Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ HÌNH THÀNH NỀ NẾP VÀ HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH LỚP 1.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.95 KB, 37 trang )

UBND QUẬN ĐỐNG ĐA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN ĐỐNG ĐA
TRƯỜNG TIỂU HỌC KHƯƠNG THƯỢNG .

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

ĐỀ TÀI:

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ HÌNH THÀNH
NỀ NẾP VÀ HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO
HỌC SINH LỚP 1.

Người viết: Lê Thị Hiển
Giáo viên: Lớp 1G.

Năm học : 2010 – 2011.

Sáng kiến kinh nghiệm

1

Lê Thị Hiển


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Năm học 2010 - 2011, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 1.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình lớp nói riêng: lớp học đa số học sinh
không qua mẫu giáo, nề nếp cần phải uốn nắn nhiều, ý thức tự giác chưa cao,
nhiều gia đình hoàn cảnh éo le dẫn đến các em chưa xây dựng - chưa xác định


được cho mình một hướng đi đúng trong học tập và kỉ luật, còn rất tự do đồng
thời kết hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi lớp 1 lần đầu tiên cắp sách tới
trường, rất ngây thơ lại lạ trường lạ lớp, bạn bè chưa quen…
Lần đầu tiên cắp sách đến trường với bao bỡ ngỡ, chắc chắn rằng cả cha
mẹ, thầy cô cũng như chính bản thân mình, các em đều rất mong mình học được
nhiều, biết được nhiều, bởi vì:
“Cái tháp cao nào cũng xây từ mặt đất”.
Dù người lớn chúng ta mong mỏi ở trẻ những điều hết sức sơ đẳng:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”
Nhưng những cái “biết” ấy luôn phải nằm trong khuôn khổ được xã hội
cho phép. Tất cả chúng ta không ai có thể tự ý đi ra ngoài những nguyên tắc cơ
bản của cuộc sống. Trẻ em lại càng không thể. Tương lai, sự trường tồn và phát
triển của mỗi đất nước, mỗi dân tộc luôn phụ thuộc vào thế hệ trẻ:
“Con trẻ là cái mầm, cái búp của cả dân tộc. Con trẻ có được nuôi dưỡng,
giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới có thể tự cường tự lập.”
(Trích “Trẻ em Việt Nam”- Hồ Chí Minh 1942 ).
Chính vì lý do đó, ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, Đảng và Nhà nước
ta đều giành sự quan tâm đặc biệt chu đáo cho trẻ thơ.
Với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thấm nhuần lời dạy của chủ tịch Hồ
Chí Minh:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em,
Sáng kiến kinh nghiệm

2

Lê Thị Hiển



coi đây là sự nghiệp cao quý, là trách nhiệm to lớn đối với thế hệ tương lai, đối
với tiền đề của dân tộc và của đất nước.
Là người giáo viên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, hơn ai hết chúng ta
phải thấy được trọng trách của mình trong sự nghiệp trồng người. Làm sao cho
học sinh yêu thích học tập cũng như hăng hái tham gia các hoạt động tập thể,
sao cho các em cảm thấy trường học là ngôi nhà thứ hai của mình và mỗi ngày
đến trường của các em thực sự là một ngày vui...
Muốn vậy các em cần được hình thành từng bước trong mọi hoạt động ở
lớp, từ nề nếp học tập, ý thức kỷ luật, thái độ giao tiếp với thầy cô, bạn bè, trong
gia đình và ngoài xã hội...rất nhiều điều cần quan tâm mà mảng học tập là một
mảng lớn trong giai đoạn các em đang ngồi trên ghế nhà trường. Vì chưa có định
hướng cụ thể nên các em còn rất nhiều sai sót. Chính vì vậy, muốn cho các em
có nề nếp trong học tập cũng như trong sinh hoạt, biết ngăn nắp, gọn gàng, khoa
học trong từng hoạt động, người giáo viên phải uốn nắn, rèn giũa cho các em
ngay từ khi bước chân vào ngưỡng cửa nhà trường. Nếu ngay từ lớp một được
rèn nề nếp trong học tập một cách nghiêm túc và có hiệu quả thì ở các lớp sau
các em cũng sẽ là những học sinh có nề nếp học tập tốt, tạo bước đi vững chắc
cho các em trong việc học tập ở các lớp trên và tạo tiền đề cho việc rèn luyện,
phấn đấu thành người công dân có ích cho đất nước sau này – những con người
có trình độ văn hóa, khoa học, nhanh nhẹn, nhạy bén đáp ứng với sự phát triển
của xã hội, của khoa học tiên tiến trong thế kỷ 21.
Trong vài năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học
trong các trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng.
Môn toán là môn học khó, khô khan nhưng vô cùng lý thú nếu biết
khai thác nó
Đặc điểm của học sinh Tiểu học là tư duy chóng mệt mỏi khi phải
nghe thấy cô giảng bài một cách đơn điệu. Các em thích được hoạt
động, được vui chơi xen kẽ với học tập. Mặt khác, tuổi thiếu niên luôn
thích tò mò, tìm tòi những điều mới lạ, những bài toán có nội dung

vui, lời giải độc đáo gây cho các em hứng thú say mê với môn Toán.
Sáng kiến kinh nghiệm

3

Lê Thị Hiển


Vì vậy các giáo viên tiểu học hiện nay rất quan tâm đưa các trò chơi
vào trong các tiết học
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở bậc
Tiểu học nói chung và ở lớp 1 nói riêng theo phương hướng “Phát huy
tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh Tiểu học trên cơ sở
khai thác triệt để các đặc điểm tâm sinh lí của học sinh”. Tôi xin giới
thiệu một vài trò chơi cũng như các câu chuyện kể có khả năng áp
dụng vào các tiết Toán - phần số học, các số trong phạm vi 10.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài:
“Những định hướng để hình thành
nề nếp và hứng thú học tập cho học sinh lớp 1”.

*********

Sáng kiến kinh nghiệm

4

Lê Thị Hiển


II- MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:

1- Mục đích
Nâng cao hiệu quả của giờ học Toán bằng cách gây hứng thú,
tạo sự yêu thích của học sinh đối với môn Toán, thu hút học sinh tham
gia một cách tự nguyện và tích cực trong giờ học, hiểu nội dung của
bài học.
2- Nhiệm vụ của đề tài:
a- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn và lí luận:
Nghiên cứu về đặc điểm lứa tuổi học sinh Tiểu học. Nội dung
chương trình Toán lớp 1 - phần các số trong phạm vi 10. Các khái
niệm về trò chơi Toán học.

b- Đề xuất các trò chơi để thực hiện nội dung đề tài:
III- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1- Nghiên cứu các tài liệu lý thuyết.

2- Tổng kết các kinh nghiệm dạy học.

Sáng kiến kinh nghiệm

5

Lê Thị Hiển


PHẦN II
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
A – NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
CHƯƠNG I- CƠ SỞ LÍ LUẬN
I - ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÍ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC:
Đi học ở trường phổ thông là bước ngoặt trong đời sống của trẻ. Đến

trường, trẻ em có hoạt động trẻ em có hoạt động mới giữ vai trò chủ đạo
quyết định những biến đổi tâm lí cơ bản ở lứa tuổi này. Những mối quan hệ
mới với thầy cô giáo, với bạn bè cùng tuổi được hình thành. Trẻ em thực
hiện một cách tự giác có tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng từ phía
nhà trường, gia đình và xã hội. Điều đó có tác động đặc biệt đến sự hình
thành và phát triển nhân cách học sinh.
Hứng thú của học si nh Tiểu học ngày càng bộc lộ và phát triển rõ rệt.
Đặc biệt là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung quanh, các
em thể hiện tính tò mò ham hiểu biết. Sự phát triển hứng thú học tập của học
sinh Tiểu học phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức công tác học tập.
Ở nhiều em mới đi học thì vùng hưng phấn ưu thế được thành lập còn
yếu. Chúng được thành lập một cách khó khăn và dễ bị dập tắt. Vùng ưu thế
khác xuất hiện để thay thế vùng ưu thế kia bị mất đi nhanh chóng. Sự di
chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác không được duy trì lâu,
vì cường độ tập trung chú ý của trẻ còn rất yếu, làm trẻ bị phân tán chú ý.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sự không bền vững của chú ý là một
đặc điểm lứa tuổi, quy định tất yếu sự không thể có được khả năng tập trung
chú ý lâu dài của học sinh nhỏ ở Tiểu học. Những thực nghiệm tâm lí học đã
chứng minh rằng: ngay từ lớp 1 đã có khả năng chú ý mạnh mẽ, đầy đủ, tức
là chú ý được tập trung 35 phút trên lớp học, nếu như hoạt động học tập của

Sáng kiến kinh nghiệm

6

Lê Thị Hiển


học sinh được tổ chức một cách khoa học, hợp lí, đảm bảo thu hút mỗi học
sinh hoạt động học tập.

Hoạt động học tập đòi hỏi trẻ phải có kĩ năng điều khiển trí nhớ của
mình. Các nghiên cứu cho thấy hiệu quả của trí nhớ ở học sinh phụ thuộc
nhiều vào phương pháp và cách thức tổ chức để ghi nhớ và nhớ lại tài liệu.
Việc dạy cho học sinh Tiểu học các phương pháp và cách thức thích hợp để
ghi nhớ có vai trò quan trọng, nó thúc đẩy sự phát triển trí nhớ có chủ định
của các em. Học sinh Tiểu học gần như không hiểu là có thể và càn phải học
ghi nhớ những điều chúng nghe và đọc được. Hoạt động ghi nhớ như thế còn
chưa được học sinh biết đến.
Vấn đề cơ bản và nổi bật nhất trong bộ mặt tâm lí của học sinh Tiểu
học là đời sống tình cảm của các em. Học sinh Tiểu học dễ xúc cảm trước
thế giới. Trẻ thường biểu hiện cảm xúc trong khi tri giác các sự vật, hiện
tượng cụ thể hấp dẫn. Những lời triết lý khô khan, những hình ảnh, thiếu
sinh động khó gây cảm xúc ở trẻ. Trẻ nhỏ thường thể hiện cường độ cảm
xúc mạnh mẽ dễ xúc động, khó kìm hãm và khó làm chủ tình cảm của mình.
Do đó, việc dạy học được xây dựng trên cơ sở hoạt động tư duy tích cực,
muôn màu sẽ nhanh chóng giáo dục cho học sinh Tiểu học lòng yêu lao
động trí óc, lòng vui sướng cũng như nỗi thoả thê với sự tìm tòi phát hiện cái
mới.
Nói tóm lại, bậc Tiểu học là đạt nền móng đầu tiên cho sự phát triển
của trẻ. Căn cứ vào đặc điểm nhân cánh, khả năng chú ý, ghi nhớ. Đặc biệt
là tình cảm muôn màu sắc, sinh động của trẻ ta nên đưa các trò chơi vào
trong tiết học Toán để cho tiết học bớt căng thẳng, tăng thêm phần sinh động
lí thú.
II- NỘI DUNG DẠY HỌC CÁC SỐ TỪ 0 ĐẾN 10 TRONG SÁCH GIÁO
KHOA:
Các số từ 1 – 10 là những khái niệm số học mà trẻ là quen đầu tiên khi
tới trường. Cụ thể, nó được phân bố như sau:
Tiết 6 Các số 1, 2, 3
Tiết 7 Luyện tập
Tiết 8 Các số 1, 2, 3, 4, 5


Sáng kiến kinh nghiệm

7

Lê Thị Hiển


Tiết 9 Luyện tập
Tiết 10 Bé hơn dấu <
Tiết 11 Lớn hơn dấu >
Tiết 12 Luyện tập
Tiết 13 Bằng nhau dấu =
Tiết 14 Luyện tập
Tiết 15 Luyện tập chung
Tiết 16 Số 6
Tiết 17 Số 7
Tiết 18 Số 8
Tiết 19 Số 9
Tiết 20 Số 0
Tiết 21 Số 10
Tiết 22 Luyện tập
Tiết 23 Luyện tập chung
Tiết 24 Luyện tập chung
Trong 19 tiết này, mục tiêu chủ yếu là giúp học sinh:
- Có khái niệm ban đầu về các số trong phạm vi 10 (mỗi số là
đại diện cho một lớp các nhóm đối tượng có cùng số lượng).
- Biết đọc, viết các số đến 10.
- Biết sử dụng phép đếm (đếm được đến 10)
- Nhận biết số lượng các nhóm đồ vật có số lượng trong phạm

vi 10.
- Biết thứ tự của các số trong bộ phận đầu tiên của dãy số tự
nhiên.
- Nắm được khái niệm số liền trước, liền sau. Biết so sánh các
số theo quan hệ thứ tự.
CHƯƠNG II: GIỚI THIỆU MỘT SỐ TRÒ CHƠI CÂU CHUYỆN TOÁN HỌC ĐƯỢC
DÙNG KHI DẠY CÁC SỐ TRONG PHẠM VI 10
Với phương châm, các trò chơi phải góp phần giúp học sinh củng cố kiến thức
mới trong tiết học. Tôi căn cứ vào mục tiêu dạy học các số đến 10 để giới thiệu các trò
chơi. Với cách sắp xếp này, tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của từng kiến thức mà ta có

Sáng kiến kinh nghiệm

8

Lê Thị Hiển


thể lựa chọn các trò chơi khác nhau trong từng tiết học.
I- CÁC TRÒ CHƠI TOÁN HỌC:
1. Các trò chơi nhằm củng cố khái niệm từ 0-10:
1.1. Bịt mắt, lắp nhà:
a- Chuẩn bị:
− Vẽ trên bìa một số ngôi nhà (trên đó ghi tập hợp các nhóm đồ vật và
số tương ứng) rồi cắt làm đôi và tách 2 nửa ra xa nhau.
−Một "que dò" đầu que tô phấn đỏ. Một khắn bịt mắt.
b- Cách tiến hành:
−Mỗi tổ cử 2 bạn, bạn A bị mắt còn bạn B thì không. Bạn A có nhiệm
vụ dò tìm nhà và lắp nhà, còn bạn B có nhiệm vụ chỉ dẫn cho A dò
nhưng không đụng vào A

− Hai bạn đứng cách bảng độ 2m. BẠN B đứng tại chỗ, bạn A cầm
que dò bước lên theo tiếng vỗ tay của bạn B. Cách thức vỗ tay như thế
nào tuye 2 bạn quy định với nhau. Miễn sao A chỉ đúng que dò vào một
nửa ngôi nhà nào đấy và sau đó chỉ lại đúng vào nửa còn lại là được.
− Trong một khoẳng thời gian hạn định, cạp nào "tìm đúng" và "lắp"
đúng nhà thì được thưởng 2 bông hoa. Tổ nào nhiều hoa hơn thì thắng.
1.2. Thay đồ vật bằng số:
a- Chuẩn bị:
Một vài tấm bìa trên đó có vẽ các nhóm đồ vật (ví dụ 7 quả cam, 5 quả
táo, 4 xe ôtô)
b- Cách tiến hành:
Giáo viên nên chọn 4 bạn hát hay lên làm ban giám khảo. Trò chơi
này được tổ chức thành cuộc thi giữa các tổ.
Đầu tiên giáo viên giơ tấm bìa ghi, chẳng hạn 4 xe ô tô. Các học
sinh lập tức dùng bộ đồ dùng học Toán tìm số gài vào bảng. Thời gian
gài là 1 hoặc 2 câu hát do ban giám khảo trình bày. Hết thời gian các bạn
trong ban giám khảo sẽ đi đếm bảng đúng của từng tổ. Tổ nào nhất sẽ
được một bông hoa đỏ. Tổ nhì được một bông hoa xanh. Và tổ xếp thứ 3
được một bông hoa vàng. Sau bốn, năm lần như vậy sẽ tổng kết troa quà
cho tổ thắng.
Sáng kiến kinh nghiệm

9

Lê Thị Hiển


1.3. Đô mi nô:
a- Chuẩn bị:
Một bộ đôminô mỗi bộ gồm 20 quân bằng bìa. Mỗi quân bìa chia

làm 2 nửa. Mỗi nửa ghi một nhóm đồ vật (5 ô tô, 5 quả cam). Một nửa
ghi một số bất kì ( từ 0 - 10)
b- Cách tiến hành:
Hai đội lên tham gia trò chơi mỗi đội gồm 5 bạn. Giáo viên phát
cho mối bạn 2 tâm bìa. Mỗi đội cử một người ra quân trước. Sau hiệu
lệnh của giáo viên các nhóm bắt đầu chọn quân để sắp xếp thành hàng
ngang nối tiếp nhau, sao cho đuôi của tấm bìa này phải phù hợp với
nhóm hoặc số thiách hợp ở đầu tấm bìa kia.
Ví dụ: Nếu tấm bìa đầu tiên có phần đuôi là 3 quả cam thì đội có
tấm bìa ghi số 3 nhanh chân gắn tiếp vào. Các đội khác lại nhìn duôi của
tấm bìa vừa ghép để điền tiếp. Đội thắng là đội hết bài trước.
1.4. Nhặt thóc giúp cô Tấm
a- Chuẩn bị:
− Các tấm bìa hanì hạt thóc trên đó có ghi các nhóm đồ vật với số
lượng khác nhau. Gắn các tấm bìa đó lên bảng.
− Chuẩn bị 4 chiếc giỏ.
− Làm 4 chiếc mũ hình chim để đội lên đầu.
b- Cách tiến hành:
− Giới thiệu:
• Mụ dì ghẻ bắt cô tấm phải nhặt hết chỗ gạo này mới đi hội.
Chúng ta hãy hoá thành các chú chim giúp cô Tâm nhé. Sẽ
có: Hai đội sẽ lên tham gia trò chơi. Mỗi đội gồm 2cm.
Giáo viên phát cho những người chơi chiếc mũ chim.
• Sau hiệu lệnh, các em trong mỗi đội sẽ nhặt những hạt thóc
trên đó ghi các đồ vật với số lượng là 3. Bỏ vào giỏ của
mình.
• Thời gian thi là 5 phút. Sau 5 phút đội nào nhặt được nhiều
hạt thóc với số lượng đồ vật tương ứng là nhiều nhất thì đội
đấy sẽ thắng.
Sáng kiến kinh nghiệm


10

Lê Thị Hiển


* Chú ý: Ta có thể á dụng trò chơi này để củng cố khái niệm các
số tự nhiên từ 0-10
2. Các trò chơi củng cố kĩ năng đọc và viết trong phạm vi 10:
2.1. Thi đua xếp đẹp:
a- Chuẩn bị:
Những tấm bìa trên đó có ghi các số trong phạm vi 10 với hình thức giống
hoàn toán các số trong máy tính.
Những bộ que tính (mỗi em 1 bộ)
b- Cách tiến hành: Giáo viên cho học sinh ngồi theo nhóm nhỏ (3-4 học
sinh). Các nhóm sẽ thi đua xếo nhanh bằng que tính ccá sô giống như các số
ghi trên tấm bìa. Đội nào xếp nhanh đẹp đội đó sẽ thắng.
3. Các trò chơi củng cố kĩ năng đếm:
3.1. Tặng quà cho bé giỏi:
a- Chuẩn bị:
- Một con xúc sắc to. Mỗi mặt ghi các chấm tròn khác nhau.
- Một hộp kẹo lớn 1 chiếc cốc to
b- Cách tiến hành:
Giáo viên gọi từng em lên đổ xúc sắc được hai chấm tròn. Em sẽ nói "Em
được hai chiếc kẹo". Sau đó em tự ra lấy kẹo. Lấy xong, em giơ trước lớp để
các đếm lại. Nếu em đó lấy đúng số kẹo thì coi như thắng cuộc và được
thưởng luôn số kẹo đó.
3.2. Thi vẽ đẹp:
a- Chuẩn bị:
Hai tấm bìa trên đó có đánh số 0 và 10 thoe một thứ tự nào đó đê khi nối

cá điểm lại sẽ được hình một con vật ( conm mèo, con vịt, con gà)
Hai chiếc bút dạ to.
b- Cách tiến hành:
Hai em lên tham gia trò chơi. Sau hiệu lệnh của cô giáo các sẽ nối các
điểm với nhau thoe thứ tự từ 0 đến 10. Hết thời gian thi em nào hoàn thành
đúng, đẹp thì dành phần thắng.
3.3. Cá ngựa:
a- Chuẩn bị

Sáng kiến kinh nghiệm

11

Lê Thị Hiển


Một tấm bìa trên đó vẽ những ô vuông nhỏ nối tiếp nhau tạo thành một
dãy các ô vuông (giống hình đường ray tàu hoả). Một đầu ta để vạch xuất
phát. Đầu con lại để ta vẽ một ngôi nhà.
Hai con cá ngựa hoặc hai hình tròn màu khác nhau có dính nam châm
Một con xúc sắc
b- Cách tiến hành:
Cách trò chơi này giống hệt cách chơi cá ngựa. Ba em lên tham gia trò
chơi, hai em thi với nhau, một em làm trong tài. Được lệnh của cô giáo các em
sẽ lần lượt đổ xúc sắc. Đổ được bao nhiêu điểm thì được bấy nhiêu ô. Ai về
đích trước thì người đó dành thắng lợi
Trò chơi này ta có thể chơi thành nhóm nhỏ (mỗi nhóm 3 em). Và cũng để
trò chơi này hấp dẫn hơn ta có thể cho thêm điều kiện ở từng ô.
Ví dụ: khi một học sinh đi ngựa vào ô số 3 trọng tài sẽ lấy tờ giấy thi nội
quy ở ô số 3 như sau: "Chú ngựa nào tới ô này sẽ buộc phải lùi lại sau 3 bước"

như vậy con ngựa dừng này sẽ phải lùi đằng sau 3 ô.
3.4. Chào mừng số 8:
Cách tiến hành:
Học sinh cả lớp đứng nguyên tại chỗ. Giáo viên chỉ định 1 học sinh bất kì
đếm. 1 em đứng bên cạnh đếm tiếp số 2 ....Cứ như vậy đến số 8. Em số 8 hô
to "Tôi số 8" và tacvhs ra đứng vào bục giảng. Em bên phải lại tiếp tục đếm1,
2...Cứ như vậy đến số 8. Em số 8 hô to "Tôi số 8" và tách ra đứng lên bục
giảng. Nếu em nào có quen đếm hoặc đếm sai thì phải ngồi xuống coi như mất
lượt tham gia vòng thi đấu. Hết một vòng thì cả lớp vỗ tay và hô to "chào
mừng số 8"
Giáo viên lại cho lớp đứng lại như cũ và cho đếm cách 2 bắt đầu 2, 4, 6, 8
và trò chơi tiếp tục như trên. CUối cùng, giáo viên có thể cho các học sinh tiếp
tục chơi nhưng đếm lùi từ 8 đến 1. Trò chơi tiếp tục với lời hô to cả lớp "Chào
mừng số 8".
4. Các trò chơi củng cố kĩ năng so sánh các số
4. 1. Điền dấu đúng:
a- Chuẩn bị:
Hai bộ biển số và biển dấu có tay cầm bằng vật liệu nhẹ nhưng

Sáng kiến kinh nghiệm

12

Lê Thị Hiển


chắc chắn (có thể sử dụng nhiều lần)
b- Cách tiến hành:
Hai đôi jchơi với nhau. Mỗi đội gồm 3 người chơi thành 3 lượt,
mỗi lượt 3 người. Để trò chơi này giáo viên cần mới thêm 4 bạn cầm

giúp các biển số, các biển dấu chia thành 2 nhóm. Được gắn lên bảng,
mặt có dấu lộ ra ngoài.
Khi giáo viên ra lệnh: bắt đầu hai người cầm biển, ở mối nhóm giơ
cao các Biển số. người chơi lập tức chạy lên chọn đúng biển dấu cần
thiết và đứng xen vào giữa 2 người của đội mình sao cho sự so sánh là
đúng. Chẳng hạn nếu 2 người đứng theo thứ tự "2, 1". Thì người chơi
phải giơ biển số chọn biển dấu ">" để khi đứng giữa hai người được
2>1, còn chọn dấu "=" hoặc "<" thì kết quả sai. Sau 3 lượt đội nào xếp
nhanh và dúng nhất sẽ thắng cuộc.
4. 2. Chơi bài ( tú lơ khơ )
a- Chuẩn bị:
8 tấm bìa hình vuông được chia nhỏ vào các ô vuông. Ô đầu tiên ta
để trống, ô thứ 2 ta điền dấu > hoặc < hoặc =. Tiếp đó cứ cách 1 ô ta
điền 1 dấu bất kì vào.
Chuẩn bị 8 bộ bài mỗi bộ gồm 24 tấm bìa có ghi các số từ 0 đến 10
b- Cách tiến hành:
Giáo viên chia lớp học thành 5 nhóm. Mỗi nhóm 8 học sinh, phát
cho mỗi nhóm 1 tấm bìa to và 1 bộ tú bài. Sau khi cô giáo ra hiệu
lệnh, 4 em đàu tiên của mỗi nhóm sẽ cùng ra chơi. Một em chia bài
thành 4 phần đưa cho 4 bạn. Chọn 1 bạn làm cái được quyền ra 1 số
đầu tiên đặt vào ô thứ nhất của 1 tấm bìa. Bạn ngồi bên phải bạn làm
cái phải đặt tiếp theo sao cho số của bạn tạo thành một phep tính đúng.
Ví dụ ban đầu ra số 2 mà ô vuống thứ 2 lại ra dấu < thì bên phải phải
ra số . Như vậy ta được phép tính 2 < 4 là đúng. Ai ra bài đúng thì
người bên phải lại tiếp tục ra bài để điền tiếp. AI ra bài sai thì nười đó
phải ôm hết số bài có trên bìa nhường quyền đi cho bạn ngồi bên cạnh.
Nhưng nếu bạn trước ra bài mà bạn sau không đỡ được thì phải
nhường quiyền đánh cho bạn tiếp theo. Khi tất cả mọi người mà không

Sáng kiến kinh nghiệm


13

Lê Thị Hiển


đỡ được thì ta bỏ toàn bộ bài đó đi và tiếp tục chơi lượt khác và phần
ra cái thuộc về bạn thắng trong lượt trước. Người thắng cuộc trong trò
chơi này là người hết bài đầu tiên.
4. 3. Nhìn mũ bạn đoán mũ mình:
a- Chuẩn bị:
Những chiếc mũ giấy trên đó vẽ 1, 2, 3, 4 ngôi sao nhỏ.
b- Cách chơi:
Các đội lần lượt chơi mỗi đội 4 người. GIáo viên đội cho môic
người 1 chiếc mũ, 4 người đếm số trên mũ 3 người từ đó đoán được
mũ mình có bao nhiêu ngôi sao. Khi cả lớp hô 1, 2, 3 ca thành viên
trong đội phải lần lượt xếp theo thứ tự từ 1 đến 4. Đội thứ nhất song
đến lượt đội thứ 2, nhóm nào xếp đúng thì đội đó giành phần thắng
4. 4. Đoán số:
a- Chuẩn bị:
16 tấm thẻ cớ 4x6 ( cm ), trong đó ghi số 1, 4 tấm ghi sô 2, 4 tấm
ghi số 3, 4 tấm ghi số 4.
b- Cách chơi:
Hai tổ chùng chơi, mỗi tổ cử ra một đội năm người, 4 người được
phát mỗi người một thẻ ghi số. CÒn một người làm nhiệm vụ đoán số.
Người cầm htẻ số thì không nói gì, chỉ "gật" hoặc "lắc". Người đoán số
môic lần đoán số chỉ được tìm hiểu 1 lần, rõi trên cơ sở đó mà đoán sô.
Chẳng hạn số ghi trên thẻ là 3 người đoán số có thể đoán: Số này lớn
hơn 2. Người cầm thẻ “gật”. Người đoán số đoán số “Số bạn cầm là
4”. Người cầm thẻ lắc. Thì là người đoán số không thành công. Nếu

người đó đoán là số 3 thì người cầm thẻ gật và người đoán số sẽ thành
công. Lúc đó người đoán số nhận được thẻ số 3 cho đội mình. Trong
trường hợp không thành công thì không nhận gì cả. Sau khi cả 4 người
đoán xong, đội nào nhận được thẻ thì đội đó sẽ thắng cuộc.
4. 5. Truyền điện:
Cách tiến hành:
Các em học sinh ngồi hoặc đứng tại chỗ. Bắt đầu từ một em nào
đó, ví dụ em A. Em A xướng to một số trong phạm vi 10, chẳng hạn: 3

Sáng kiến kinh nghiệm

14

Lê Thị Hiển


và cầm tay bạn ngồi bên cạnh để truyền điện. Lúc này em ngôi bên
phải nói tiếp chẳng hạn “bé hơn” rồi cầm tay em ngồi bên cạnh để
truyền điện. Thế là em đó phải nói tiếp “4”
Nếu bạn nào nói đúng kết quả thì được quyền xướng to như bạn A.
Chẳng hạn 5 và nắm tay bạn bên cạnh đểt truyền điện. Các em tiếp
theo cũng lần lượt làm như vậy. Cứ như vạy nếu bạn nào nói sai hoặc
làm tính sai thì phải nhảy lò cò một vòng. Sau đó, bạn ấy được quyền
xướng to một số để tiếp tục chơi.
4. 6. Truyện kể toán học:
1- Hỏi mẹ:
Một bà mẹ hỏi cô gái 6 tuổi của mình:
- Con gái yêu của mẹ, con có mấy cái tay, mấy cái chân, mấy
cái tai, mấy cái mắt, mấy cái miệng?
Cô con gái đến nhẩm và trả lời đúng tất cả các câu hỏi của mẹ. Rồi

bỗng nhiên cô bé hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, tại sao người ta có hai tay, hai mắt, hai tai và chỉ có
một cái miệng.
Bà mẹ cười âu yếm trả lời:
- Người ta cần hai tay để làm được nhiều, cần hai tai để
nghe được nhiều, cần hai mắt để nhìn thấy nhiều và chỉ cần một
miệng để ăn vừa đủ và nói vừa đủ thôi con yêu quý của mẹ ạ.
2- Bài học qua cầu:
Cầu hẹp trên sông sâu
Dê đen và dê trắng
Bước lên hai đầu cầu
Giữa cầu chúng gặp nhau
Con nào cúng muốn mau
Không nhường nhau một bước
Dê đen lên tiếng trước.
- Tránh ra cho ta đi
Dê trắng chẳng kém gì
- Dẹp đường cho ta bước

Sáng kiến kinh nghiệm

15

Lê Thị Hiển


Nạt nộ nhau chẳng được
Hai dê liền húc nhau
Cả hai toặc da đầu
Cùng lăn tùm dưới nước

Không con nào sang trước
Không con nào sang sau
Nếu biết nhường nhịn nhau
Một con qua cầu trước
Một con bước sang sau
Thì chẳng phải toạc đầu
Hai con đều qua được
3- Đôi giầy và đôi đũa khác nhau như thế nào:
Chiều qua lúc đang làm thức ăn, mẹ nhờ bé Lan lấy cho mẹ một
đôi đũa. Bé vội ra chỗ để đũa lấy cho mẹ hai chiếc đũa. Mẹ khen
“Con ngoan và giỏi lắm”. Sáng nay, bố chuẩn bị đi làm. Bố có hai
đôi giầy đen giống hệt nhau, đặt ở trên giá. Bé Lan nhanh nhảu lấy
ra cho bố hai chiếc giầy. Bố mỉn cười, khen bé ngoan và không
khen bé giỏi, Bố đưa lại cho bé một chiếc giầy và bảo “Con cất
chiếc giầyg này đi và lấy cho bố một trong hai chiếc giày còn lại
trên giá” bé Lan tự hỏi “Sao hôm nay anh Hoàng mang giày ra cho
Bố thì Bố không bắt đổi ”
Nhận từ tay bé Lan chiếc giầy đã đổi, bố ôn tồn giải thióch
cho bé hiểu “Một đôi giầy gồm chiếc chân trái, một chiếc chân
phải. Lúc nãy con lấy cho bố hai chiếc giầy đều chân trái ra. Vì thế
bố bảo con đổi để lấy ra chiếc giầy chân phải mới đi được, con ạ”.
À ra thế hai chiếc đĩa lập thành một đôi đũa. Nhưng hai chiếc giầy
không lập thành một đôi giầy.
Từ đó bé Lan không bao giờ xỏ nhầm chân phải vào dép
trái và chân trái vào dép phải nữa
4- Bàn tay em
Em có đôi bàn tay bé bé xinh xinh
Năm nay em học lớp 1. Khi dạy chúng em số 5 cô giáo xoè

Sáng kiến kinh nghiệm


16

Lê Thị Hiển


bàn tay của cô ra và nói:
- Các con xem, bàn tay có 5 ngón tay. Người ta gọi các
ngón tay là: Ngón tay cái, ngón tay trỏ, ngón tay giữa,
ngón tay đeo nhẫn, ngón tay út. Các ngón tay to nhỏ dài
ngắn khác nhau. Các em hãy xoè bàn tay ra mà xem cho
rõ.
Em xoè bàn tay ra và nhận thấy ngón tay cái tách ra khỏi các tay
khác, các ngón tay này thì đứng liền kề với nhau. Em thắc mắc
không hiểu tại sao lại thế? Về nhà em hỏi được bố giải thích như
sau: “ ngón tay cái có tách ra khỏi các ngón tay khác thì con mới
cầm được đồ vật”. Nếu nó cũng đứng liền với các ngón tay khác
thì làm sao mà con cầm chắc được. Em hiểu rổi: “Thì ra bàn tay
của người ta tuyệt thật!”
5- Con cua
Ngày xưa con cua cũng như các con vật khác có mắt nhìn
thẳng và chân đi thẳng về phái trước.
Năm ấy, trời hạn nặng, cây cối khô héo hết, các con vật
khát đến cháy cổ. Bác Cóc là cậu ông trời dẫn đầu một đoàn đại
biểu các con vật, trong đó có cua càng đi kiện trời. Ông trời thua
kiện phải làm mưa.
Trên đường thắng lợi trở về, Cua ta chẳng may bị ngã, Mai
cua rạn nứt gồ ghề đôi mắt lồi to và quay ngang
Từ đó hình dáng của cua thay đổi nhưng muôn loài vẫn
nhận ra:

Con cua tám cẳng hai càng
Một mai hai mắt rõ ràng con cua
Vì bây giờ đôi mắt đã quay ngang nên
Con cua tám cẳng hai càng
Chẳng đi mà lại bò nang cả ngày
6- Đọc 6 thành 9
Hà ở trường về hớn hở khoe với bố:
- hôm nay cô giáo gọi con lên bảng làm bài tập toán. Con

Sáng kiến kinh nghiệm

17

Lê Thị Hiển


làm đúng hết. Cô khen con giỏi và thưởng cho điểm 10
- Con giỏi thật. Bố cũng sẽ thưởng cho con. Tối thứ bẩy này
bố sẽ đưa con đi xem xiếc. Trưa thứ 7, Hà hỏi bố:
- Chiều nay mấy giờ bố đi làm về?
Đang bận nghe điện thoại, bố không trả lời hà mà cầm bút viết
một số vào tờ giấy rồi chỉ cho Hà xem, Hà nhìn vào tờ giấy nét
mặt không vui:
- Mãi đến 9 giờ tối bố mới về. Thế mà bố bảo tối nay bố đưa
con đi xem xiếc.
Nghe điện thoại xong, bố bảo Hà:
- Con đọc đúng đấy nhưng không phải số bố định viết đâu. Bố
viết số 6 cơ mà. 6h chiều bố đi làm về, 7 h tối bố đưa con đi
xem xiếc, kịp quá đi chứ. Hà chợt hiểu tại sao mình đọc số 6
thành số 9, rồi chỉ cho Hà đọc thì Hà đọc ngược tờ giấy. Số 6

trông ngược đúng là số 9. Vì thế bố bảo hà đọc đúng. Nhưng ý
bố là viết số 6 kia.
7- Truyện kể ơcơlít
Ơcơlít sinh ra và lớn lên ở Aten, thủ đô Hi Lạp vào thế kỉ
thứ III trước CN. Ông là nhà toán học vĩ đại của Hi Lạp cổ đại. Bộ
sách cơ sở của ông là một trong những bộ sách được tái bản nhiều
nhất trên thế giới, qua rất nhiều thời đại khác nhau ( cho đến tận
đến ngày nay)
Ơcơlít là nhà khoa học có sức làm việc phi thường, có tinh
thần làm việc thận trọng và tính độc lạp trong nghiên cứu. Ông
cũng nổi tiếng là người thẳng thắn và trung thực.
Một lần hoàng đế plolêmê đệ nhất hỏi Ơcơlít xem có cách
nào giúp nhà vua nắm được môn hình học một cách dễ dàng và
nhanh chóng hơn là bộ sách cơ sở. Ơcơlít nói với nhà vua “Thưa
bệ hạ Toán học là khoa học chung cho mọi ngưòi, không con
đường nào dành riêng cho vua chúa cả.”
8- Truyện kể về Nguyễn Hiền:
Nguyễn Hiền là người làn Dương A Phủ Thiên trường (nay

Sáng kiến kinh nghiệm

18

Lê Thị Hiển


là xã Nam thắng – Nam Ninh – Nam Định )
Truyện kể rằng năm lên 6 tuổi, Nguyễn Hiền theo một nhà
sư trong làn sách chỉ đọc qua là nhớ. Sư viết được trang nào là
Hiền thuộc ngay, như thế đã đọc trước rôi. Hiền học lớp 1 biết 10.

Năm 11 tuổi đã nổi tiếng là Thần Đồng. Năm Bính Ngọ (1246)
Hiền dự thi và đỗ thủ khoa, tiếp đến khoa thi năm 1247 đỗ trạng
Nguyên. Bài thi do nhà vua ra đề, hiểu được ý không phải là dễ mà
lại còn yêu cầu diễn đạt bằng thi phú nữa. Nguyễn Hiền không chỉ
hoàn thành bài thi mà còn cung yết kiến vua. Vua thấy trạng còn
quá nhỏ mà thông thái hơn người, bèn hỏi:
- Trạng Nguyên học ở đâu?
Nguyễn Hiền cứ thực tình tâu:
- Thần tự học lấy, nếu gặp chữ không hiểu thì phải sư ông
trong làng. Nhà vua thấy trạng nói năng tự nhiên, chưa
hiểu lễ nghĩa của triểu đình bấy giờ, bèn cho trạng về nhà
học
II. Rèn nề nếp học tập trên lớp:
* Khi bắt đầu cắp sách đến trường, hầu hết các em đều chưa có ý thức về nề nếp trong
học tập. Mọi môn học đối với các em là hoàn toàn mới mẻ, khác hẳn với ở lớp mẫu giáo, gây
nhiều lúng túng cho các em trong mỗi giờ học ví dụ như việc sử dụng đúng sách, vở, đồ dùng
học tập cho từng môn học; hay lấy được sách rồi lại loay hoay với việc tìm bài học...
* Đến lớp học sinh được rèn nhiều kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết. Tất cả các kĩ năng
đó được rèn luyện thường xuyên trở thành thói quen, thành nề nếp trong học tập.
Ví dụ: trong giờ học vần, học sinh khi nào phát âm, đánh vần, khi nào đọc trơn, phân
tích tiếng hay luyện nói đều theo hiệu lệnh của giáo viên:
- Khi đánh vần, đọc trơn, giáo viên chỉ từng chữ ghi âm hay cả tiếng, từ.
- Khi phân tích, giáo viên đặt ngang thước dưới tiếng hay từ cần phân tích. Học sinh
thực hành theo dãy, theo nhóm v.v...
Tất cả những việc ấy đều cần có một nề nếp tốt nếu không sẽ ảnh hưởng tới chất lượng
học tập của một giờ học.
Trên thực tế khi đi học rất nhiều em còn thiếu sách vở đồ dùng: giờ toán quên vở bài
tập; giờ học vần, tập đọc quên sách Tiếng Việt; giờ viết không có bút... cá biệt có em không

Sáng kiến kinh nghiệm


19

Lê Thị Hiển


mang cả cặp sách vì sáng ra dậy muộn, gia đình quên nhắc nhở v.v... vì vậy, các em không
hoạt động học tập cùng các bạn làm ảnh hưởng đến không khí học tập của cả lớp. Do đó, cần
hình thành nề nếp học tập, tạo thói quen cho học sinh giờ nào việc nấy là việc làm cần thiết
không thể thiếu được.
* Trong những giờ học tập trên lớp, để đảm bảo không khí “học mà vui, vui mà học”,
giáo viên cần hướng cho học sinh có nếp giơ tay phát biểu ý kiến, nếp chăm chú nghe giảng
hay ý thức tham gia các trò chơi học tập v.v...
Việc này cần có định hướng vì tâm lý lứa tuổi còn nhỏ lại chưa bao giờ được uốn nắn
trong việc học tập nên khi giáo viên hỏi, các em thường trả lời tự do lúc giáo viên chưa cho
phép hoặc có em đã biết giơ tay xin phát biểu, nhưng chưa đúng cách.
Chính vì vậy tôi thấy rằng: để dạy một tiết học đủ thời gian 35 phút có chất lượng và
đảm bảo được không khí học tập của lớp thì phải đưa các em vào nề nếp học tập ngay từ đầu
năm học.
III. Rèn nếp học tập ở nhà:
Rèn nếp học tập ở nhà là một phần rất quan trọng trong vấn đề hình thành nề nếp học
tập cho học sinh lớp một.
Hiện nay, tuy học sinh lớp một đã được học 2 buổi/ ngày, toàn bộ phần bài làm, bài
học được giáo viên hướng dẫn và hoàn thành ngay trên lớp nhưng vẫn cần rèn cho các em có
nề nếp buổi tối về nhà biết ngồi vào góc học tập của mình, để đọc lại phần bài vừa học trong
ngày và cùng với sự hướng dẫn của bố mẹ, tự soạn sách vở và đồ dùng học tập cho ngày hôm
sau.
Hàng ngày thực hiện đều đặn như vậy đồng thời với việc sáng sáng trong giờ truy bài
các cán bộ lớp sẽ kiểm tra sự chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập của từng bạn để báo cáo cô
giáo kịp thời nhắc nhở những bạn còn vi phạm, sai, thiếu đồ dùng học tập hay chưa chuẩn bị

tốt bài. Lâu dần các em sẽ có thói quen về nề nếp học tập ở nhà và sang học kỳ 2 các em có
thể tự giác ngồi vào bàn học không cần sự nhắc nhở của bố mẹ cũng như tự soạn lấy sách vở
và đồ dùng học tập cho mình.
Như vậy nề nếp học ở nhà rất cần thiết và có lợi cho các em khi học ở các lớp sau.
(Tất cả những điều này tôi đã thống nhất với cha mẹ học sinh qua buổi họp phụ huynh đầu
năm).
IV. Rèn nếp giữ gìn sách vở đồ dùng học tập:

Sáng kiến kinh nghiệm

20

Lê Thị Hiển


“Nét chữ nết người”
hay:
“Chữ đẹp là tính nết
Của những người trò ngoan”
Chúng ta đều biết điều đó và thường một người học sinh giỏi , ngoan bao giờ sách vở
đồ dùng học tập cũng đầy đủ, ngăn nắp, sách vở được giữ gìn cẩn thận, không quăn mép,
quyển vở ngay ngắn, sạch đẹp...
Rèn nếp giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập cũng là một trong những việc quan trọng
trong việc dạy dỗ các em.
Các em chưa thực sự có ý thức trong việc giữ gìn sách vở đồ dùng học tập. Nhiều em
quyển sách còn chưa được bọc cẩn thận dẫn đến rách bìa, bong trang, quyển vở quăn mép…
Đồ dùng học tập tuy có nhưng vì chưa cẩn thận nên hay hỏng hoặc mất…
Như vậy việc giữ gìn sách vở đồ dùng học tập cũng ảnh hưởng tới chất lượng học và
nề nếp học tập.
Ngay trong từng tiết học, nề nếp học tập cũng ảnh hưởng tới việc giữ gìn sách vở đồ

dùng học tập, cụ thể là học sinh cần có đầy đủ sách vở đồ dùng học tập của từng môn, thực
hiện giờ nào việc nấy theo hướng dẫn của giáo viên, có nếp khi sử dụng sách vở, cách giơ tay
phát biểu, cách đặt tay khi viết để sách vở không bị quăn mép…
Như vậy, học sinh có giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập tốt thì mới luôn có đầy đủ
sách vở và đồ dùng học tập phục vụ cho tiết học. Ngược lại nề nếp học tập trong mỗi tiết học
cũng giúp học sinh có ý thức và thói quen trong việc giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập.
Thực tế là học sinh lớp một ở độ tuổi 6 tuổi, các em còn non nớt, lần đầu tiên cắp sách
tới trường còn nhiều bỡ ngỡ. Hơn nữa đa số các em được bố mẹ chiều chuộng, ví dụ: còn bế
đi học, dỗ dành con vào lớp…Các em chưa có tính tự lập trong học tập. Việc đi học và học tập
cơ bản phụ thuộc vào bố mẹ, ví dụ : Bố mẹ soạn đồ dùng sách vở, thậm chí bài về nhà cũng
làm hộ cho con. Còn những gia đình không quan tâm thì: sách vở và đồ dùng học tập của các
em luôn thiếu. Như vậy vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng học tập trên lớp, kết quả kém, đồng
thời làm nề nếp không khí học tập của lớp cũng lộn xộn…Từ cơ sở thực tế và những vấn đề
cần thiết đã nêu để xây dựng cho học sinh lớp một có được nề nếp học tập tốt, tôi nhận thấy
rằng giáo viên phải kết hợp với cha mẹ học sinh kiên trì và thường xuyên uốn nắn, nghiêm túc
và thực hiện tốt yêu cầu do giáo viên hay cha mẹ đưa ra khi hướng dẫn các em học tập và tôi
đã đề ra phương hướng giải quyết như sau:

Sáng kiến kinh nghiệm

21

Lê Thị Hiển


B – PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT:

Để các em có sự chuyển biến nếp học tập tốt hơn lên trong từng tuần, từng tháng và
hết học kỳ 1 các em phải có nếp học tốt, nếp học đó phải trở thành kỹ năng của các em, ở lớp
cô không phải nhắc mà các em vẫn thực hiện tốt, ở nhà tự giác ngồi học. Cuối năm vẫn duy trì

được nếp đó và tiếp các năm sau các em vẫn thực hiện tốt.
Giáo viên cần chú ý xác định rõ học lực và hoàn cảnh từng em, đề ra yêu cầu cụ thể,
có hướng giúp đỡ học sinh cá biệt.
Rèn nếp trong từng môn, từng ngày, từng tuần, hàng tháng (nếu các em chưa thực sự
có ý thức - phải sửa nắn kịp thời). Tuy nhiên, trong từng tiết học mục đích của giáo viên là
đảm bảo chất lượng dạy và học - học sinh thực sự học mà vui, vui mà học, không khí học tập
không căng thẳng mà sôi nổi, vui trong sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phải có nề nếp
trong học tập của từng môn.
Do vậy người giáo viên phải thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, gây hứng thú
học tập cho học sinh để việc học tập trở thành niềm vui tạo không khí học tập phấn khởi hăng
say cho học sinh. Có như vậy các em mới có hứng thú trong học tập, đồng thời giáo viên vẫn
đảm bảo việc duy trì nề nếp cho học sinh trong học tập.
Từ các phương hướng và mục đích trên tôi tiến hành bằng các biện pháp cụ thể như
sau:

C – BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

1. Đối với giáo viên chủ nhiệm:
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh kỹ càng tỉ mỉ ngay từ đầu.
- Bước vào học lớp một, các em chưa viết được nên đầu năm học tôi phát cho các em
một thời khoá biểu, hướng dẫn các em mang về dán ở góc học tập. Tại lớp trong từng môn
học tôi hướng dẫn kỹ càng về sách vở, đồ dùng học tập cho từng môn.Các em có thể nhận biết
các loại sách vở qua bìa của sách và nội dung bài học của từng ngày. Đồ dùng học tập của các
em tôi yêu cầu (trong học kỳ1) mỗi em có hai bút chì đã gọt đầu, tẩy, thước, bộ đồ dùng học
toán và Tiếng Việt, đến giữa học kỳ 1 có thêm 2 bút mực, khăn lau bút.

Sáng kiến kinh nghiệm

22


Lê Thị Hiển


Đồng thời qua buổi họp phụ huynh đầu năm tôi nêu yêu cầu kết hợp giữa giáo viên ở
lớp và phụ huynh ở nhà trong việc hướng dẫn các em chuẩn bị sách vở, dụng cụ học tập cho
buổi học hôm sau.
Ví dụ: Thứ hai có: Học vần; Đạo đức, Toán; Hướng dẫn tự học thì học sinh phải mang
đủ:
+ Sách Tiếng Việt

+ Vở thực hành Đạo đức.

+ Bộ thực hành Tiếng Việt.

+ Bảng con + phấn.

+ Hộp bút.

+ Sách Toán

+ Vở luyện viết.

+ Bộ thực hành Toán.

Sáng kiến kinh nghiệm

23

Lê Thị Hiển



Những công việc này học sinh cần thực hiện một cách cụ thể và đều đặn. Để học sinh
không quên việc chuẩn bị sách vở cho ngày hôm sau, bao giờ tôi cũng giao việc về nhà: đọc lại phần bài
vừa học, sau đó các em sẽ phải chuẩn bị sách vở (cùng với sự giúp đỡ của cha mẹ học sinh). Hàng ngày
các em đều qua sự kiểm tra của cán bộ lớp trong giờ truy bài về việc chuẩn bị sách vở đồ dùng học tập,
do đó giáo viên chủ nhiệm nắm được cụ thể từng ngày thực hiện của các em. Như vậy việc đọc lại bài
của các em đã trở thành việc nhắc nhở các em phải chuẩn bị sách vở cho hôm sau mà các em không
quên được.
- Việc học sinh ôn lại bài học ở nhà và chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, rất cần thiết
cho việc xây dựng nề nếp học tập ở các em. Việc này cần trở thành một thói quen, một phần không thể
thiếu của ngày đi học. Có như vậy mới phát huy tác dụng trong việc rèn các em vào nề nếp trong học
tập. Việc này giáo viên cũng cần kiểm tra thường xuyên (thông qua cán bộ lớp) để các em ý thức được
việc học tập của mình. Đồng thời cô giáo cần luôn rèn luyện tác phong gương mẫu giờ nào việc nấy tạo
ấn tượng tốt cho học sinh. Luôn trau dồi kiến thức, xây dựng các giờ học mẫu mực, vui vẻ nhẹ nhàng
mà hiệu quả giúp học sinh thêm yêu việc học tập.
- Giáo viên cũng cần tổ chức cho các em vui chơi trong quá trình học tập và xây dựng những đôi
bạn cùng tiến để các em hăng hái hơn trong các hoạt động ở lớp.
2. Đối với học sinh:
Để học sinh có thói quen giờ nào việc nấy thì việc giáo viên thực hiện tốt lần lượt đầy đủ các
môn học là cần thiết. Các tiết học không được kéo dài, gây cho sinh mệt và chán nản. Dạy đủ 35 phút
một tiết, giữa tiết các em được nghỉ 5 phút. Khi chuyển tiết các em được hát và nghỉ 5 phút để chuẩn bị
cho tiết học sau.
- Thời gian đầu (một tháng) tôi kiểm tra hàng ngày từng em. Khi đã thành nề nếp rồi tôi giao
việc kiểm tra cho cán bộ lớp, cụ thể là các em tổ trưởng, sau báo cáo lại cho giáo viên. Phải có sự kiểm
tra thường xuyên tất nhiên phải có em thực hiện tốt, có em chưa tốt. Tôi hướng dẫn các em tổ trưởng
ghi lại sự kiểm tra của các em vào sổ thi đua của tổ. Cuối tuần tổng kết vào buổi sinh hoạt lớp. Tổ nào,
cá nhân nào tốt sẽ được khen, biểu dương có phần thưởng ( khen hoặc thưởng có khi chỉ là một quyển
vở, tẩy hoặc mỗi em một nhãn vở). Còn em nào chưa tốt hay quên đồ dùng hoặc sách vở thì sẽ nhắc
nhở, rút kinh nghiệm trước lớp, nếu nhiều lần giáo viên sẽ ghi vào sổ liên lạc và kết hợp cùng phụ
huynh học sinh để khắc phục.

- Việc ngăn nắp trong khi sắp xếp sách vở và đồ dùng học tập cũng là yếu tố quan trọng dẫn đến
học tập tốt. Tôi hướng dẫn các em cách lấy sách vở trong cặp nhanh không gây tiếng động, thực hiện
được theo các ký hiệu của giáo viên yêu cầu, ví dụ: b: lấy bảng; sTV: sách Tiếng Việt… Em nào đã sắp
xếp sách vở ở nhà một cách khoa học thì lấy vở nhanh, tôi cho các em thi đua xem em nào, tổ nào làm
nhanh (trong thời gian đầu) khi cô nói và viết tên môn học trên bảng thì là lúc các em lấy sách vở của
môn đó ra, và khi cô giáo giới thiệu bài học, viết tên bài học trên bảng thì các em phải mở đúng sách vở
phần bài học. Giữa giáo viên và học sinh có sự kết hợp nhịp nhàng. Tôi thấy tiết học rất nhẹ nhàng và


đảm bảo đủ thời gian cho các hoạt động học tập.
- Trong tiết học khi cần phát biểu tôi hướng dẫn học sinh nếp giơ tay phát biểu như: chống
khuỷu tay trái xuống bàn, giơ thẳng, bàn tay khép lại. Không nói leo, gây ồn ào trong giờ học.
- Trong giờ học vần: Khi gọi các em đọc bài sách giáo khoa tôi luôn uốn nắn cách cầm sách
không bị bẻ gáy, không bị quăn mép, hướng dẫn tỉ mỉ cách đứng đọc, cách lấy hơi để các em đọc to và
rõ ràng.
- Hoặc trong giờ tập viết: Ngoài việc hướng dẫn các em viết đúng, đúng kỹ thuật và đẹp các em
còn phải biết sử dụng bút khi viết, không được ấn mạnh quá sẽ gẫy ngòi, hoặc sẽ rách vở, không tỳ tay
làm quăn mép vở…Việc rèn nếp giữ vở sạch đẹp là vô cùng quan trọng trong nếp học tập của người học
sinh.
Như vậy việc rèn nếp giữ gìn sách vở ngay trong giờ học – học sinh được hướng dẫn thực tế và
uốn nắn kịp thời, lâu dần sẽ hình thành ở các em thói quen tốt.
3. Kiểm tra nề nếp học tập của học sinh thông qua đội ngũ cán bộ lớp:
Ở bất cứ lớp nào việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp là hết sức quan trọng và cần thiết. Riêng ở
lớp một lại càng quan trọng hơn vì nó là nền tảng, là bước đầu cho các năm học phổ thông. Vì vậy, xây
dựng một đội ngũ cán bộ lớp tốt là việc rất quan trọng mà người giáo viên phải có kế hoạch thực hiện.
Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học
tập của các bạn là một công việc cần thiết và có ích. Ở đây tôi chỉ nói đến phạm vi hẹp: đó là trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ lớp trong việc hình thành, xây dựng nề nếp học tập cho học sinh.
- Trước hết, những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu trước các
bạn về mọi mặt: học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè…Vấn đề này giáo viên cần

theo dõi và uốn nắn học sinh kịp thời cũng như để lựa chọn chính xác.
- Sau đó, hàng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm bốn tổ phó, bốn tổ trưởng, hai lớp phó,
một lớp trưởng sẽ tiến hành công việc của mình.
* Đầu giờ (giờ truy bài) : Tổ trưởng và tổ phó kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của các bạn: soạn
sách vở đầy đủ theo thời khoá biểu, mang đủ đồ dùng học tập, có ý thức xem trước bài mới…rồi tổ
trưởng chấm điểm vào sổ thi đua tổ.
* Các tổ trưởng tập hợp kết quả tổ của mình báo cáo với lớp trưởng hay lớp phó ( nếu lớp
trưởng vắng) và đầu mỗi giờ học, lớp trưởng sẽ báo cáo cô giáo chủ nhiệm. Thời gian ổn định tổ chức
giáo viên trực tiếp nhắc nhở từng học sinh vi phạm hay khen ngợi nếu lớp đầy đủ…
Trường hợp vi phạm hai lần trở lên giáo viên sẽ thông báo về cho phụ huynh học sinh biết để kịp
thời đôn đốc con em thực hiện tốt nề nếp học tập. Có như thế các em mới nhớ và tạo thói quen có nề
nếp tốt trong học tập.
4. Kết hợp với giáo viên bộ môn:
Ngay từ khi học sinh bước vào lớp một, ngoài cô giáo chủ nhiệm lớp , các em còn được học các
thầy, cô giáo bộ môn như: Hát, Mỹ thuật, Thể dục…nên việc rèn nếp cho học sinh lớp một là rất cần


×