời; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ đã ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; những tác động
tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường và những khó khăn trong đời sống;
những biểu hiện suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, sự thiếu hiểu biết về pháp luật, hạn chế về ý thức tuân thủ, chấp hành pháp
luật của một bộ phận nhân dân... Bên cạnh đó, công tác đấu tranh chống tội
phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật thời gian qua có nhiều chuyển biến tích
cực, góp phần kiềm chế sự gia tăng của một số loại tội phạm nhưng cũng có lúc,
có nơi, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Tội phạm xâm phạm các hoạt động tư
pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp và các vi phạm
pháp luật trong hoạt động tư pháp, hoạt động tố tụng vẫn xảy ra khá nhiều cho
4


thấy ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ cơ quan tư pháp còn
yếu kém, cần phải tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp về quản lý, siết chặt
kỷ cương, kỷ luật, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và phải chú trọng
nâng cao hiệu quả tuyên truyền, PBGDPL cho đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó
có cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân.
Công tác tuyên truyền, PBGDPL của ngành Kiểm sát nhân dân luôn được
Ban cán sự đảng, Lãnh đạo VKSND tối cao quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện. Ngày 23/8/2012, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Chỉ thị
số 05/CT-VKSTC về một số biện pháp tăng cường công tác tuyên truyền trong
ngành Kiểm sát nhân dân, xác định rõ công tác tuyên truyền, PBGDPL là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của VKSND các cấp. Căn cứ Chỉ thị số 05,
VKSNDTC đã thành lập Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền ngành Kiểm sát nhân
dân, VKS quân sự Trung ương và các VKSND cấp tỉnh thành lập các Tổ tuyên
truyền; đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL của ngành Kiểm sát
hiện có gần 700 người, trong đó 71 người hoạt động chuyên trách tại các Cơ

quan báo chí của VKSNDTC và hơn 600 người là thành viên các Tổ tuyên
truyền, các cộng tác viên hoạt động không chuyên trách, trong đó có nhiều người
là Báo cáo viên pháp luật. Phương thức tuyên truyền, PBGDP được thực hiện
thông qua các cơ quan báo chí, các trang thông tin điện tử của ngành, qua việc
phối hợp giữa VKSND các cấp với các cơ quan báo chí truyền thông ở trung
ương và địa phương, thông qua các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
nhất là các hoạt động có tiếp xúc với người dân như công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, qua kiểm sát khám nghiệm hiện trường,
kiểm sát xét xử, kiểm sát giam giữ cải tạo, thi hành án, thông qua các kháng nghị
vi phạm, kiến nghị phòng ngừa, qua thực hiện phong trào chung sức xây dựng
nông thông mới, qua hoạt động tuyên truyền PBGDPL trực tiếp tới người dân,
qua các hoạt động đoàn thể, xã hội, nhân đạo, từ thiện. Với nội dung trọng tâm
tuyên truyền về các chủ trương, đường lối cả Đảng, chính sách, pháp luật của
5


Nhà nước, nhất là các quan điểm mới, quy định mới liên quan đến tổ chức và
hoạt động của VKSND...
Trong giai đoạn 2010 - 2012, căn cứ Kế hoạch số 04-KH/BCSĐ, ngày
30/8/2010 của Ban cán sự đảng VKSND tối cao về việc thực hiện Kết luận số
79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị, công tác tuyên truyền,
PBGDPL của ngành Kiểm sát đạt được một số kết quả chủ yếu
sau đây:
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ trong Ngành
(Tổng số cán bộ: 15.000 người)
Phương thức thực hiện

Đơn vị
tính


Số lượng

Tỷ lệ

Ghi chú

- Báo Bảo vệ pháp luật
tờ
5000
30%
3kỳ/1 tuần
- Tạp chí Kiểm sát
cuốn
5000
30%
2kỳ/1 tháng
- Các trang tin điện tử của ngành website
03
0,2% VP, Báo, Tạp chí
- Sách pháp luật
cuốn
2000
7,5% 2 đầu sách/1 năm
- Thông qua các hoạt động
lượt
400
04%
nghiệp vụ
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật tới cán bộ ngoài ngành và nhân dân
- Báo Bảo vệ pháp luật

tờ
500
- Tạp chí Kiểm sát
cuốn
100
- Các trang tin điện tử của ngành website
03
- Sách pháp luật
cuốn
200
- Thông qua hoạt động nghiệp
lượt
100
vụ

Từ năm 2012 đến nay, thực hiện Chỉ thị số 05/CT-VKSTC-TCKS ngày
23/8/2012 của Viện trưởng VKSND tối cao và triển khai thi hành quy định tại
Điều 39 Luật tổ chức VKSND năm 2014, công tác tuyên truyền, PBGDPL của
VKSND các cấp đã có sự chuyển biến rõ nét, nhất là về định hướng nội dung
trọng tâm và sự chỉ đạo thực hiện tập trung thống nhất nên đạt hiệu quả cao hơn
với những kết quả nổi bật.
Trên các ấn phẩm in, ấn phẩm điện tử của Tạp chí Kiểm sát, Báo Bảo vệ
pháp luật và các Trang thông tin điện tử của VKSNDmở thêm nhiều chuyên mục
mới, thường xuyên đăng tải, cập nhật các quy định mới của pháp luật, đặc biệt là
trong quá trình góp ý xây dựng và giới thiệu những nội dung cơ bản của các đạo
luật mới về tư pháp được Quốc hội khóa XIII, khóa XIV thông qua. Từ ngày
6


25/7/2013, Chương trình Truyền hình KSND phát sóng trên kênh ANTV với thời

lượng 2 kỳ/1 tháng (30 phút/kỳ), thực sự trở thành một kênh thông tin hiệu quả
để tuyên truyền về hoạt động của VKSND và góp phần PBGDPL tới đông đảo
người dân.
Thông qua các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn, các Kiểm sát viên, cán bộ
VKSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp đã chủ động PBGDPL trực tiếp tới
cán bộ ở cơ sở và người dân, nhất là qua hoạt động thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, tiếp dân, kiểm sát giải quyết khiếu nại tố cáo
trong hoạt động tư pháp, kiểm sát nơi giam giữ, cải tạo, thi hành án; kiểm sát việc
quản lý, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ tại UBND cấp
xã, phường... Đặc biệt, hiệu quả phòng ngừa được thể hiện rõ nét qua công tác
kháng nghị, kiến nghị của VKSND. Từ năm 2011-2015, chỉ riêng trong lĩnh vực
kiểm sát giải quyết án hình sự, VKSND các cấp đã ban hành 1.027 kiến nghị
phòng ngừa đến các cơ quan, tổ chức; phối hợp với Tòa án tổ chức 29.047 phiên
tòa xét xử lưu động thu hút đông đảo nhân dân tham dự.
Các đơn vị trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân đã tích cực hưởng ứng
phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới với nhiều hoạt động hướng về cơ
sở, giúp đỡ các xã, thôn, bản ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn có nhiều khó khăn để
phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh trật tự, xây dựng đời sống văn hóa, trọng tâm
là tuyên truyền, PBGDPL, phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật và các tệ nạn
xã hội, hủ tục lạc hậu.
Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền ngành Kiểm sát nhân dân đã tăng cường
hướng dẫn, kiểm tra, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho thành viên các Tổ tuyên
truyền và cộng tác viên; tăng cường phối hợp với các cơ quan báo chí ngoài
ngành. Đến nay, đã có 23 cơ quan báo chí Trung ương cử phóng viên chuyên
trách theo dõi, đưa tin về hoạt động của VKSNDTC và nhiều phóng viên của các
báo, đài ở địa phương đã tham gia cộng tác, phối hợp với VKSND thực hiện các
hoạt động tuyên truyền, PBGDPL.
7



Thống kê kết quả công tác tuyên truyền, PBGDPL của VKSND từ năm
2012 đến nay qua các phương thức chủ yếu như sau:
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ trong ngành
(Tổng số cán bộ: 16.000 người)
Phương thức thực hiện

Đơn vị tính

Số lượng

Tỷ lệ

Ghi chú

- Báo Bảo vệ pháp luật
tờ
6000
30%
- Tạp chí Kiểm sát
cuốn
5000
27%
- Các trang tin điện tử của
website
45
62% Tsố 66 đơn vị
ngành
- Sách pháp luật
cuốn
2000

7,5% 2 đầu sách/1 năm
- Truyền hình KSND
Chương trình
72
80% 24 số/ 1 năm
- Thông qua các hoạt động
lượt
600
03%
nghiệp vụ
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật tới cán bộ ngoài ngành và nhân dân
- Báo Bảo vệ pháp luật
tờ
500
- Tạp chí Kiểm sát
cuốn
100
- Các trang tin điện tử của ngành
website
45
- Sách pháp luật
cuốn
200
01 đầu sách /1năm
- Truyền hình KSND
Chương trình
72
24 số/1 năm
- Thông qua các hoạt động
lượt

400
nghiệp vụ

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền, PBGDPL của
ngànhKiểm sát nhân dân còn tồn tại những hạn chế, bất cập như: Nội dung tuyên
truyền chưa thật sát với yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu của đối tượng được
tuyên truyền; chưa có điều kiện biên soạn, ấn hành tài liệu chuyên biệt, phù hợp
để cán bộ, Kiểm sát viên sử dụng khi thực hiện các hoạt động PBGDPL; phương
thức thực hiện còn đơn điệu, chưa hấp dẫn, chủ yếu thông qua việc viết tin bài
cộng tác với các báo, đài và thông qua hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, gắn với
nội dung vụ việc vừa mới giải quyết để kết hợp tuyên truyền; đội ngũ cán bộ làm
công tác tuyên truyền, PBGDPL hầu hết hoạt động kiêm nhiệm, chưa được đào
tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, số cán bộ được công nhận là Báo cáo viên pháp luật
còn ít; các ấn phẩm báo chí của VKSNDTC chủ yếu phát hành trong
ngànhnênviệc tuyên truyền, PBGDPL rộng rãi tới các tầng lớp nhân dân đang
còn hạn chế. Đặc biệt, là khó khăn về kinh phí; ngành Kiểm sát nhân dân không
được bố trí kinh phí riêng cho công tác tuyên truyền, PBGDPL mà nằm trong
định mức chi thường xuyên hàng năm theo Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ngày
8


30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định mức chi thường
xuyên ngân sách nhà nước. Do đó, trên thực tế, kinh phí chi cho công tác tuyên
truyền, PBGDPL của toàn Ngành chưa đạt 01% kinh phí chi thường xuyên. Mặt
khác, từ năm 2015 để phục vụ việc triển khai thực hiện Luật tổ chức VKSND năm
2014 và 07 đạo luật mới về tư pháp nên kinh phí cho công tác tuyên truyền,
PBGDPL lại càng hạn chế, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. VKSND cấp tỉnh
phối hợp với Đài truyền hình địa phương xây dựng chương trình truyền hình kiểm
sát cũng cần phải bổ sung mới có thể triển khai được; trang thiết bị chuyên dụng
như máy quay phim, máy ảnh, máy ghi âm, máy tính, thiết bị lưu trữ dữ liệu...

phục vụ công tác này ở VKSND địa phương rất thiếu thốn, không đồng bộ.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực
tiễn, nâng cao hơn nữa hiệu quả thi hành các quy định của Luật phổ biến giáo
dục pháp luật năm 2012, Luật tổ chức VKSND năm 2014; thực hiện Chương
trình PBGDPL giai đoạn 2017 - 2020 ban hành theo Quyết định số 705/QĐ-TTg
ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có nêu: “Đề nghị Viện kiểm
sát nhân dân tối cao... căn cứ vào điều kiện thực tế và yêu cầu nhiệm vụ, xây
dựng, triển khai thực hiện các Đề án về PBGDPL phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn được giao”; việc xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện Đề án
"Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy
định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, góp phần phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật giai đoạn 2018 - 2022" là rất cần thiết.
2. Căn cứ xây dựng đề án
2.1. Cơ sở chính trị - pháp lý
Đề án được xây dựng trên là quán triệt, bám sát các chủ trương, đường lối,
quan điểm về cải cách tư pháp, về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và về công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; trọng tâm là:
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam.
9


- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020.
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW.
- Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 và Kết luận số 04-KL/TW ngày

19/4/2011 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
- Kế hoạch số 38-KH/CCTP ngày 15/8/2014 của Ban chỉ đạo cải cách tư
pháp Trung ương về đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương,
nhiệm vụ cải cách tư pháp và hoạt động tư pháp.
- Ý kiến chỉ đạo của đồng chí Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng ban chỉ đạo cải cách tư
pháp Trung ương tại buổi làm việc với VKSNDTC, trong đó nêu rõ: Đẩy mạnh
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sâu rộng dưới nhiều hình thức tới mọi
tầng lớp nhân dân, nhất là các đạo luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
Ngành nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị và toàn dân đối với hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân.
2.2. Căn cứ pháp luật
- Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 24/11/2014.
- Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật ngày 20/6/2012.
- Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021, ban hành
theo Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
- Chỉ thị số 05/CT-VKSTC-TCKS ngày 23/8/2012 của Viện trưởng VKSND
tối cao về một số biện pháp tăng cường công tác tuyên truyền trong ngành Kiểm
sát nhân dân.
10


- Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 28/12/2016 của Viện trưởng VKSND tối
cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2017.
- Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày 14/9/2017 của Viện trưởng VKSND tối
cao về tăng cường công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
trong ngành Kiểm sát nhân dân.
II. NỘI DUNG ĐỀ ÁN


1. Quan điểm
Việc xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện Đề án phải quán triệt các quan
điểm sau đây:
1.1. Thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về đổi mới, tăng cường công tác tuyên truyền, PBGDPL trong, ngoài
ngành Kiểm sát và nhân dân gắn với xây dựng, thi hành, bảo vệ pháp luật, giáo
dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ của VKSND, góp phần phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật .
1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính
trị, trong đó có Viện kiểm sát; khuyến khích, tạo điều kiện và huy động các
nguồn lực để thực hiện; đề cao trách nhiệm và từng bước hình thành thói quen
chủ động học tập, tự giác tuân thủ, chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức,
viên chức và nhân dân; chú trọng các vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần
định hướng dư luận xã hội.
1.3. Bảo đảm tính khả thi, kế thừa, phát triển, có trọng tâm, trọng điểm, phù
hợp với từng đối tượng, địa bàn, lĩnh vực, hướng về cơ sở, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị và nhu cầu xã hội để tạo đồng thuận trong thực hiện.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, PBGDPL
của VKSND; góp phần phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả, kéo giảm tội phạm
và vi phạm pháp luật; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân
thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc
11


theo pháp luật trong toàn xã hội; nâng cao hiểu biết của cán bộ và nhân dân về vị
trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân để phối hợp, giúp
đỡ, ủng hộ các hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân.
2.1. Các mục tiêu cụ thể

a) Đảm bảo các đơn vị trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân tổ chức thực hiện
tuyên truyền, PBGDPL tới 100% Kiểm sát viên, Điều tra viên, công chức, viên chức;
tới 90% - 100% cán bộ trong các cơ quan tư pháp có quan hệ công tác với VKS và
những người tham gia tố tụng, những người là đối tượng của công tác kiểm sát; tới
60% - 70% người dân tại các địa phương, địa bàn mà VKSND tiến hành các hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ, các hoạt động phong trào, đoàn thể, hoạt động xã hội.
b) Đảm bảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND được phổ biến, thông tin rộng rãi trước và
sau khi ban hành với nội dung và hình thức phù hợp theo quy định của pháp luật.
c) Đảm bảo 100% các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường Đại học
Kiểm sát và Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát có nội dung chuyên
sâu về pháp luật và có chương trình bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng tuyên
truyền, PBGDPL.
d) Đảm bảo 100% các ấn phẩm báo chí, chương trình truyền hình Kiểm sát
nhân dân của VKSNDTC, các trang thông tin điện tử trong ngành Kiểm sát nhân
dân có chuyên mục PBGDPL rộng rãi tới nhân dân và có các nội dung về pháp
luật chuyên ngành dành cho cán bộ trong ngành và cán bộ các cơ quan tư pháp.
đ) Phấn đấu mỗi đơn vị VKSND cấp huyện và Phòng nghiệp vụ thuộc
VKSND cấp tỉnh có từ 01 đến 02 được công nhận là báo cáo viên pháp luật;
hàng năm có từ 80% báo cáo viên pháp luật và thành viên các Tổ tuyên truyền
trong ngành được cung cấp, cập nhật thông tin, tài liệu về PBGDPL, được bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL.
e) Phấn đấu 100% các đơn vị, VKSND địa phương thực hiện tuyên truyền,
PBGDPL thông qua các hoạt động nghiệp vụ kiểm sát, nhất là các hoạt động có
12


tiếp xúc với cán bộ ngoài ngành và người dân; kết hợp tuyên truyền, PBGDPL
thông qua các hoạt động đoàn thể, phong trào, hoạt động xã hội.
3. Các nhiệm vụ chủ yếu

3.1. Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo, cán bộ,
công chức, viên chức VKSND, VKSQS các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
và thực hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL, góp phần tích cực thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp và thực
hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
3.2. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thi hành nghiêm chỉnh, đồng bộ, có hiệu
quả quy định của Luật Phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và Chỉ thị số 05/CT-VKSTC-TCKS ngày 23/8/2012
của Viện trưởng VKSND tối cao về công tác tuyên truyền trong ngành Kiểm sát
nhân dân.
3.3. Nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách về PBGDPL, trọng tâm là
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Chỉ thị số 05/CT-VKSTC-TCKS ngày 23/8/2012,
các quy chế, quy định, văn bản hướng dẫn, quy định về chế độ, chính sách đối
với cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL trong ngành Kiểm sát nhân dân.
3.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành của Lãnh đạo
VKSND các cấp đối với công tác tuyên truyền, PBGDPL; kiện toàn, phân công,
giao nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền ở
VKSNDTC, Tổ tuyên truyền ở VKSQS Trung ương, VKSND cấp cao, VKSND
cấp tỉnh và các Báo cáo viên pháp luật ở các đơn vị trong toàn ngành; tăng
cường công tác hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng, cung cấp đủ tài liệu,
bổ sung trang thiết bị, kinh phí hoạt động; sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và
kịp thời tổng hợp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn; tăng cường phối
hợp với cơ quan tư pháp, với Hội đồng phối hợp PBGDPL ở các địa phương, các
cơ quan báo chí để PBGDPL và tuyên truyền về hoạt động của VKSND.
3.5. Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, PBGDPL gắn với ứng
dụng công nghệ thông tin
13


Về nội dung: Tập trung tuyên truyền những chủ trương, đường lối của Đảng

về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư
pháp, về xây dựng và áp dụng pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương có
liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND; tuyên truyền, phổ biến các quy
định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014, các đạo luật mới
về tư pháp và các đạo luật có liên quan, trọng tâm là các quy định về vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
các chức danh tư pháp của VKSND và của các cơ quan tư pháp khác; về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; quy định về tội phạm, về những
hành vi bị pháp luật nghiêm cấm và chế tài xử lý trong hoạt động tư pháp, hoạt
động tố tụng, trong thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đối tượng tuyên truyền, PBGDPL của VKSND gồm 3 nhóm chính: Một là,
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Điều tra viên, công chức, viên chức, người lao
động ngành Kiểm sát nhân dân; hai là, cán bộ các cơ quan tư pháp mà trực tiếp là
những người có quan hệ công tác với VKSND; ba là, các tầng lớp nhân dân,
trước hết là người tham gia tố tụng, những người có quan hệ giải quyết công việc
liên quan đến hoạt động của VKSND và người dân ở các địa phương có diễn ra
các hoạt động do VKSND tiến hành.
Về hình thức: Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, PBGDPL để mở
rộng phạm vi, đối tượng và nâng cao hiệu quả. Trong đó tập trung vào 3 phương
thức chính: 1) Phát huy vai trò nòng cốt của các cơ quan báo chí của VKSNDTC,
các trang thông tin điện tử của ngành Kiểm sát nhân dân; 2) lồng ghép, thông
qua các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, nhất là những
khâu công tác có tiếp xúc trực tiếp với người dân như: kiểm sát giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử,
kiểm sát giam giữ cải tạo và thi hành án, kiểm sát giải quyết các vụ việc về dân
sự, hôn nhân gia đình, vụ án hành chính, kinh tế, hoạt động tiếp công dân, kiểm
sát giải quyết khiếu tố trong hoạt động tư pháp và các hoạt động phong trào,
đoàn thể, hoạt động xã hội do VKSND thực hiện; 3) phối hợp với Hội đồng
14



PBGDPL của các địa phương và phối hợp với các cơ quan báo chí truyền thông
để tuyên truyền, PBGDPL có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND và
về phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật.
3.6. Đảm bảo các nguồn lực thực hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL
Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp bố trí nguồn lực: nhân lực (thành viên Ban
chỉ đạo, Tổ tuyên truyền, cán bộ có năng lực trực tiếp làm công tác tuyên truyền,
PBGDP); chủ động cân đối, bố trí kinh phí, trang thiết bị đảm bảo thực hiện các
nhiệm vụ Đề án đã đưa ra. Tăng cường lực lượng và đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị, phương tiện cho các cơ quan báo chí chuyên trách của VKSNDTC và
các Tổ tuyên truyền. Thực hiện xã hội hóa, trên cơ sở phối hợp và có cơ chế phù
hợp nhằm huy động mọi nguồn lực (các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp...) tham
gia tuyên truyền, PBGDPL theo chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
4. Giải pháp thực hiện
4.1. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với tuyên truyền, PBGDPL
Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền ngành Kiểm sát nhân dân, lãnh đạo
VKSND, VKSQS các cấp tiếp tục quán triệt các văn bản chỉ đạo của Đảng, của
Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Tư pháp về tăng cường công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật giai đoạn 2015 - 2020, tổ chức thi hành Luật phố biến, giáo dục
pháp luật năm 2012 và nhiệm vụ quy định tại Điều 39 Luật tổ chức VKSND năm
2014; nghiên cứu, xây dựng đồng bộ các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức
triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL (hàng năm, giai đoạn). Từ
đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các đơn vị và
cán bộ trong toàn ngành về công tác tuyên truyền, PBGDPL.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện “Ngày
Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong ngành KSND.
Thủ trưởng các đơn vị thuộc VKSNDTC, Viện trưởng VKSND, VKSQS
các cấp phân công lãnh đạo Viện phụ trách, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ là
thành viên Tổ tuyên truyền, các báo cáo viên pháp luật, đồng thời xác định rõ
15



trách nhiệm của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Điều tra viên, công chức, viên
chức tham gia thực hiện giao nhiệm vụ cụ thể cho cán bộ làm nhiệm vụ này.
Tham mưu cho lãnh đạo VKSND tối cao tiếp tục kiện toàn tổ chức Ban chỉ
đạo công tác tuyên truyền, của các cơ quan báo chí; ban hành chế độ, chính sách
cho cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL; tạo điều kiện về cung cấp thông
tin, tài liệu, bố trí kinh phí, trang thiết bị, phương tiện để thực hiện Đề án.
4.2. Nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần gương mẫu của cán bộ, công
chức, viên chức toàn Ngành trong tuân thủ, chấp hành pháp luật, học tập, tìm
hiểu pháp luật
Đề cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo VKSND, thành viên Ban chỉ đạo,
thành viên Tổ tuyên truyền trong tổ chức thực hiện tuyên truyền, PBGDPL.
Khuyến khích, động viên (khen thưởng) cán bộ làm tốt công tác này, cán bộ, Kiểm
sát viên tích cực tuyên truyền qua hoạt động nghiệp vụ, viết bài, giảng bài, tư vấn…
Đồng thời phát huy vai trò của từng cán bộ trong Ngành tự nghiên cứu tìm hiểu
nắm vững pháp luật để chấp hành pháp luật, thuyết phục, giải thích để nhân dân tự
giác tuân thủ, chấp hành pháp luật. Khuyến khích Kiểm sát viên nghỉ hưu tham gia
tuyên truyền, PBGDPL cho nhân dân.
4.3. Tổ chức thực hiện tuyên truyền, PBGDPL trong toàn ngành
Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền của ngành Kiểm sát nhân dân: Tập trung
chỉ đạo, định hướng nội dung trọng tâm tuyên truyền, PBGDPL hàng năm; tăng
cường tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng, trước hết cho thành viên các Tổ
tuyên truyền và các Báo cáo viên pháp luật của các đơn vị trong toàn ngành.
hướng dẫn nội dung tuyên truyền PBGDPL cho cán bộ chuyên trách, kiêm
nhiệm, Báo cáo viên pháp luật (8 cuộc/năm); Phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Thông
tin và Truyền thông tổ chức tập huấn kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL cho báo cáo
viên, cán bộ tuyên truyền, PBGDPL, phóng viên, biên tập viên chuyên trách của các
cơ quan báo chí đưa tin về hoạt động của VKS, tổ chức tập huấn, hội nghị, hội
thảo (3 cuộc/năm); Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, khảo sát, đánh giá hiệu ứng của

các hoạt động tuyên truyền (8 đơn vị/1 năm); Tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh
16


nghiệm 01 lần/1 năm; Tổ chức các hoạt động thông cáo báo chí, họp báo 02
lần/năm. Tổ chức cung cấp thông tin báo chí, tọa đàm về pháp luật (2 lần/năm).
Tổ tuyên truyền: Tham mưu giúp lãnh đạo VKSND tỉnh tổ chức, theo dõi
tuyên truyền, PBGDPL của các phòng, VKS huyện và báo cáo kết quả thực hiện
với Ban chỉ đạo. Tham mưu tổ chức họp báo, cung cấp thông tin báo chí; tổ chức
hội thảo, tọa đàm, tập huấn cho cán bộ; phối hợp với cơ quan truyền thông báo
chí địa phương; chủ trì tuyên truyền trên trang tin điện tử của VKS tỉnh.
Các đơn vị, VKS địa phương tổ chức thực hiện tuyên truyền, PBGDPL
thông qua hoạt động nghiệp vụ kiểm sát, phối hợp lồng ghép với các đoàn thể,
các chương trình, tổ chức tuyên truyền trực tiếp… Khuyến khích VKSND địa
phương tổ chức tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hướng dẫn, cung cấp thông tin,
tài liệu pháp luật miễn phí cho nhân dân.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Báo Bảo vệ pháp luật, Tạp chí
Kiểm sát đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; xác định rõ nội dung tuyên truyền,
PBGDPL, áp dụng linh hoạt các hình thức tuyên truyền, PBGDPL có hiệu quả.
Chương trình truyền hình KSND: Đầu tư để có nhiều kịch bản hấp dẫn,
nâng cao chất lượng các chương trình phát sóng trên kênh Truyền hình Công an
nhân dân (ANTV), tăng thời lượng phát sóng, tăng số lần phát sóng lên 4
kỳ/tháng, xây dựng thêm chuyên mục mới “Pháp luật với đời sống” với thời
lượng 5-7 phút. Kể từ năm 2018 mở rộng phạm vi phát sóng các chương trình
truyền hình Kiểm sát nhân dân lên các kênh của Đài truyền hình Việt Nam và
Truyền hình Quốc hội với thời lượng, tần suất 15 phút/1chương trình/1 tháng;
xây dựng kế hoạch phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam thực hiện bộ phim
truyền hình dài tập về ngành Kiểm sát nhân dân, tập trung phản ánh vai trò của
VKSND trong cuộc đấu tranh chống tội phạm tham nhũng, kinh tế, chức vụ.
Nâng cấp trang tin điện tử VKSND tối cao thành cổng thông tin điện tử (từ

2018), đổi mới giao diện, nâng cao chất lượng tin, bài bổ sung chuyên mục
Tuyên truyền, PBGDPL, chú trọng truyền tải các quy định mới của pháp luật.
17


Đầu tư, bảo trì, nâng cấp Tạp chí điện tử Kiểm sát, báo Bảo vệ pháp luật
điện tử và các Trang tin điện tử của VKS địa phương: Xây dựng các chuyên mục
(Hỏi đáp pháp luật;pháp luật và đời sống); thiết kế lại giao diện, hình thức trình
bày, bố trí 02 viên chức thực hiện quản trị, biên tập, hỗ trợ chi trả cho các tin, bài
viết, videoclip về tuyên truyền, PBGDPL.
4.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL
Xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL
trong các đơn vị báo chí chuyên trách của ngành, Tổ tuyên truyền của VKSND
các cấp vững vàng về bản lĩnh chính trị, có trình độ pháp luật, hiểu biết về
nghiệp vụ kiểm sát, có kỹ năng, nghiệp vụ tuyên truyền, PBGDPL chuyên sâu
theo từng lĩnh vực pháp luật (hình sự, dân sự, hành chính…). Tiến hành rà soát,
phân loại, đánh giá, có kế hoạch định kỳ đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật nâng cao
kiến thức pháp luật, nghiệp vụ kiểm sát, kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL. Kiện
toàn, bảo đảm đủ thành phần Tổ tuyên truyền (thành viên cả ở cấp tỉnh, cấp
huyện), có quy chế làm việc rõ ràng, hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ
được phân công. Cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL phải làm tốt vai trò
tham mưu cho cấp ủy, Ban chỉ đạo, Tổ tuyên truyền trong việc triển khai thực
hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL, thường xuyên tham mưu, hướng dẫn các
các đơn vị triển khai các kế hoạch tuyên truyền phù hợp nội dung và tình hình
mới. Cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho đội ngũ này.
Phát huy hiệu quả hoạt động của đội ngũ Báo cáo viên pháp luật của Ngành.
Phối hợp với Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật để xây dựng, bổ sung đội
ngũ Báo cáo viên và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí Trung ương và
địa phương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
4.5. Xây dựng, biên soạn tài liệu tuyên truyền, PBGDPL

Ban chỉ đạo tuyên truyền tổ chức xây dựng chương trình, kế hoạch, định
hướng nội dung, biên soạn tài liệu phù hợp với đặc điểm, điều kiện, trình độ
nhận thức, tính chất công việc của từng đối tượng ở từng thời gian cụ thể. Nâng
18


cao chất lượng biên soạn và phát hành các tài liệu tuyên truyền, PBGDPL như
sách tìm hiểu pháp luật, cẩm nang pháp luật, giải đáp pháp luật, sổ tay pháp luật...
Xây dựng tài liệu hướng dẫn nội dung trọng tâm, kỹ năng tuyên truyền,
PBGDPL theo chủ đề phát cho 2 loại đối tượng: 1 là thành viên Ban chỉ đạo, cán
bộ chuyên trách làm công tác tuyên truyền, thành viên Tổ tuyên truyền; 2 là cấp
phát cho từng Kiểm sát viên/1ấn phẩm/năm, trung bình 5.000 bản/năm.
Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng tuyên truyền,
PBGDPL của Trường Đại học Kiểm sát và Trường Đạo tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
kiểm sát cho sinh viên, Kiểm sát viên phù hợp với từng lớp, từng khóa. Xây
dựng bài giảng điện tử, các mô hình trực quan, thực hành quyền công tố tại phiên
tòa giả định, tình huống pháp lý thực tiễn trong giảng dạy…
Biên soạn, xuất bản một số tài liệu tuyên truyền, PBGDPL tới nhân dân để
cấp phát cho các đơn vị trong ngành sử dụng khi thực hiện công tác tuyên truyền,
PBGDPL. Yêu cầu nội dung tài liệu phải ngắn gọn, dễ hiểu, sinh động, nội dung
phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn cụ thể.
4.6. Khảo sát, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực hiện Đề án
Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền của ngành xây dựng kế hoạch tổ chức
khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện theo định kỳ 6 tháng, 01 năm, tiến hành sơ
kết, tổng kết việc thực hiện Đề án. Tổng hợp những vấn đề nảy sinh để có biện
pháp giải quyết hoặc điều chỉnh, bổ sung nội dung, chỉ tiêu thực hiện cho phù hợp.
5. Kinh phí thực hiện
Kinh phí thực hiện Đề án được bố trí từ nguồn ngân sách Nhà nước hàng
năm dành cho công tác tuyên truyền, PBGDPL cho toàn ngành KSND theo quy
định của Luật Ngân sách nhà nước; nguồn tài chính được hỗ trợ của tổ chức, cá

nhân khác ngoài ngân sách được cấp theo quy định của pháp luật.
Dự kiến tổng kinh phí cần thực hiện trong thời gian 4 năm (2018-2021) của
Đề án là: 134.257.500.000 đ (Một trăm ba mươi tư tỷ, hai trăm năm mươi bảy
triệu, năm trăm ngàn đồng chẵn). (Có dự toán chi tiết kèm theo)
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
19


1. Đề nghị với Chính phủ
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Thủ tướng Chính phủ có văn bản chỉ
đạo Bộ Tư pháp phối hợp, hướng dẫn thực hiện công tác PBGDPL trong ngành
Kiểm sát nhân dân; chỉ đạo Bộ Tài chính hướng dẫn VKSNDTC xây dựng dự
toán kinh phí cho công tác tuyên truyền, PBGDPL của ngành Kiểm sát nhân dân,
tiến hành thẩm định, trình Chính phủ quyết định và thực hiện phân bổ; chỉ đạo
Đài truyền hình Việt Nam, Truyền hình Quốc hội Việt Nam phối hợp với
VKSNDTC xây dựng, phát sóng các chương trình truyền hình Kiểm sát để tuyên
truyền, PBGDPL và tuyên truyền về hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân.
2. Đề nghị các bộ, ngành, địa phương
2.2.Đề nghị Bộ Tài chính: Bố trí kinh phí thực hiện Đề án cho VKSND
trong dự toán ngân sách hằng năm theo quy định ngân sách nhà nước.
2.3. Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tạo các nguồn lực, tạo điều kiện cho
VKSND thực hiện tốt Đề án.
2.4. Đề nghị Bộ Tư pháp: Hướng dẫn VKSND tối cao triển khai thực hiện
Đề án; chỉ đạo sở Tư pháp phối hợp với VKSND tỉnh thực hiện Đề án tại địa
phương; phối hợp với các bộ, ngành tổ chức thực hiện các nội dung liên quan.
Phối hợp tổ chức tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ PBGDPL cho Báo cáo viên
pháp luật, cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL; đề xuất Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ban hành quyết định công nhận Báo cáo viên pháp luật của VKSND tối cao.
2.5. Các cơ quan quản lý báo chí, thông tin truyền thông
2.5.1. Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông: Phối hợp với VKSND tối cao

đào tạo kỹ năng tuyên truyền cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền, phóng viên
chuyên trách của các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương; hướng dẫn,
theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tuyên truyền pháp luật theo kế hoạch của Đề án.
2.5.2. Hội nhà báo Việt Nam: tham gia đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí.
2.5.3. Các cơ quan thông tin, truyền thông:Phối hợp với VKSND tối cao,
VKSND địa phương để thực hiện các hoạt động cụ thể về tuyên truyền pháp luật.
20


2.5.4. Đề nghị Truyền hình ANTV: Phối hợp với VKSND tối cao tiếp tục
phát sóng các Chương trình truyền hình tuyên truyền, PBGDPL theo định kỳ.
2.4.5. Đề nghị Đài truyền hình Việt Nam: Phối hợp với VKSND tối cao thực
hiện bộ phim truyền hình dài tập về ngành KSND trong cuộc đấu tranh chống tội
phạm tham nhũng, kinh tế, chức vụ phát sóng trên kênh của Đài.
2.4.6. Đề nghị Truyền hình Quốc hội: Phối hợp với VKSND tối cao xây dựng,
phát sóng chương trình truyền hình tuyên truyền về pháp luật, về quyền, nghĩa vụ
cơ bản của công dân khi chấp hành pháp luật, về phòng, chống tội phạm.
2.6. Đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ban hành quyết
định công nhận Báo cáo viên pháp luật của VKSND cùng cấp.
2.7. Đề nghị Hội đồng phối hợp PBGDPL: Tư vấn, xây dựng chương trình,
kế hoạch, nội dung, các giải pháp và huy động nguồn lực cho PBGDPL của VKSND
cùng cấp; xác định nội dung pháp luật trọng tâm cần phổ biến; khen thưởng.
3. Trách nhiệm của các đơn vị trong ngành Kiểm sát
nhân dân và tiến độ thực hiện
3.1.Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Ban chỉ đạo: có trách nhiệm tổ chức thực hiện Đề án, đồng thời theo dõi,
kiểm tra, tổng hợp tình hình, định kỳ sơ kết, tổng kết trong toàn Ngành, báo cáo
Viện trưởng VKSND tối cao (2018-2021).
- Sửa đổi, bổ sung Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo công tác
tuyên truyền. Thời gian hoàn thành năm 2018.

- Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Đề án, kiểm tra, hướng dẫn, sơ kết, tổng
kết, rút kinh nghiệm, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL
trong toàn ngành KSND. Thực hiện hàng năm (2018-2022).
- Tổ chức biên soạn tài liệu hướng dẫn thực hiện công tác tuyên truyền và tài
liệu phục vụ tuyên truyền, PBGDPL theo chủ đề xác định hàng năm.
Các cơ quan báo chí chuyên trách (Tạp chí Kiểm sát, Báo Bảo vệ pháp luật)

21


Phát huy tính tiên phong của các cơ quan báo chí VKSNDTC trong thực
hiện các hoạt động tuyên truyền, PBGDPL; kiện toàn tổ chức, đảm bảo nhân lực,
phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông để triển khai thực hiện Đề án.
Mở thêm chuyên mục, chuyên trang về pháp luật, phát hành ấn phẩm mới về
pháp luật; mở rộng phát sóng chương trình Truyền hình KSND (năm 2018-2022).
Tổ chức tuyên truyền, PBGDPL bằng các giải pháp cụ thể tại Mục 4.3 Đề án;
thực hiện xã hội hóa các hoạt động tuyên truyền, PBGDPL theo chức năng, nhiệm vụ.
Các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao: tổ chức tuyên truyền, PBGDPL thông
qua hoạt động nghiệp vụ của đơn vị, động viên cán bộ Kiểm sát viên tích cực tham
gia các hoạt động tuyên truyền, PBGDPL khi tiếp xúc với người dân (2018-2022).
3.2.Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát quân sự các cấp
Bố trí, động viên cán bộ, Kiểm sát viên tích cực thực hiện công tác tuyên
truyền, PBGDPL thông qua hoạt động nghiệp vụ thuộc các lĩnh vực công tác
kiểm sát được giao và các hoạt động tiếp xúc với nhân dân (2018-2022).
3.3. Các VKSND địa phương
Tổ Tuyên truyền ở VKSND tỉnh: Tiếp tục kiện toàn đủ thành phần, thành viên
bổ sung nội dung PBGDPL vào nhiệm vụ của Tổ tuyên truyền (năm 2018); xây
dựng, nâng cấp Trang tin điện tử, mở thêm chuyên mục về pháp luật; tham mưu cho
VKSND tỉnh: tổ chức các hoạt động tuyên truyền PBGDPL trực tiếp đến người
dân, phối hợp, lồng ghép hoạt động nghiệp vụ với các phong trào, đoàn thể; ký

quy định phối hợp và tổ chức phối hợp với cơ quan báo chí cùng cấp (2018-2022).
Viện kiểm sát địa phương phối hợp với ngành Tư pháp tham mưu cho Ủy
ban nhân dân cùng cấp trong triển khai tuyên truyền, PBGDPL tại địa phương
trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần
nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân và phòng, chống tội phạm, vi phạm
pháp luật (2018-2022).
KẾT LUẬN
22


Công tác tuyên truyền, PBGDPL của ngành Kiểm sát đã có có những bước
phát triển mới, hỗ trợ đắc lực cho thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành và
góp phần phòng, chống tội phạm. Thực hiện Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy
định về công tác này, trong thời gian tới yêu cầu về công tác tuyên truyền, PBGDPL
của VKS đòi hỏi phải chất lượng, hiệu quả, sâu rộng hơn đến toàn thể cán bộ trong
ngành, cán bộ các cơ quan tư pháp và nhân dân có quan hệ với VKS.
Đề án đã đặt ra mục tiêu tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tuyên truyền, PBGDPL của VKSND; góp phần phòng ngừa và đấu tranh có hiệu
quả, kéo giảm tội phạm và vi phạm pháp luật; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây
dựng lối sống và làm việc theo pháp luật trong toàn xã hội; nâng cao hiểu biết
của cán bộ và nhân dân về Viện kiểm sát; đồng thời đưa ra các chỉ tiêu cụ thể
phấn đấu đạt tỷ lệ cao cán bộ, nhân dân được tuyên truyền, PBGDPL, tài liệu, ấn
phẩm về pháp luật được tuyên truyền, bố trí nguồn lực đảm trách công tác này.
Đề án đã chỉ ra 6 nhiệm vụ phải thực hiện là: Nâng cao nhận thức của các
cấp ủy Đảng và cơ quan VKS các cấp về công tác tuyên truyền, PBGDPL; Tiếp
tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách về tuyên truyền, PBGDPL của
VKS; Tổ chức thi hành nghiêm chỉnh, đồng bộ Luật phổ biến, giáo dục pháp
luật, tăng cường công tác tuyên truyền trong ngành KSND; Tăng cường quản lý,
phối hợp trong tuyên truyền, PBGDPL; Đổi mới nội dung, hình thức tuyên

truyền, PBGDPL gắn với ứng dụng công nghệ thông tin; Đảm bảo các nguồn lực
thực hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên Đề án đã đưa ra các giải pháp đó là: Tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với tuyên truyền, PBGDPL; Nâng cao ý thức trách
nhiệm, tinh thần gương mẫu của cán bộ, công chức, viên chức toàn Ngành trong
tuân thủ, chấp hành pháp luật, học tập, tìm hiểu pháp luật; Tổ chức thực hiện
tuyên truyền, PBGDPL trong toàn ngành; Xây dựng, hoàn thiện tài liệu tuyên
truyền, xây dựng đội ngũ thực hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL của toàn
Ngành; tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện Đề án.
23


Đề án phù hợp với nhu cầu được tuyên truyền, PBGDPL của cán bộ cũng
như người dân liên quan đến hoạt động của Viện kiểm sát, đòi hỏi công tác tuyên
truyền, PBGDPL của ngành KSND cần tiếp tục được sự quan tâm, phối hợp
nhiều hơn của Chính phủ, các cấp, các ngành và mỗi người dân. Hy vọng Đề án
sẽ mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần đẩy mạnh tuyên truyền, PBGDPL tới
cán bộ, nhân dân, tạo sự đồng tình, ủng hộ, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị và toàn dân đối với hoạt động tuyên truyền, PBGDPL của
ngành Kiểm sát nhân dân./.

24



×